Xem mẫu

  1. Lịch sử điện ảnh I.Giới thiệu Lịch sử điện ảnh thế giới là bài viết nói về sự ra đời và phát triển của bộ môn nghệ thuật này trên phương diện nghệ thuật, thương mại, khoa học của các nhà pháp minh, làm phim ở khắp nơi trên thế giới. II.Sơ khai Đầu thế kỷ 19, các nhà khoa học đã phát hiện một hiện tượng lý thú về khả năng của đôi mắt chúng ta, nó có khả năng lưu lại hình ảnh của 1 vật trong khoảng một phần nhỏ giây sau khi vật đó được dời đi. Đó là sự lưu ảnh (Persistence of vision), mắt người có khả năng nhận ra dư ảnh, và đó là tiền đề cho sự ra đời của điện ảnh (motion pictures : những bức ảnh chuyển động). Tuy nhiên mối quan hệ giữa nó và nhận thức về chuyển động vẫn cho đến nay vẫn còn chưa được làm sáng tỏ. 1. Những thực nghiệm ban đầu Khái niệm về lưu ảnh đã khuyến thích những thử nghiệm đầu tiên với các thiết bị phim ảnh trong suốt thế kỷ 19. Kể đến đầu tiên là thiết bị có tên slotted disk với những hình vẽ liên tiếp bao quanh 1 cái đĩa, khi người ta quay chiếc đĩa trước 1 cái gương, và khi được nhìn qua những khe hở (slots) ta sẽ thấy chuyển động. Zoetrope, một thiết bị được phát triển vào khoảng những năm 1830, là một cái trống bên trong rỗng với một dải bức ảnh nằm bên trong bề mặt của nó. Khi quay, nó cho hiệu ứng tương ứng như Slotted disk. Vào những năm 70 của thế kỷ 19, nhà phát minh người Pháp Émile Reynaud cải tiến ý tưởng này bằng cách đặt những chiếc gương ở tâm cái trống. Vài năm sau, ông phát triển ra 1 phiên bản máy chiếu sử dụng gương phản xạ và thấu kín để phóng to hình ảnh. Năm 1892, ông bắt đầu trình diễn tại Paris, với hàn trăm bức ảnh đặt trong một cuộn (reel), thông qua thiết bị của mình, ông giới thiệu một loạt ảnh động liên tiếp trong 15 phút.
  2. Sự phát triển của nhiếp ảnh đến những năm 1830 đã làm cho các nhà phát minh nhận thức ra được việt kết hợp thiết bị chiếu ảnh chuyển động với thiết bị chụp ảnh để tạo ra những hình ảnh chuyển động thực sự. Một thực nghiệm nổi tiếng diễn ra tại California trong những năm 1870, trùm đường sắt Leland Stanford thuê nhà nhiếp ảnh người Anh Eadweard Muybridge để giải quyết việc đánh cược có hay không 1 lúc nào đó, 4 chân của con ngựa trong lúc chạy đồng thời không chạm đất. Muybridge đặt 12 máy ảnh trên đường ngựa chạy kèm theo những đoạn chỉ được giăng ngang trên đường và có 1 đầu nối với cửa chớp của máy chụp. Như vậy khi con ngựa chạy, nó sẽ làm đứt chỉ và các máy sẽ chụp được những bức ảnh liên tiếp. Dĩ nhiên Leland Stanford đã có câu trả lời là CÓ, còn với Eadweard Muybridge, ông đã mang những hình ảnh đó đi công chiếu với 1 thiết bị của ông làm có tên là Zoopraxiscope. Thực nghiệm của Muybridge đã thôi thúc nhà khoa học người pháp Étienne-Jules Marey phát minh một thiết bị lưu và phân tích chuyển động của con người và loài vật. Ông đặt tên cho nó là Chronophotographic, nó có khả năng chụp ảnh này chồng lên ảnh khác. Công việc vủa Marley được hổ trợ rất nhiều với sự phát triển của vật liệu phim ảnh. Năm 1885, nhà phát minh người Mỹ George Eastman giới thiệu những tấm giấy "phim" bắt nhạy tốt hơn thay thế cho bản kính đã được dùng trước đó. Sau này, ông tiếp tục thay thế nó bằng celluloid, một chất dẻo tổng hợp được tráng bằng 1 lớp chất bắt ánh sáng galatin (gelatin emulsion). 2. Thomas Alva Edison và William K. L. Dickson Nhà phát minh nổi tiếng người Mỹ Thomas Alval Edison bắt đầu để ý đến motion pictures vào những năm 1890, bước tiếp những thành công của Muybridge, Marey và Eastman. Tại những thí nghiệm của mình ở West Orange, New Jersey, Edison phân công cho nhân viên người Anh, William K. L. Dickson có nhiệm vụ chế tạo ra chiếc máy có khả năng ghi lại những chuyển động thật và 1 chiếc máy để xem lại những kết quả đó. Đến năm 1891, Dickson cho ra mắt một chiếc máy "quay phim" gọi là Kinetograph và một chiếc máy "chiếu phim" gọi là Kinetoscope. Kinetogaph hoạt động được nhờ một mô tơ điện làm cho những celluloid film chạy qua trước ống kính camera. Ban đầu chiếc mô tơ này khá đồ sộ và không di chuyển
  3. được, nhưng sau đó nó nhanh chóng được thay thế bằng tay quay camera có khả năng di chuyển. Một nhân tố đóng góp vào thành công Dickson là cơ cấu bánh răng có nhiệm vụ liên kết tới cửa chập camera, cuộn phim sẽ tự động dừng lại sau mỗi "kiểu". Và khái niệm khung hình (frame) xuất hiện từ đây. Khi mới ra đời, các camera có rất nhiều tốc độ khác nhau cho 1 frame, nhưng từ năm 1920, 24 khung hình trên giây đã thành chuẩn. Đầu năm 1893, Edison lập studio tại phòng thí ngiệm, ngày 5-9-1983 ông tổ chức buổi công diễn đầu tiên, tuy nhiên một lần chiếu chỉ cho phép được 1 người xem với máy chiếu Kinetoscope. Kinetoscope như một cái hộp chứa môtơ và cửa chụp y như camera, nó sẽ cho những đoạn phim dương bản chạy qua nguồn sáng điện, làm rõ những tấm ảnh rất nhỏ và nó được xem qua một cửa sổ nhỏ. Rõ ràng điều mà Edison và Dickson nghĩ bây giờ là phải làm sao để máy chiếu của mình có thể chiếu tại khán phòng lớn, như Émile Reynaud đã làm được ở Paris. 3. Anh em Lumière Tại Pháp, anh em Auguste và Louis Lumière theo đuổi công việc cải tiến những thành công của Edison. Đến năm 1895, họ phát triển ra một chiếc camera nhẹ, cầm bằng tay, có sử dụng máy kẹp để nâng cao cuộn phim. Họ đặt tên cho nó là Cinématographe, và sớm khám phá ra có thể dùng nó để chiếu trên màn ảnh lớn khi được kết nối với máy chiếu. Trong suốt năm 1895 họ quay một bộ phim và chiếu thử cho một nhóm người. Đến ngày 28 tháng 12 cùng năm, những khung hình đầu tiên được chiếu cho công chúng ở Paris và đây được xem là buổi chiếu phim đầu tiên. Ở những nơi khác, công việc của các nhà phát minh về chiếc máy quay và máy chiếu phim vẫn bận rộn. Tại Đức, anh em Emil và Max Skladanowsky chế tạo ra một thiết bị khác và chiếu phim tại Berlin vào tháng 11 năm 1895. Tại Anh, một thiết bị phát triển bởi Birt Acres và Robert W. Paul được dùng để chiếu phim tại London tháng 1 năm 1896. Tại Mỹ, một máy chiếu có tên Vitascope được giới thiệu trong khoảng thời gian này bởi Charles Francis Jenkins và Thomas Armat. Armat sau này tham gia hợp tác với Edison để sản xuất ra máy chiếu Vitascope. Và nó được cho ra mắt vào tháng 4 năm 1896 tại New York.
  4. Trong những nổ lực tương tự như vậy, anh em Lumière còn nắm giữ một thứ duy nhất cho mình đó là họ đang trở thành những nhà làm phim chuyên nghiệp. Trong vai trò mới họ cũng làm tốt như đã từng làm khi còn là nhà phát minh, nhà sản xuất. Các bộ phim được làm từ năm 1895 đến 1896 chủ yếu là những bộ phim ngắn nhưng rất quan trọng, những bộ phim đó được xem là cột mốc đầu tiên trong lịch sử hơn một thế kỷ của ngành điện ảnh. Arroseur et arrosé (Waterer and Watered, 1896) là một đoạn hài kịch ngắn dựa theo đoạn hoạt hình ở báo, nói về một người làm vườn lấy vòi nước xịt vào người khác như một trò đùa của con người. La sortie de l usine Lumière à Lyon (Workers Leaving the Lumiere Factory, 1895) và Arrivée d un train en gare (Arrival of a Train at La Ciotat, 1896), nói về chuyến tàu tới ga và hành khách xuống tàu , là những bộ phim mà anh em Lumière gọi là actuality films, phim nói về những sự kiện có thật hơn là những câu chuyện được đóng bởi diễn viên. III. One-Reellers Trong suốt muời năm sau đó là giai đoạn của chiếu phim, phim được chiếu như một phần của các chương trình tạp kỹ, tại các lễ hội và các buổi họp đông đúc, tại các giảng đường hay ở nhà thờ và dần dần chỉ cần 1 khoảng không gian là có thể tổ chức một buổi chiếu phim. Hầu hết các bộ phim dài không quá 10 đến 12 phút, điều này phản ánh độ dài của mỗi cuốn phim có thể đặt trong 1 cuộn phim chuẩn (reel) ở máy chiếu (One-Reelers). Có nhiều tác phẩm ở 2 thể loại comedy và actual nối tiếp sau những thước phim đầu tiên của anh em Lumière. Mục tiêu của những bộ phim này là sự kinh ngạc, không tưởng, gây cười. Nhưng các nhà làm phim cũng nhanh chóng lập ra những hướng đi mới cho mỗi bộ phim, đặc biệt là tính hình tượng và tường thuật. Nhà làm phim, ảo thuật người Pháp Georges Méliès được biết đến với như một nhà làm phim nổi tiếng ở thể loại phim hình tượng (fantasy) trong buổi đầu của ngành điện ảnh. Ông khai thác nhiều phương tiện mới nhằm nâng cao những cảnh đầy "huyền bí ma thuật", đáng kể là kỷ xảo kỷ thuật stop-motion (xem Movie). Trong số hơn 100 tác phẩm của mình, có thể Le voyage dans la lune (A Trip to the Moon, 1902) là tác phẩm
  5. nổi tiếng nhất của Méliès. Tại Mỹ, nhà chiếu phim "thời trước" Edwin S.Poster chịu tránh nhiệm gánh việc làm phim tại công ty Edison vào năm 1901, và ông đã làm những bộ phim dài hơn nói về những câu chuyện. Và tác phẩm nổi tiếng nhất của Poster và có lẻ nổi tiếng nhất trong thời kỳ đầu của motion pictures là The Great Train Robbery (1903), nó thiết lập nên điện ảnh là một phương tiện gải trí mang tính thương mại. Với những cảnh được thay đổi nhanh chóng, bao gồm những cảnh trên xe lửa đang chạy,bộ phim đã mang tới cho người xem cái nhìn chính xác và gần gũi, nó đã trở thành tiêu chuẩn của điện ảnh. The Great Train Robbery và những bộ phim truyện sau này (story films) đã thúc đẩy việc mở rộng những buổi trình chiếu trên khắp nước Mỹ vào năm 1905, sự xuất hiện ngày càng nhiều các rạp chiếu nickelodeon, người xem phải trả 5 cent để được vào xem (nickelodeon : five-cent movie theater) đã đặt ra yêu cầu phải làm ra nhiều phim và kéo theo đó là chi phí làm phim, ngoài ra nó còn bị những nhà cải cách xã hội phê phán là thiếu vệ sinh, thiếu an toàn trong các rạp chiếu và những nội dung đồi bại, xấu xa trong mỗi bộ phim. Năm 1908, Edison đứng ra thành lập Motion Picture Patents Company (MPPC), liên kết những nhà sản xuất lại với những mục tiêu cơ bản như : quản lý việc sản xuất và phát hành nhằm loại bỏ các rạp giá rẻ, nâng tiền vé vào cửa lên, hợp tác với các cơ quan kiểm duyệt, loại bỏ việc lưu trữ phim của các các nhà sản xuất không phải là thành viên. Dĩ nhiên những nhà sản xuất độc lập ngăn không cho MPPC kiếm được nguồn liệu và thực hiện các bộ phim nổi tiếng. Họ còn đi tiên phong theo hướng nhiều cuộn phim (mutli-reels), làm những bộ phim truyện dài. Đến năm 1915, MPPC chịu sự tấn công của chính phủ Mỹ vì cho rằng đó là độc quyền bất hợp pháp (cho dù việc này không ăn thua), việc kết hợp lại thành những công ty sẽ giúp nó thống trị việc làm phim ở Mỹ trong 10 năm tiếp theo. IV. Phim câm Với những kinh nghiệm còn thiếu sót, hầu hết các bộ phim đến cuối thập niên 20 của thế kỷ 20 đều không có tiếng. Nhưng phim câm hiếm khi "câm". Hầu hết các bộ phim trong thời kỳ đầu được chiếu với phần đệm của đàn piano hay organ, thỉnh thoảng có
  6. cả người dẫn truyện hay những diễn viên đừng sau màn ảnh. Khi phim truyện dài (sử dụng 4 reel, thời gian từ 40-50 và nhiều hơn) trở thành chuẩn trong khoản những năm 1910 thì có nguyên một ban nhạc buổi diễn "live" trong rạp chiếu lớn, và những bản nhạc được chơi là những bản nhạc được viết dành riêng cho bộ phim đó. Cho đến tận thế chiến I (1914-1918), các nhà làm phim châu Âu vẫn thống trị thị trường phim của thế giới. Pháp được xem như là người dẫn đầu trong sản xuất phim, dẫu cho các nước châu Âu khác như Đan Mạch hay Italy cũng đóng một vai trò quan trọng. Dĩ nhiên chiến tranh (diễn ra ở châu Âu) đã phá vỡ những thành quả của điện ảnh nơi đây. Với sự sụp đổ nhanh chóng của các nhà xuất khẩu phim ở châu Âu, một số nơi khác như Mỹ Latin đã không bỏ lỡ cơ hội. Nhưng các công Mỹ nhanh chân hơn cả, cùng một chiếc lược sản xuất như châu Âu nhưng giá rẻ hơn và đến những năm 1920 thì 3 phần 4 phim trên thế giới có xuất xứ ở Mỹ. 1. Phim câm của Mỹ Ngay trước chiến tranh, các nhà làm phim Mỹ đã để lại dấu ấn ở thể loại hài kịch và thần thoại. Hơn nữa, các nhà làm phim Mỹ lại bắt đầu tụ tập về nam California, tại khu vực ngoại ô Hollywood, Los Angeles. Từ đây Hollywood trở thành một biểu tượng đầy quyến rũ, còn điện ảnh đã trở thành một ngành giải trí phổ biển. 1.1. D. W. Griffith Griffith, D(avid) W(ark) người được mệnh danh là The Father of the Motion Picture. Người đưa điện ảnh từ thời kỳ One-reelers trong buổi đầu sang một kỷ nguyên thống trị của Hollywood. Khởi nghiệp trong vai trò diễn viên trong bộ phim của đạo diễn Edwin S.Poster, năm 1908 ông đã trở thành giám đốc của American Mutoscope and Biograph Company tại thành phố New York. Trong khoảng năm 1908 đến 1913, ông làm được gần 500 phim. Rời Biograph năm 1913 để làm phim truyện dài. Ông có kế hoạch làm 1 bộ phim về đề tài cuộc nội chiến châu Mỹ, một thiên anh hùng cả lịch sử. The Birth of a Nation (1915), dài 3 tiếng đồng hồ, phim đã gây sửng sốt cho khán giả với những quang cảnh
  7. chói rọi của một sự kiện gần đây (cuộc nội chiến diễn ra từ 1861 đến 1865) và đặt nền móng vững chắc để đưa điện ảnh trở thành một bộ môn nghệ thuật. Trước thời của Griffith, phim chỉ là những đoạn ngắn, chủ yếu là tình tiết, còn nghèo nàn trong diễn xuất, làm và biên tập phim. Còn tới lượt mình, phim của Griffith thường xuyên được chiếu trong thời gian dài, luôn có kịch tịch cao trào, những nhân vật đầy sức sống và được làm với trình độ kỷ thuật cao. Ông còn là người đưa ra những ý tưởng nổi tiếng trong lịch sử điện ảnh như : quay cận cảnh (close-up, một cái nhìn gần với mặt nhân vật hay bề mặt của vật thể nhằm tăng tính biểu cảm); sự mờ dần (fade-out, một hình thức chuyển đổi các cảnh khác nhau trong phim, cảnh đầu sẽ dần dần mờ đi và cảnh sau xuất hiện); chiếu lại (cutback) hoặc hồi tưởng (flashback) nhằm làm cho tình tiết và cách xây dựng nhân vật dể hiểu hay để giới thiệu những cảnh có thời gian về trước;... Năm 1920, cùng với các diễn viên Douglas Fairbanks, Mary Pickford, và Charlie Chaplin, Griffith thành lập United Artists Corporation nhằm sản xuất những bộ phim truyện, hầu hết tất cả đều là phim câm trừ một số tác phẩm cuối cùng như Lady of the Pavements (1929), Abraham Lincoln (1930) và The Struggle (1931) có sử dụng đến âm thanh, tuy nhiên chúng không thành công mấy. 1.2. Đến với Hollywood Hollywood, cái tên được Harvey Wilcox đặt cho vùng nông trại 120 mẫu Anh (khoảng 5 hecta) trồng cam chanh của mình. Và cánh đồng Hollywood đã trở thành bước ngoặc cho cộng đồng các nhà làm phim mới ở miền nam California sau khi Griffith dựng một cảnh về Babylon cổ xưa ở đây cho bộ phim Intolerance (1916). Wilcox đã chia nhỏ và bán từng miếng đất. Năm 1911, studio đầu tiên xuất hiện Trong khoảng năm 1910, Griffith và các nhà làm phim ở phía Đông bắt đầu trải qua những mùa đông đầu tiên ở California, và những công ty đầu tiên đã xuất hiện và đi vào hoạt động. Bên cạnh thời tiết thích hợp, địa thế của Hollywood rất hợp với quay phim như có bãi biển, có núi, có vùng đất khô, và có nhiều miếng đất giá cả "phải chăng" để xây dựng nhiều studio. Kèm theo đó là lực lượng nhân công lần nghề và giá
  8. rẻ hơn so với các vùng khác ở nước Mỹ. Không bị ràng buộc với các môn nghệ thuật cũ, một nét tương phản so với ở New York hay ở Paris, Rome, Berlin. Hollywood đã trở thành mái nhà riêng của phim ảnh, với phong cách sống hết sực đặc trưng. Sự phát triển của Hollywood được đánh dấu bằng chiến thắng vang dội của các nhà sản xuất độc lập khi họ vượt qua sự độc quyền từ miền Đông mà nền tảng là MPPC. Trong khi nhóm này đang còn cố vượt qua giới hạn về sản xuất và độ dài phim thì những nhà làm phim độc lập đã chuyển sang làm những bộ phim truyện dài và có một dàn các ngôi sao nhằm quảng cáo cho công việc của mình. Trong số những nhà phát triển độc lập, Universal Pictures thiết lập chặt chẽ cơ sở của mình tại thung lũng San Fernando, bắc Hollywood. Paramount Pictures và the Fox Film Corporation xuất hiện sau đó như những công ty độc lập đáng chú ý. Những công ty này phát triển hệ thống các studio theo những nhóm nhỏ với các công việc khác nhau như sản xuất, phát hành, trình chiếu phim và hệ thống các studio này rốt cuộc lại là một thách thức mới, một hình thức khác của độc quyền trong công nghiệp điện ảnh. 1.3. Hài kịch câm Cho dù những sáng tạo mới của Griffith và các nhà làm phim khác, việc làm phim truyện ngày càng thịnh hành thì hài kịch vẫn là một thể loại chủ yếu của phim câm. Sau những bộ phim không có nội dung và hài kịch có nội dung khiếm nhã, một phong cách mới gọi là slapstick nổi lên trong giai đoạn này. Mack Sennett, một diễn viên, đạo diễn phim hài với Griffith đã thành lập một công ty mới có tên là Keystone vào năm 1912 đã góp vai trò quan trọng trong việc phát triển thể loại slapstick. Ở Keystone đã cho ra đời một diễn viên nổi tiếng, Charlin Chaplin. Chaplin xuất hiện Kid Auto Races at Venice (1914) trong vai một người đàn ông với quần dài rộng phùng phình (baggy pans), đôi dày to lớn (enormous shoes), mũ quả dưa (bowler hat) , dáng đi cứng đờ đờ cầm theo một cây gậy tre (walk strick and bamboo cane), và đó là điểm khởi đầu cho một nhân vật rất nổi tiếng của ông, the Tramp. Tiếp tục xuất hiện trong Easy Street (1917) và The Immigrant (1917), những bộ phim này nhanh chóng mang lại cho ông tiếng tăm khắp thế giới hơn bất kỳ một diễn viên nào khác. Năm 1918, ông lập cho mình một xưởng phim riêng tại
  9. Hollywood, những năm sau đó ông tiếp tục phát triển nhân vật the Tramp từ sự ngu ngô, hài hước cho đến sự đáng thương, và the Tramp mãi luôn được yêu thích bởi các thệ hệ khán giả trên khắp thế giới. Năm 1920, ông giúp Griffith sáng lập United Artists Corporation, và sau này ông bắt đầu làm những bộ phim hài dài như The Kid (1921) The Gold Rush (1925), The Circus (1928), City Lights (1931), Modern Times (1936), The Great Dictator (1940), Monsieur Verdoux (1947), Limelight (1952), and A King in New York (1957). Với những đóng góp của mình, năm 1972 ông được giải Oscar, năm 1975 ông được phong tước hiệp sĩ, năm 1964 ông viết tự truyện về bản thân My Autobiography (sau này có tên là My Early Years, 1982 và My Life in Movies, 1975). Sir Richard Attenborough làm phim về cuộc đời Chaplin vào năm 1992. Ngoài ra, còn có 2 diễn viên khác trong thể loại phim hài kịch dài suốt giai đoạn 1920- 1929 là Buster Keaton và Harold Lloyd. Buster Keaton gây chú ý khi xuất hiện ở The General (1927) trong vai 1 người lái xe lửa, còn Harold Lloyd lại được chú ý khi xuất hiện trong Safety Last (1923) khi vào vai 1 nhân vật leo lên tòa nhà cao và phải treo lơ lửng ở đồng hồ, cột cờ, bờ cửa. IV.Phim câm 2. Phim câm của châu Âu Sau chiến tranh, mọi thứ đã thay đổi với các nhà làm phim ở châu Âu, bị vượt mặt bởi người Mỹ trên khắp mọi nơi, sức mạnh điện ảnh ở Ý và Đan Mạch sụp đổ, trong khi đó các nhà làm phim Đức và Liên bang Xô Viết mới thành lập lại nổi lên, Pháp dẫu không còn thống trị nhưng vần là trung tâm lý luận điện ảnh, về sản xuất phim và về kinh nghiệm sản xuất phim. 2.1. Tại Đức 10 năm sau chiến tranh, công nghiệp điện ảnh Đức phát triển mạnh mẽ nhất ở châu Âu nhay cả khi phải chịu sự xâm nhập thị trường của phim Mỹ và sự ảnh hưởng của những tài năng nổi tiếng đến từ Hollywood. Mặc dù phim ở Đức mang tính thương mại phục vụ cho nhu cầu gải trí nhưng nó vẫn nhấn mạnh điện ảnh là một loại hình nghệ thuật, phải mang lại một sự chú ý đặc biệt trong không gian nhe nhìn, truyền đạt nội dung tới người xem thông qua nghệ thuật quay phim, ánh sáng, dựng cảnh. Mới trải quả chiến tranh, buộc những nhà làm phim Đức phải cố gắng làm sao để những bộ
  10. phim thật đặc biệt, vượt qua sự thù địch chiến tranh trên thị trường phim thế giới. Chủ nghĩa biểu hiện (Expressionism), một trào lưu nghệ thuật sử dụng những hình tượng bóp méo có chủ định để diễn tả cảm xúc, đã ảnh hưởng đến những tác phẩm nổi tiếng sau chiến tranh của điện ảnh Đức. Trong sô đó có tác phẩm Das Kabinett des Dr. Caligari (The Cabinet of Dr. Caligari, 1919) của đạo diễn Robert Wiene, với những cảnh tượng khó hiểu bị bóp méo và câu chuyện về kẻ giết người mộng du bị điều khiển bới một bác sĩ thần bí. Đứng đầu các nhà làm phim Đức trong thời gian này có Fritz Lang, F. W. Murnau, và G. W. Pabst. Phim của Lang đặc trưng cho cái nhìn là thường về thế giới vật chất trong thần thoại, hiện tại và tương lai. Bộ phim nổ tiếng của ông là Metropolis (1927), phim là câu chuyện ở tương lai với những chiếc cầu xe lửa nằm giữa các cửa hàng của những toà nhà chọc trời trong khi công nhân lại làm việc cực nhọc tại một nhà máy to lớn ở dưới lòng đất. Còn phim của Murnau lại là sự phức tạp tâm lý sâu xa, đáng kể đến những bộ phim về loài quỷ hut máu Nosferatu (1922) và Der letzte Mann (The Last Laugh, 1924). Pabst lại được biết đến là một nhà làm phim thực tế, ông là đạo diễn của bộ phim Die Büchse der Pandora (Pandora’s Box, 1928), một bi kịch về tình ái do nữ diễn viên người Mỹ Louise Brooks thủ vai chính Lulu, một cô gái luôn luôn dùng những người mình gặp để thỏa mãn cho bản thân, thậm chí cô còn quyến rũ con trai của chồng, trước sự đố kỵ của người chồng, Lulu đã giết anh ta. 2.2. Tại Liên bang Xô Viết Năm 1917, nền quân chủ Nga (Russia, thời Sa Hoàng) sụp đổ sau cuộc cách mạng tháng mười Nga vĩ đại do những người Bôn-sê-vít lãnh đạo, nước Nga từ đây lấy tên thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Xô Viết (Union of Soviet Socialist Republics), với những sự kiện như vậy, các nhà làm phim trẻ ở Xô Viết hăng hái thiết lập một loại hình nghệ thuật điện ảnh mới dựa trên lý tưởng cách mạng. Phim câm ở Nga trở nên đáng chú ý vì sự kết hợp giữa chính trị với những tiên phong về mỹ học. Những tác phẩm của các nhà làm phim như Sergey Eisenstein và Dziga Vertov tiếp tục đặt ra câu hỏi đầy thách thức về mối quan hệ giữa nghệ thuật và chính trị, trước hết là những tranh cãi gay gắt trong nước. Eisenstein, là nhà lý luận cũng nhà nhà làm phim nổi tiếng của Nga lức bấy giờ, bài khóa của ông tại montage (dựng cảnh, French Terms for film editing) đã nói rõ cách những cảnh phim riêng rẻ có thể để cạnh nhau và liên kết chúng lại nhằm tạo ra cảnh có nghĩa và khơi dậy những cảm xúc từ người xem. Ông đã đem những lý luận đó vào những tác phẩm của mình như Stachka (Strike, 1924), Bronenosets Potemkin (Potemkin, 1925), và Oktyabr (October, 1928, còn được biết đến dưới tên Ten Days That Shook the World). Dĩ nhiên nổi tiếng nhất là tập hợp những cảnh dựng của cảnh
  11. Odessa Steps trong bộ phim lịch sử Potemkin, gần 155 cảnh quay riêng rẻ trong 4 phút 20 giây nhằm miêu tả sự tàn sát dân chúng của những người lính. Vertov (Denis A. Kaufman) người tán thành cho thể loại tài liệu hơn là những thước phim hư cấu. Ông cũng nhấn mạnh việc dựng cảnh và điều quan trọng của biên tập phim trong việc tổ chức dựng hình từ những đoạn phim quay ban đầu. Vertove là đạo diễn, biên tập, sản xuất cho loạt phim thời sự Kino-Pravda (Cine-Truth, 1922-1925) và làm những bộ phim tài liệu như Chelovek s kinoapparatom (Man with a Movie Camera, 1929). 2.3. Tại Pháp Điện ảnh Pháp không còn độc tôn trên thế giới sau chiến tranh, giờ đây nó phải đang tồn tại chật vật. Các nhà lý luận điện ảnh Pháp đặt ra các hạn định như photogenie và cinegraphie để diển tả cách nhìn của họ về điện ảnh, rằng điện ảnh phải làm nổi bật những hình ảnh hơn là sử dụng các rạp chiếu phim để truyền đạt những hành động kịch tính. Những lý luận nhanh chong được áp dụng cho hầu hết các bộ phim ngắn, đáng chú ý là La souriante Madame Beudet (The Smiling Madame Beudet, 1923) của nhà lý luận và làm phim, bà Germaine Dulac, được chú ý qua những bài viết phê bình. Trào lưu nghệ thuật siêu hiện thực (surrealism), sự kết hợp chặc chẽ giữa những hình ảnh kỳ quái và lấy nó làm sự công kích vào những thực tế hằng ngày, cũng mang lại một khái niệm mới cho việc làm phim. Entr’acte (1924) của đạo diễn René Clair sử dụng một kỷ xảo đánh lừa người xem từ buổi đầu của điện ảnh để thể hiện cho loạii hình nghệ thuật mới này. Fernand Léger làm phim Le ballet mécanique (1924) và Marcel Duchamp làm Anémic Cinema (Anemic Cinema, 1926) lại sử dụng những thiết kế hoạt hoa hay những vật thể được vẽ. Nhà làm phim đầy tham vọng Abel Gance là đạo diễn của bộ phim Napoléon Bonaparte (1927), cảnh chiến đấu cuối cùng trong phim có sử dụng đến Polyvision, chiếu 3 cảnh cùng 1 lúc. Các nhà làm phim đến từ các quốc gia khác cũng có những tác phẩm đáng chú ý ở Pháp như đạo diễn người Đan Mạch Carl-Theodor Dreyer of Denmark với phim La passion de Jeanne d’Arc (The Passion of Joan of Arc, 1928), được xem là kinh điển về chú ý chưa từng có về hiện thực tâm lý. Luis Buñuel, người Tây Ban Nha, là đạo diễn của bộ phim siêu hiện thực Un chien Andalou (An Andalusian Dog, 1929), phim nhanh chóng nổi tiếng bởi những hình tượng xáo động và bình thường. 3. Sự lớn mạnh của phim câm Đến 1925, Mỹ đã có một nền công nghiệp phim rộng lớn và phim Mỹ vẫn độc tôn trên
  12. thị trường thế giới, bên cạnh đó còn kể đến phim của Đức và Nhật, dù phim Nhật phần lớn được sản xuất trước tiên dành cho thị trường trong nước. Có nhiều quốc gia theo đuổi, ấp ủ việc làm phim như một nét văn hóa vật thể quan trọng. Trong suốt thời gian này, điện ảnh đã trở thành phương diện quốc tế, người của nước này có thể sang nước khác để làm phim như Dreyer và Buñuel đã từng làm hay di cư sang nơi khác để phát triển sự nghiệp như Murnau, sau những thành công tại Đức, ông đã sang Hollywood. Hệ quả xã hội của việc phát triển nhanh chóng này làm nên những cuộc tranh luận gay gắt. Các diễn viên nổi tiếng như Chaplin, Greta Garbo, và Rudolph Valentino được nhiều người mến mộ, sức thu hút của họ có ảnh hưởng đến lối sống bình thường? Thông qua các câu chuyện giả tạo về cuộc sống trên phim ảnh, những hành động tội ác rõ ràng trong từng cảnh quay có làm thay đổi những miền quê hay thị trấn nhỏ vốn yên bình? Những câu hỏi đó đòi hỏi việc kiểm duyệt phải được chú ý nhằm quản lý được những ảnh hưởng của phim ảnh. Việc này có thể làm bằng cách biên tập lại phim trước khi chiếu hay đưa ra những quy định buộc nhà sản xuất phải làm theo. Khi Hollywood và khắp nơi trên thế giới làm ra hàng trăm bộ phim mỗi năm, phim cần được phân thành các thể loại (genres). Những thể loại đầu tiên là hài kịch (comedy), Viễn đông (the Western), thần thoại (mystery), kinh dị (horror), lãng mạng (romance), kịch melo (melodrama - melody), và chiến tranh (the war story), những thể loại này có thể được biến thể hoặc kết hợp với thể loại khác. 4. Phim tài liệu câm Phim về những sự việc hiện, có thật đã từng gây chú ý trong những ngày đầu của điện ảnh, sau này lại bị lãng quên bởi những bộ phim truyện với mục đích thương mại trong vòng thập niên thứ 1 đến thứ 2 của thể kỷ 19. Nó dần dần được thay thế bởi những phim thời sự (newsreel), là sự những đoạn phim ngắn được biên tập từ các đoạn tin tức, phim thời sự đã trở thành một chương trình được chiếu trong các rạp chiếu phim. Phim không được hư cấu, được biết đến nhiều hơn dưới tên phim tài liệu được làm để giáo dục hay tuyên truyền mục đích trong thời chiến. Trong suốt thời gian này, các nhà làm phim tiếp tục khảo sát tỉ mỉ về thế giới xung quanh, mang lại những hình ảnh về con người, nới chốn chưa từng biết đến tới khán giả. Một trong những số đó là Robert Flaherty, người Mỹ, làm nghề mỏ và thăm dò mỏ ở phía bắc Canada, đã ghi lại những hình ảnh về người Eskimo cho tới những phong cách sống đã biến mất, ông đã tạo ra một số tranh cãi trong việc sân khấu hóa các phong tục truyền thống, những thứ sau này sẽ không còn. Flaherty làm bộ phim tài liệu dài Nanook of the North (1922) kể về một người đàn ông Eskimo tên là Nanook, phim được phát hành với mục đích thương mại và đã trở thành một tác phẩm xuất sắc,
  13. nhận được nhiều lời đánh giá phê bình. Sau này một studio ở Hollywood gửi ông đến một hòn đảo phía nam Samoa để làm bộ phim thứ 2, Moana (1926). Ernest B. Schoedsack và Merian C. Cooper, 2 nhà làm phim người Mỹ được biết đến qua bộ phim King Kong, cũng đã chuyển sang làm phim ở thể loại này với tác phẩm Chang (1927), một bộ phim tài liệu về du lịch được quay tại Siam (Xiêm, Thái lan ngày nay). Những nhà làm phim có tiếng ở châu Âu cũng bắt đầu để ý đến thể loại này, những tác phẩm của họ được gọi là city symphonies, cái tên bắt nguồn từ bộ phim tài liệu Đức của Walter Ruttmann có tựa đề Berlin: Die Sinfonie der Grossstadt (Berlin: Symphony of a Great City, 1927), phim nói về hoạt động hàng ngày của thành phố. Còn ở Nga, tác phẩm Chelovek s kinoapparatom (Man with a Movie Camera, 1929) của Vertov (Denis A. Kaufman) là một ví dụ khác về city symphony, về Matxcơva. Tại Pháp, Jean Vigo và Boris Kaufman (anh em với Vertov) thực hiện bộ phim A propos de Nice (On the Subject of Nice, 1930). V. Phim có âm thanh Việc thu âm ra đời vào cuối những năm 20 thế kỷ trước đã làm cho điện ảnh thay đổi mãi mãi. Những năm kinh nghiệm đầu tiên, có 2 hệ thống thu âm khác nhau : âm thanh trong đĩa (sound on dics) hoạt động như máy hát và âm thanh trong phim (sound on film), âm thanh được ghi chính xác lên celluloid. Cùng thời gian, các kỹ sư hoàn thành hệ thống khuếch đại cho các rạp chiếu phim, dựa theo một kỹ thuật mới của radio. Được chứng minh lần đầu tiên vào năm 1926, đến năm 1930 việc thu âm trở nên phổ biến trong hầu hết các tác phẩm và phương pháp sound on film đã trở thành chuẩn vì có một số vấn đề về những chiếc đĩa (dics). 1. Những thước phim nói đầu tiên Những năm đầu tiên của việc thu âm đã làm phim câm phải rút lui, camera phải di chuyển ít hơn, diễn viên cũng vậy bởi lý do không thể thu nhiều tiếng ồn từ mơ tô camera hay diễn viên không quá xa microphnone. Thêm vào đó có những sự nghi ngờ về việc giọng nói của các ngôi sao phim câm có phù hợp với phim nói hay không. Tại Hollywood, một làn sóng mới về các diễn viên sân khấu nổi lên từ Broadway (trung tâm giải trí ở New York với những rạp hát, rạp chiếu phim, nhà chơi cho trẻ em, quán bars, nhà hàng). Những trở ngại ban đầu này nhanh chóng được vượt qua với việc áp dụng công nghệ mới. Camera trở nên linh động với việc được bao bọc bằng những vật liệu cách ly âm thanh, được đặt trên khung có thể di chuyển được bằng các bánh xe cao su.
  14. Microphone đã được treo bằng những cánh tay dài hơn gọi là booms, được đưa ra khỏi phạm vi của những camera, diễn viên có thể diễn xuất nhiều hơn. Những tác phẩm ra đời sớm như Applause (1929) của đạo diễn Rouben Mamoulian người Mỹ đã chứng minh sự phong phú các trạng thái của nghệ thuật mới với việc thu tiếng cho phim. Mamoulian sử dụng nhiều nguồn âm thanh khác nhau, như âm thanh cho chuyển cảnh, chuyển âm thanh để nhấn mạnh cảnh quay. Bằng những hiệu ứng, ông cố gắng mang lại những tiêu chuẩn thật tự nhiên và giống thật cho các bộ phim có âm thanh. 2. Phim âm nhạc và găngxtơ Đây là hai thể loại mới mà sự ra đời thu âm mang lại cho điện ảnh. Thể loại phim găngxtơ lôi cuốn công chúng vì sự dính liếu tới tội ác của những ông trùm khét tiếng, nhiều tội ác phát sinh từ các hoạt động phạm pháp trong giai đoạn Prohibition (cấm việc sản xuất và buôn bán các đồ uống có liên quan tới rượu ở Mỹ từ 1920 đến 1933). Những bộ phim găngxtơ đầu tiên đã lợi dụng sự nổi loạn giữa các trùm. Little Caesar (1930) đưa diễn viên Edward G. Robinson trở thành ngôi sao khi thủ vai trùm Rico Bandello còn diễn viên James Cagney lại có tiếng tăm khi vào vai một cách sinh động trùm Tom Powers trong The Public Enemy(1931). So với thể loại găngxtơ, thì sự ra đời của phim âm nhạc có vẽ như là kết quả hợp lôgíc hơn khi việc thu âm ra đời, thể loại này đã lôi cuốn khán giả bắt đầu từ những sân khấu Broadway nhưng để trở nên phổ biến và nổi tiếng thì phải chờ đến lúc Warner Bros cho ra mắt series phim âm nhạc phá vở những lệ thường trên sân khấu. Phim được quay những nhóm vũ công số lượng nhiều với nhiều điểm nhấn để tạo nét riêng chỉ có điện ảnh mới có, những bộ phim như thế bao gồm 42nd Street, Gold Diggers of 1933 (1993), Footlight Parade ( 1933), tất cả đều được biên đạo múa người Mỹ Busby Berkeley dàn dựng. Một loại hình khác của phim âm nhạc là tập trung vào những diễn viên đặc biệt trong nhóm múa, ví dụ như Fred Astaire và Ginger Rogers trong Flying down to Rio (1933), Top Hat (1935) và Swing Time (1936). 3. Phim kinh dị Không phải là thể loại mới nhưng đến khi có những hiệu ứng âm thanh ra đời thì phim kinh dị mới có được "nguồn sức mạnh" của mình. Tiếng nói nặng nề của diễn viên Bela Lugosi gốc Hungari mang lại sự sợ hãi "mới" tới các khán giả trong Dracula (1931) bởi đạo diễn Tod Browning người Mỹ. Trong Frankenstein (1931), đạo diễn gốc Anh James Whale và diễn viên gốc Anh Boris Karloff đã miêu tả đầy biểu cảm đến ngạc nhiên về một quái vật ì ạch kéo lết đi được mang tới cuộc sống bởi một nhà khoa học đầy tham vọng. Cả 2 bộ phim trên đều là những tác phẩm làm lại từ những
  15. bộ phim câm, và cả hai đều trở thành kinh điển với nhiều sự thay đổi. 4. Hệ thống các Studio và phương tiện quảng bá các ngôi sao Âm thanh trong phim ra đời hình thành lại hệ thống studio ở Hollywood. 5 công ty lớn nhất - Fox (sau này là Twentieth-Century Fox), Loew’s Incorporated (sau này là Metro Goldwyn Mayer, MGM), Paramount, RKO (Radio Keith Orpheum) và Warner Bros. - hoạt động như các nhà sản xuất, phát hành và trình chiếu. Universal, Columbia, và United Artists cũng quan trọng nhưng họ không còn rạp chiếu phim cho riêng mình. Các đạo diễn và diễn viên làm việc tại studio qua hợp đồng dài hạn, các studio phát triển hệ thống các ngôi sao, nhằm quảng cáo và bán phim. Những phương diễn quảng bá các ngôi sao được tạo ra khéo léo nhằm thể hiện hết sức đặc biệt về những ngôi sao của mỗi studio Âm thanh đã làm tăng lên sự khát khao của các nhóm tôn giáo và những nhà cãi cách xã hội trong việc kiểm soát nội dung phim. Trong khi ban kiểm duyệt của địa phương và bang vẫn tồn tại, dưới những sức ép, luật xuất bản (Prodution Code) ra đời năm 1930, và được củng cố bằng cách thêm vào người quản lý luật xuất bản (Production Code Administration) năm 1934. Đó là người theo dõi kịch bản, bộ phim hoàn thành và loại trừ các đoạn hội thoại, cảnh vi phạm đến những quy tắc của luật về việc thể hiện sex, tội phạm, sử dụng ma túy độc dược và cách hành vi đạo đức khác. Luật này có hiệu lực đến giữa những năm 1960. 5. Những sự phát triển ở châu Âu Các nhà phát minh ở châu Âu cũng phát triển các thệ thống thu âm trong suốt những năm 1920, đến năm 1930, hội nghị quốc tế những nhà giữ bằng sáng chế đi đến thỏa thuận chung chung cho rằng những trang chấp về tính hợp phát sẽ không thay đổi tới âm thanh. Các nhà làm phim ở châu Âu, cùng với Hollywood, đã chuyển sang làm phim nói cuối những năm 1920. 5.1. Tại Anh Phim Anh hi vọng phát triển với sức mạnh sân khấu truyền thống và âm thanh. Đạo diễn Alexander Korda đã tác động mạnh tới quốc tế thông qua The Private Life of Henry VIII (1933), với sự tham gia diễn xuất của Charles Laughton còn Alfred Hitchcock đạo diễn của những bộ phim trinh thám và tình báo nổi tiếng như The 39 Step (1935). Trong những năm 1930, phim Anh phát triển các bộ phim tài liệu đặc biệt, với sự tài trợ của chính phủ và sự chỉ đạo của John Grierson, đạo diễn Night Mail (1936). Đạo diễn Michael Powell, David Lean và Carol Reed làm những bộ phim
  16. tường thuật quan trọng trong suốt giai đoạn thế chiến I, trong khi những bộ phim tài liệu kể lại chiến tranh được làm bởi những nhà sản xuất như Humphrey Jennings. 5.2. Tại Pháp Một phong cách dễ phân biệt của các nhà làm phim gọi là hiện thực thơ ca nổi lên tại Pháp trong suốt thời gian này. Nó nhấn mạnh khía cạnh mỹ học hơn là hiện thực của đời sống hằng ngày. Đi đầu cho trào lưu này là đạo diễn Jean Vigo với L'atalante (1934) và Marcel Carné với Le jour se lève (Daybreak, 1939). Đạo diễn nổi tiếng nhất trong giai đoạn này là Jean Renoir, với những tác phẩm hay như Le grande illusion (Grand Illusion, 1937) và La règle du jeu (Rules of the Game, 1939). 5.3. Tại Đức Fritz Lang and G. W. Pabst, những người đi đầu trong thời kỳ phim câm, cũng đã làm những tác phẩm có âm thanh từ rất sớm. Lang với M ((1931) and Pabst with Kameradschaft (Comradeship, 1931). Nhưng trào lưu phim nghệ thuật cũng đến hồi kết thúc khi đảng Quốc xã (National Socialist party) của Adolf Hitler lên nắm quyền lực năm 1933. Rất nhiều nhà làm phim chạy trốn khỏi Đức vì chống đối với Quốc xã hay sợ sự ngược đãi. Sau khi nắm quyền hành trong sản xuất phim, Quốc xã bắt đầu làm những bộ phim tuyên truyền. Đạo diễn và diễn viên Leni Riefenstahl làm phim để ca ngợi đảng Quốc xã. Nhưng các nhà tuyên truyền nhanh chóng nhận ra sẽ có hiệu quả truyền đạt hơn dưới hình thức giải trí, thê là họ làm nhiều phim ở thể loại comedy và drama. 5.4. Tại Liên Xô Âm thanh ra đời cùng lúc với những thay đổi về chính trị tại Liên bang Xô Viết. Những bộ phim nghệ thuật cũng có lời chấm dứt như ở Đức. Chính phủ đặt ra học thuyết mới gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa (socialist realism), học thuyết này chứa đựng những phong cách đơn giản và những câu chuyện làm phương tiện truyền bá cho chính trị. Những nhà làm phim như Sergey Eisenstein không còn có thể sản xuất những bộ phim hoàn chỉnh. Dẫu bầu không khí căng thẳng giữa Quốc xã Đức và Xô Viết ngày càng tăng lên đã làm Eisenstein thay đổi và làm ra Alexandr Nevskii (Alexander Nevsky, 1938), một thiên anh hùng ca lịch sử ở thế kỷ 13 nói về người dân Nga đẩy lùi sự xâm chiếm của các hiệp sĩ Đức. 6. Phim tài liệu Mỹ Như ở Anh, trào lưu phim tài liệu phát triển ở Mỹ trong suốt những năm 1930, với sự
  17. góp mặt của cả những nhà làm phim và chính quyền liên bang. Năm 1935, tạp chí Time làm một series phim tại liệu hàng tháng có tên The March of Time cho đến tận 1935. Pare Lorentz, từng là nhà báo, làm 2 phim về thời kỳ sa sút của nông nghiệp và hậu quả môi trường là The Plow that Broke the Plains (1936) và The River (1937) cho bộ Nông nghiệp. Trong suốt chiến tranh thứ II, Frank Capra, John Ford, William Wyler, John Huston và các đạo diễn Hollywood khác tham gia vào lực lượng quân sự và làm những bộ phim kể về chiến tranh. Capra với series Why We Fight (1942- 1945), 7 tập phim cố gắng giải thích tại sao lại có chiến tranh và lý do Mỹ tham chiến. Tác phẩm The Battle of San Pietro (1945) của Huston lại khắc họa dự ác liệt của chiến tranh trong chiến dịch Italy. 7. Phim hoạt hình Phim hoạt hình trở nên phổ biến với việc ra đời của phim có âm thanh. Trong hầu hết lịch sử của mình, phim hoạt hình buộc các nhà làm phim ghi lại một loạt các bức vẽ trong từng khung hình. Khi chiếu, những khung hình liên tiếp mang đến ảo giác về chuyển động (đến những năm 1990, sử dụng máy tính để làm phim hoạt hình trở nên phổ biến). Steamboat Willie (1928) là bộ phim hoạt hình có tiếng đầu tiên được làm bởi Walt Disney, và đó là bộ phim thứ ba về nhân vật chuột Mickey nổi tiếng. Disney là người tiên phong trong việc làm phim hoạt hình màu với công nghệ phim màu (three-color Technicolor - vàng, đỏ và xanh) trong bộ phim ngắn Flowers and Trees (1932) và bộ phim hoạt hình dài đầu tiên có màu là Snow White and the Seven Dwarfs (1937). 8. Orson Welles Năm 1939, Orson Welles, một con người thần kỳ 24 tuổi, đến Hollywood sau khi thành công ở lĩnh vực sân khấu và phát thanh để sản xuất, đạo diễn, đồng kịch bản và ngôi sao trong Citizen Kane (1941), phim được xem hiện tượng đặc biệt trong các bộ phim mang tính thương mại của Mỹ đã từng làm. Phim nói về một câu chuyện hư cấu về nhà tư bản Charles Foster Kane, một nhân vật dựa theo hình tượng có thật của chủ báo William Randolph Hearst, thông qua những quan điểm phức tạp qua câu nói đầy bí ẩn của người đàn ông chết, Rosebud. Cái độc đáo của phim là kết quả từ những kỷ thuật thông thường, tập trung và kết hợp tất cả những cảnh gần nhau : duy trì tập trung có chiều sâu, lợi dụng góc độ thấp và cao của camera, và những cảnh quay dài và sử dụng âm thanh, ánh sáng như một thiết bị biên tập. Welles tiếp tục tiến dài trong sự nghiệp đóng phim và làm phim cho dù không một thành công sau này đạt đến đỉnh như bộ phim đầu tiên, Citizen Kane.
  18. VI.Sự phát triển của phim màu Những ngày đầu của điện ảnh, những bộ phim gợi cho chúng ta sự im lặng và đen trắng, không có âm thanh và cũng chẳng có màu sắc, đôi khi làm chúng ta nghĩ ngày xưa thế giới thực chỉ có 2 màu! Ban đầu để có thể làm phim màu, không cách gì khác là sự cần cù trong việc "tô màu" từng khung hình. Về sau, những chiếc máy "tô màu" được phát triển, phim dương bản đen trằng được đặt trong thuốc nhuộm, máy này xử lý hiệu ứng màu sắc cho từng đoạn phim. Năm 1908, Kinemacolor ra đời sử dụng bộ lọc màu đỏ và màu xanh (lá cây) trong cả máy quay lẫn máy chiếu để tạo ra những màu sắc tự nhiên. Các cố gắng trong suốt những năm 1920 đã mang lại sự thay đổi trong việc thực hiện phim màu, những bộ lọc hay những thiết bị đặc biệt trong máy chiếu không còn cần thiết nữa, Technicolor, công nghệ làm phim màu đầu tiên sử dụng phim âm bản 2 màu được trộn vào nhau trong phim dương bản, và sau này, với hệ thống chuyển đổi nhuộm màu, cho phép 2 phim âm bản được in thành những phinm dương bản riêng rẻ. Bộ phim màu dài đầu tiên ra mắt năm 1922, công nghệ 2-color Technicolor được sử dụng đến năm 1930, và 10 năm sau này với nhiều sự cải tiến, công nghệ 3-color Technicolor ra đời, và được Disney sử dụng trong những bộ phim hoạt hình. Becky Sharp (1935) của đạo diễn người Mỹ Rouben Mamoulian là bộ phim dài đầu tiên sử dụng công nghệ này. Việc sử dụng màu sắc trong phim vẫn còn chưa phổ biến cho đến tận những năm 1950, khi Hollywood chuyển sang làm phim màu nhằm tạo nên những bộ phim khác biệt để ngăn chặn sự vươn lên của phương tiện truyền hình (lúc này truyền hình cũng như điện ảnh vẫn còn trắng đen). Những cải tiến và đơn giản hóa của công nghệ màu làm cho phim màu trở thành chuẩn và đến những năm 1960, phim trắng đen bị loại trừ ở Mỹ và sau đó ở các quốc gia khác. VII. Phim sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 Cho dù điện ảnh đã đạt đến đỉnh cao ở Mỹ vào năm 1946, những hoàn cảnh thay đổi đã nhanh chóng mang lại những khó khăn trong 1 phần 4 thế kỷ sắp tới của lịch sử điện ảnh. Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Tòa án tối cao Hoa Kỳ phán quyết hệ thống studio ở Hollywood (với các công ty nắm hết các khâu trong sản xuất, phát hành, chiếu phim) đã hình thành sự độc quyền, vi phạm luật chống độc quyền và ra lệnh các công ty từ bỏ quyền sở hữu các rạp chiếu phim. Cùng thời gian trên, các ủy ban trong Quốc hội Mỹ bắt đầu điều tra về những nghi
  19. ngờ về "sự rò rĩ" trong nền công nghiệp điện ảnh với sự tham gia của những thành viên trong đảng Cộng sản, người bị cáo buộc phản bội tổ quốc Hoa Kỳ và chịu sự điều khiển của Liên Xô. Các công ty điện ảnh đã phải sa thải và từ chối việc hợp động với các đạo diễn, diễn viên, nhà viết kịch bản nằm trong danh sách bị buộc tội. Thượng nghị sĩ Joseph R. McCarthy, người luôn buộc tội những viên chức chính quyền tham gia đảng Cộng sản đã cho ra đời chũ nghĩa chống Cộng (McCarthyism), kéo theo đó là danh sách đen (blacklist) trong ngành giải trí. Chính trị, chiến tranh lạnh, chống Cộng sản đã làm xáo trộn công nghiệp điện ảnh lúc bấy giờ. Nhưng những bước tiến của truyền hình mới là nguyên nhân của sự sụp đổ to lớn này, cho dù điện ảnh có dấu hiệu đi xuống trước khi truyền hình trở nên phổ biến. Vào những năm 1950, máy thu hình trở nên phổ biến một cách mau lẹ kèm theo việc tới các rạp chiếu bóng giảm sút. Trong nỗ lực chống lại sức lôi cuốn của truyền hình, các công ty điện ảnh phải chấp nhận và làm ra những công nghệ mới - màn ảnh rộng và công nghệ 3-D - nhằm tăng sự thu hút chú ý của công chúng. Tuy nhiên không phải mọi thứ đều tốt đẹp ngay từ đầu. Công nghệ 3-D ghi lại nhiều hình ảnh phức tạp thông qua một bộ lọc điều khiển ánh sáng chính xác và buộc người xem phải đeo kính đặc biệt để có thể chiêm ngưỡng những hiệu ứng 3-D. Trong 2 năm 1953 và 1954, phim 3-D được giới thiệu bởi các xưởng phim Hollywood với khẩu hiệu quảng cáo "come of the scree right at you", tuy nhiên khẩu hiệu nhanh chóng thất bại, phim 3-D cũng đổ vỡ theo. Màn ảnh rộng mang lại những thay đổi cơ bản về kích cở và tỉ lệ của màn ảnh. CinemaScope, được giới thiệu cùng với phim The Robe (1953), là một trong những công nghệ màn ảnh rộng đầu tiên, yêu cầu máy quay nén hình ảnh lên phim 35 li chuẩn và máy chiếu bung ra lại hình ảnh, mang tới hình ảnh gấp 2 bình thường, công nghệ ra đời sau này, Panavision ra đời muộn hơn và nó nhanh chóng trở thành công nghệ màn ảnh rộng chuẩn. Cho dù nền công nghiệp điện ảnh Mỹ tiếp tục thống trị thế giới, nhưng với những khó khăn gặp phải đã làm các nền điện ảnh khác giành lại được vị trí trên quốc tế thông qua những sự thay đổi về nội dung và nghệ thuật sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. VII. Trào lưu điện ảnh thế giới 1. Điện ảnh Ý và chủ nghĩa tân hiện thực Trào lưu điện ảnh quan trọng sau chiến tranh đến tư nước Ý, và được gọi là tân hiện thực (neorealism). Trào lưu này có xuất phát từ trào lưu hiện thực thơ ca ở Pháp vào
  20. những năm 1930, nói về nước Italy thoát khỏi chủ nghĩa phát xít và hi vọng vào một xã hội dân chủ hơn. Đi đầu cho trào lưu này là Roberto Rossellini, đạo diễn của Roma città aperta (Rome, Open City, 1945), Paisà (Paisan, 1946) và Vittorio De Sica, người hợp tác với nhà kịch bản Cesare Zavattini trong Sciuscia (Shoeshine, 1946), Ladri di biciclette (The Bicycle Thief, 1948), Miracolo a Milano (Miracle in Milan, 1951), Umberto D. (1952). Hai đạo diễn này quay phim ngay trên đường phố, những địa điểm có thật hơn là quay trong studio và lồng tiếng tại studio sau khi quay xong phim. Bộ phim Ossessione (Obsession, 1942) của đạo diễn Luchino Visconti được xem là phim đầu tiên của trào lưu hiện thực mới. Sau này ông còn làm phim La terra trema (The Earth Trembles, 1948) nói về làng chài Sicilian. Trong phim Visconti sử dụng những người đàn ông đánh cá thật sự và gia đình của họ như những diễn viên. Đạo diễn Federico Fellini tuy trên cương vị chính chỉ làm những tác phẩm hài kịch nhưng với tư cách là nhà viết kịch bản thì ông là người tiếp bước Visconti khi viết kịch bản cho những bộ phim của Rossellini. Tuy trào lưu này giành được những lời khen ngợi từ thế giới nhưng nó lại gây ra những tranh cãi từ ngay trong nước, bởi vì sự phê phán của nó về xã hội đương thời. Luật năm 1949 cho phép chính phủ không cho các nhà sản xuất vay kinh phí và cấp phép cho những bộ phim mang tư tưởng "nói xấu đất nước". Tuy thế nhưng những tác động của trào lưu này vẫn bền vững, các nhà làm phim từ châu Á, châu Phi và Mỹ Latin xem chủ nghĩa tân hiện thực như là sự lựa chọn cho những giấc mơ Hollywood hay một ví dụ để làm những bộ phim không đắt mà cũng không rẽ. 2. Phim Pháp và làn sóng mới Trong suốt những năm 1950, một trào lưu mới lại hình thành ở Pháp dưới sự "dìu dắt" của những nhà phê bình phim trẻ. Những bài phê bình của họ thường kêu ca về phong cách văn chương quá cao trong phim Pháp vì có sự coi trọng người viết kịch bản hơn đạo diễn. Họ thường có những bài viết khen ngợi các đạo diễn Hollywood như Alfred Hitchcock mới chính là những "tác giả" thực sự của những bộ phim mình làm vì họ điều khiển được hình ảnh phim. Vào cuối những năm 1950, một số những nhà phê bình này bắt đầu làm những bộ phim đầu tiên cho mình theo nhữnh học thuyết mà họ đề ra. Và điều này trở thành làn sóng mới ở Pháp (nouvelle vague - new wave). Những người đi tiên phong gồm có François Truffaut, với Les quatre cents coups (The 400 Blows, 1959) và Jean-Luc Godard với À bout de souffle (1959; Breathless, 1961). Phim của Godard thách thức
nguon tai.lieu . vn