Xem mẫu

  1. LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO SINH VIÊN… LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP, MỘT BƯỚC ĐỂ GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SAU KHI RA TRƯỜNG TS. Bùi Xuân Dũng Trường Cán bộ quản lý giáo dục TP.HCM Hiện nay, sinh viên ra trường thất nghiệp đang là vấn đề đáng báo động trong xã hội. Câu hỏi đặt ra ở đây là nguyên nhân của tình hình thất nghiệp sinh viên hiện nay là do đâu? Hậu quả để lại là gì? Vấn đề đó đã gây thiệt hại gì cho nền kinh tế nước nhà? Và chúng ta phải làm gì để khắc phục tình trạng trên? Có rất nhiều câu hỏi và giải pháp được đặt ra, song vẫn chưa khắc phục triệt để được tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội khoảng 60% sinh viên ra trường làm trái ngành và tính đến đầu năm 2017 có hơn 200.000 cử nhân thất nghiệp. Theo bản tin cập nhật thị trường lao động, quý III cả nước có 1.074.800 lao động trong độ tuổi thất nghiệp, giảm 6.800 người so với quý II/2017. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi giảm còn 2,21%. Đáng lưu ý, sau hai quý liên tiếp, tỷ lệ thất nghiệp của nhóm có trình độ đại học giảm còn 2-3% đã đột ngột tăng trở lại 4,5% trong quý III. Số người thất nghiệp có trình độ đại học trở lên là 237.000 người, tăng 53.900 người so với quý II. Nhóm trình độ cao đẳng cũng có tỷ lệ thất nghiệp cao với 84.800 người thất nghiệp và nhóm trình độ trung cấp có 95.500 người thất nghiệp. Hiện cả nước có 412 trường Đại học, Cao đẳng, trung bình mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường Đại học, Cao đẳng. Cả nước có khoảng 2,2 triệu sinh viên trong tổng dân số 95 triệu dân, cao hơn cả các quốc gia phát triển. Con số đó đã phản ảnh thực trạng đào tạo ồ ạt ở nước ta. Việc đào tạo ồ ạt dẫn đến nghịch lý là số lượng sinh viên đông nhưng chất lượng chưa tương xứng đã khiến các cử nhân sau khi ra trường khó có thể tìm cho mình một công việc thích hợp. Sinh viên khó có khả năng tiếp cận thị trường lao động do kỹ năng mềm còn hạn chế. Nhiều cử nhân khi làm việc tại các doanh nghiệp thì vẫn phải đào tạo lại. Một nghiên cứu mới đây của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) chỉ ra rằng, lao động Việt Nam mất một thời gian khá lớn để tìm, làm quen với công việc sau khi ra trường. Điều này bắt nguồn từ sự kết hợp chưa thực sự tốt giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo. Thực tế, sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa thể làm việc ngay mà mất thời gian học thêm các kỹ năng khác, hoặc doanh nghiệp phải đào tạo thêm từ 3-6 tháng. Tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường có rất nhiều nguyên nhân: khả năng ngoại ngữ kém, các kỹ năng mềm (kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình…) còn yếu; kỹ năng làm việc và tay nghề của người lao động vẫn còn yếu; yêu cầu của người 296
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC sử dụng lao động cao hơn so với năng lực của người lao động; nhiều sinh viên khi ra trường không thích vào làm việc ở các doanh nghiệp mà muốn vào làm việc ở các cơ quan nhà nước; năng lực thực sự của người lao động lại không đồng nhất với tấm bằng mà họ đang có; thị trường lao động luôn luôn biến động và số lượng sinh viên ra trường quá lớn so với nhu cầu hấp thụ của các doanh nghiệp… Tuy nhiên, ngoài những lý do xuất phát từ sinh viên như không định hướng nghề nghiệp rõ ràng, không chủ động trong học tập, hạn chế về ngoại ngữ hay thiếu kỹ năng mềm…, việc thất nghiệp ở sinh viên mới ra trường, cơ sở đào tạo cũng phải chịu trách nhiệm, đó chính là mối quan hệ vẫn chưa chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp. Hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp là yếu tố quan trọng giúp giải quyết việc làm cho sinh viên. Với sự hỗ trợ của doanh nghiệp, sinh viên sẽ được đào tạo bằng kiến thức, kỹ năng thực tế thay vì lý thuyết suông, chất lượng đào tạo và đặc biệt là triển vọng việc làm nâng cao. Nhưng hiện nay quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp vẫn là một chiều, chủ yếu thông qua các mối quan hệ cá nhân. Hai bên chưa có sự phối hợp chặt chẽ và cũng chưa có cơ quan nào đứng ra gắn kết, thúc đẩy. Hệ quả ngay trước mắt là không ít trường hợp gặp khó khăn khi liên hệ để tìm chỗ thực tập bởi doanh nghiệp cảm thấy bị làm phiền. Điều quan trọng nhất trong mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp là đôi bên cùng có lợi. Để có thể kết nối với doanh nghiệp, nhà trường phải cho họ thấy họ được lợi gì? Chẳng hạn, doanh nghiệp cần nhân lực thời vụ thì nhà trường có thể cung cấp. Trường cũng phải có kinh phí để trả cho doanh nghiệp khi gửi sinh viên thực tập, coi như học phí đào tạo mặc dù nhiều doanh nghiệp không yêu cầu. Hiện nay, quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp vẫn là một chiều, chủ yếu thông qua các mối quan hệ cá nhân. Hai bên chưa có sự phối hợp chặt chẽ và cũng chưa có cơ quan nào đứng ra gắn kết, thúc đẩy. Thậm chí, nhiều trường đại học đã gặp khó khăn khi liên hệ để tìm chỗ thực tập cho sinh viên bởi doanh nghiệp cảm thấy bị làm phiền. Ở một số ngành, sinh viên phải tự liên hệ nơi thực tập cho mình. Nhiều môn học trong chương trình đào tạo không còn phù hợp với đòi hỏi thực tế của thị trường. Các nhà quản lý đào tạo và nhà chuyên môn chưa năng động trong việc đổi mới chương trình. Rèn luyện kỹ năng làm việc cho sinh viên đang là đòi hỏi bức thiết hiện nay. Và điều đó chỉ có thể làm tốt khi trường đại học tăng cường phối hợp với doanh nghiệp, với các tổ chức nghiên cứu. Như vậy, một trong những cách thức để giúp sinh viên sau khi ra trường có tỷ lệ có việc làm cao, là xác lập mối quan hệ vững chắc giữ nhà trường, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, nơi hấp thụ nguồn lao động đó. Xác lập mối quan hệ giữa nhà trường với doanh nghiệp chính là việc đẩy mạnh hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để chia sẻ các nguồn lực chung về cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực, rút ngắn thời gian chuyển giao từ kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống. Mối quan hệ hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp được hiểu như là những giao dịch giữa các trường đại học và các tổ chức sản xuất kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên. 297
  3. LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO SINH VIÊN… Đẩy mạnh việc hợp tác này và khai thác giá trị của nó có thể giúp nhà trường tháo gỡ những khó khăn về tài chính, và giúp các doanh nghiệp đạt được hoặc duy trì ưu thế cạnh tranh trong thị trường năng động ngày nay, đồng thời đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia và đáp ứng đòi hỏi của thị trường lao động. Có thể định nghĩa quan hệ hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp là tất cả mọi hình thức tương tác trực tiếp hay gián tiếp, có tính chất cá nhân hay tổ chức giữa trường đại học và các doanh nghiệp nhằm hỗ trợ lẫn nhau vì lợi ích của cả hai: hợp tác trong nghiên cứu và phát triển, kích thích sự vận động năng động qua lại của giảng viên, sinh viên và các nhà chuyên môn đang làm việc tại các doanh nghiệp; thương mại hóa các kết quả nghiên cứu; xây dựng chương trình đào tạo; tổ chức học tập suốt đời; hỗ trợ các nỗ lực sáng nghiệp và quản trị tổ chức. Trên toàn thế giới, mọi quốc gia đều đang đương đầu với những thách thức to lớn trong việc không ngừng đáp ứng với đòi hỏi của một thị trường toàn cầu hóa, quốc tế hóa cao độ và năng động chưa từng có. Sân chơi của một thế giới phẳng khiến tất cả các nước đều đối mặt với một thách thức cách đây năm mươi năm là không thể hình dung ra được, do khả năng tiếp cận và hòa nhập với thị trường toàn cầu đã mở rộng hơn bao giờ hết. Trong một vài thập kỷ vừa qua, đã có một sự thay đổi nhanh chóng trong nhận thức của các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lý đại học, về cái được gọi là “sứ mạng thứ ba” của trường đại học. Thông qua sứ mạng này, vai trò của các trường đại học tập trung vào việc đóng góp cho xã hội bằng những cách thức có ý nghĩa thực tiễn như sáng tạo tri thức mới và chuyển giao công nghệ. Những năm gần đây, nhiều trường đại học rất có ý thức về những cách thức phong phú họ có thể đóng góp trực tiếp cho xã hội, như là tổ chức học tập suốt đời, hỗ trợ các nỗ lực sáng nghiệp, giao lưu với các doanh nghiệp. Nhờ đó, những giá trị và lợi ích đạt được qua hợp tác với các doanh nghiệp đã trở nên ngày càng quan trọng đối với các trường và ngày càng được công nhận rộng rãi. Thời gian qua ở nước ta, chất lượng đào tạo đại học ở nhiều ngành nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Phần lớn doanh nghiệp sau khi tuyển dụng phải đào tạo lại. Một bộ phận không nhỏ người lao động đã được đào tạo nhưng doanh nghiệp từ chối tuyển dụng sau khi phỏng vấn, kiểm tra tay nghề thực tế. Thực tế là, doanh nghiệp chưa thực sự tin là mối quan hệ với trường đại học sẽ mang lại lợi ích cho họ. Mặt khác, hầu hết các trường đại học không có đủ thông tin về nhu cầu sử dụng lao động; trong khi sự chuyển đổi công nghệ của doanh nghiệp diễn ra liên tục, nên việc gắn đào tạo với sử dụng cũng phải thay đổi theo. Trong các trường đại học hiện nay, quan niệm “giỏi” mới dừng ở mức học giỏi, thi giỏi, chứ chưa phải là làm giỏi. Tinh thần thực học, thực nghiệp vẫn chưa có được chỗ đứng vững chắc trong nhà trường, nên việc đào tạo còn xa rời yêu cầu của thực tiễn. 298
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC Đa số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta vẫn đầu tư theo kiểu “ăn xổi”, ít chú trọng đến phát triển bền vững lâu dài, nên ít đầu tư xây dựng nguồn nhân lực. Các tổng công ty lớn hay các doanh nghiệp nhà nước thì vẫn được Nhà nước bao cấp, ưu ái, còn trường đại học thì thường đào tạo theo chương trình đã lên khung cứng nhắc từ trước mà không thay đổi vì chưa có đủ động lực để thay đổi. Ở góc độ vĩ mô, nước ta đã có một số quy định nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp, tạo cơ sở pháp lý ban đầu cho quá trình liên kết: Quyết định số 42/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28-7-2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về “Liên kết đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học”, cùng một số văn bản ban hành gần đây của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về đào tạo nghề cũng góp phần thuận lợi cho việc liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp... Để trường đại học và doanh nghiệp liên kết một cách có hiệu quả, cần phải có hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ: Thứ nhất, nâng cao năng lực đào tạo thông qua bồi dưỡng trình độ của đội ngũ giảng viên, đầu tư cơ sở vật chất thiết yếu; cập nhật, đổi mới chương trình nhằm bảo đảm chất lượng giáo dục. Đồng thời thiết lập bộ phận chuyên trách về liên kết, hợp tác với doanh nghiệp. Phát huy vai trò cầu nối của các tổ chức và cá nhân để ký kết thỏa thuận hợp tác hoặc mua cổ phiếu để trở thành cổ đông của những doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chính sát với các ngành đào tạo của mình (theo hình thức riêng lẻ từng trường hoặc liên kết nhóm trường đại học cùng ngành đào tạo). Việc trở thành cổ đông (đặc biệt là cổ đông lớn, cổ đông chiến lược) của doanh nghiệp là điều kiện quan trọng để hai bên gắn kết quyền lợi và trách nhiệm. Cũng từ cách thức liên kết này, nhà trường có thể thâm nhập sâu vào toàn bộ quy trình hoạt động của doanh nghiệp nói chung, nhu cầu về nhân lực nói riêng, mặt khác cơ sở đào tạo đại học có điều kiện nâng cao năng lực và hiệu quả đầu tư tài chính trước xu thế “tự chủ đại học”- dự kiến bắt đầu từ năm 2020. Thứ hai, giải quyết vấn đề nguồn tài chính cho quá trình đào tạo nguồn nhân lực. Thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục bằng việc liên kết về tài chính và cơ sở vật chất. thường xuyên thống kê cung - cầu nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao để điều tiết lĩnh vực giáo dục - đào tạo cho phù hợp. Hoàn thiện cơ chế hoạt động của các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục trên tinh thần cạnh tranh, độc lập tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Thiết lập nhiều kênh kết nối trường đại học với doanh nghiệp. Cơ quan quản lý có thể đứng ra tổ chức các sân chơi, các diễn đàn để nhà trường và doanh nghiệp gặp nhau, như sàn giao dịch công nghệ, gặp gỡ nhà trường - doanh nghiệp. Tổ chức để nhà trường và doanh nghiệp rút kinh nghiệm sau mỗi giai đoạn hợp tác để nâng cao hiệu quả liên kết trong tương lai. Bên cạnh đó, cần thay đổi cơ chế quản lý để nhà trường và doanh nghiệp có quyền tự chủ nhiều hơn. Khi đó, nhà trường sẽ được tự quyết định chương trình đào tạo của mình để kịp thời bắt nhịp với nhu cầu của xã hội và của nhà tuyển dụng; còn nhà tuyển dụng sẽ được tự do lựa chọn tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng. Hai bên sẽ hợp tác với nhau vì lợi ích sống còn của mình. Nhà nước sẽ đóng vai trò là “trọng tài” 299
  5. LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO SINH VIÊN… giải quyết những bất đồng, xung đột lợi ích giữa hai bên liên kết. Và phải có cơ chế hỗ trợ nhà trường và doanh nghiệp thành lập các quỹ đầu tư phát triển chung để gia tăng sự ràng buộc, nâng cao tính năng động cũng như trách nhiệm của các chủ thể liên kết. Thứ ba, gắn kết với doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình đào tạo. Thường xuyên cung cấp thông tin về chương trình, giáo trình, nội dung, phương pháp giảng dạy cũng như đề xuất những nhu cầu thiết yếu khác tới phía doanh nghiệp. Định kỳ tiếp xúc để tìm hiểu nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp, qua đó góp phần xây dựng chuẩn đầu ra cho quá trình đào tạo. Thiết lập cơ chế thỏa đáng nhằm khuyến khích các tập thể và cá nhân trên danh nghĩa cơ sở đào tạo đại học, ký kết hợp tác chiến lược toàn diện với doanh nghiệp để tạo điều kiện cho sinh viên trong quá trình thực tập, thực hành, định hướng nghề nghiệp cũng như cung cấp trang thiết bị cho nhà trường... Trường đại học cần mở ra các điều kiện để đội ngũ doanh nhân trực tiếp tham gia giảng dạy những nội dung cần thiết có thiên hướng thực hành trong chương trình đào tạo. Đồng thời doanh nghiệp chủ động phối hợp với trường đại học trong việc biên soạn giáo trình, nội dung và phương pháp giảng dạy, bảo vệ đồ án, luận văn tốt nghiệp... để chương trình đào tạo “ăn khớp” với nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội. Chủ trương đưa các doanh nhân vào hội đồng trường đại học thời gian gần đây được nhìn nhận là một bước tiến trong chiến lược xã hội hóa giáo dục cũng như đào tạo theo nhu cầu xã hội. Thứ tư, đẩy mạnh mô hình hợp tác thông qua gắn kết việc điều hành nhân sự và tham gia quá trình đào tạo bằng cách ưu tiên tuyển dụng những giảng viên có kinh nghiệm làm việc trong các doanh nghiệp, xây dựng tiêu chuẩn đứng lớp đối với giảng viên như căn cứ vào trình độ chuyên môn, chuyên ngành, kinh nghiệm thực tế. Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác NCKH và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Có thể thấy, tuy các cán bộ giảng dạy ít trải nghiệm thực tế về chuyên ngành, song hầu hết các thầy cô lại rất nhanh nhạy với những vấn đề, những công trình khoa học mới, có tính thời sự. Trong khi đó, các nhà khoa học xuất phát từ thực tiễn, các doanh nhân từng trải, lại có sự nhìn nhận thực tế hơn. Nếu kết hợp ngay từ khâu ý tưởng để đi đến triển khai sẽ dự liệu được một kết quả khả quan hơn. Doanh nghiệp quan tâm đến những vấn đề thiết thực có liên quan đến nhu cầu phát triển của họ, đến những vấn đề cụ thể phải đối mặt hàng ngày. Sự hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp sẽ góp phần hình thành những đề tài nghiên cứu khoa học đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Kết quả đề tài sẽ được xã hội đánh giá và sử dụng, tránh tình trạng báo cáo tổng kết của một số đề tài được đánh giá tốt song sau đó chỉ để trưng bày trong tủ kính. Các nhà doanh nghiệp và các giảng viên cùng nhau đề xuất, xây dựng và triển khai đề tài sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên. Phía doanh nghiệp có thể áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn phát triển sản xuất cho mình. Các doanh nhân, nhà khoa học từ thực tiễn sẽ nâng cao khả năng lý luận, các giảng viên sẽ bổ sung được nhiều kiến thức thực tế. Sinh viên sẽ có nhiều đề tài cập nhật nhanh nhất 300
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 1.https://baotintuc.vn/ban-tron-giao-duc/nha-truong-lien-ket-voi-doanh-nghiep- 20140408061037557.htm 2. http://tiasang.com.vn/-giao-duc/doanh-nghiep-va-nha-truong-mo-hinh-lien-ket- hieu-qua-6944 3. https://giaoducthoidai.vn/trao-doi/giai-phap-tao-gan-ket-ben-vung-giua-nha-truong- va-doanh-nghiep-3903789-v.html 4. http://nhandan.com.vn/giaoduc/tin-tuc/item/25807602-gan-ket-truong-dai-hoc-va- doanh-nghiep-trong-dao-tao-nhan-luc.html 301
nguon tai.lieu . vn