Xem mẫu

  1. Tiền tệ Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm và biến động lịch sử, theo v ới b ề dày phát tri ển đất nước, phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và thế giới. Đầu tiên ta có thể sơ lược qua lịch sử hình thành của ti ền tệ Vi ệt Nam, m ột quá kh ứ t ự hào xứng đáng với lịch sử dân tộc. Ta có thể chia thành các giai đoạn như sau: Vào thời Bắc thuộc: thời Bắc thuộc tiền đồng Trung quốc đã được sử dụng ở Việt Nam như tiền Hán nguyên thông bảo của nhà Hán, đồng Khai nguyên thông bảo của nhà Đường. Bên cạnh đó, những đĩnh vàng, đĩnh bạc của Trung quốc cũng được lưu hành. Vào thời phong kiến độc lập: • Thời Đinh, Lê: tiền đồng hiệu Thái bình thông bảo sau đó đúc tiền đồng Thiên phúc trấn bảo. • Thời Lý: dưới triều vua Lý Thái Tông, tiền đồng có hiệu Minh đạo thông bảo, sang đến triều Lý Thần Tông, tiền đồng hiệu là Thuận thiên thông bảo. • Thời Trần, Hồ: các triều vua cũng cho đúc tiền đồng, tiền kẽm. Bắt đầu cho phát hành tiền giấy gọi là Thông bảo hội sao. • Thời Lê, Mạc: tiền đồng trong nước không còn, đúc tiền đồng Thuận thiên thông bảo và tiền đồng hiệu Thiệu bình. đúc tiền kẽm và cả tiền sắt, sau đó tiền sắt bị cấm sử dụng. • Thời Nguyễn: Sau mở các sở đúc tiền ở Bắc thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Song song với tiền đồng, các loại thoi bạc, thoi vàng và tiền bạc, tiền vàng cũng xuất hiện. Vào thời kỳ Việt Nam là một phần của Đông Dương thuộc Pháp: Trong thời kỳ này, đơn vị tiền tệ của cả khu vực Đông Dương là piastre, được dịch ra tiếng Việt là "đồng" hay đôi khi là "bạc". Tiền tệ do chính quyền trong giai đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền của các triều vua nhà Nguyễn vẫn được lưu hành chủ yếu ở các vùng nông thôn m ặc dù b ất h ợp pháp. Tiền đúc lúc đầu có đồng bạc Mexico nặng 27 gam 073 (độ tinh khiết 902 phần nghìn), sau đó là đồng bạc Đông Dương được đúc ở Pháp nặng 27 gam (độ tinh khiết 900 phần nghìn). Ti ền gi ấy thời kỳ này được Ngân hàng Đông Dương phát hành và có thể đem đến ngân hàng đổi thành bạc. Một sắc lệnh ngày 16 tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đông Dương in tiền giấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra thì tỷ lệ này không còn giữ được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhiều lần số bạc đảm bảo. Sau một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp (Đông Dương) có giá trị là 655 miligam vàng (độ tinh khi ết 900 phần nghìn), t ừ đó ch ấm d ứt ch ế đ ộ b ản vị bạc mà chuyển sang bản vị vàng. Vào thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám: Từ 1945-1954: Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 31 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nghị định phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và ngày 31 tháng 11 năm 1946, giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Hồ Chí Minh; một mặt in hình Nông - Công - Binh. Các loại giấy bạc đều có số Ả Rập, chữ quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia chỉ mệnh giá, có ký tên Bộ trưởng Bộ Tài chính (Phạm Văn Đồng hoặc Lê Văn Hiến) và Giám đốc Ngân khố trung ương. Do đó ngoài tên gọi là giấy bạc cụ Hồ, nhân dân còn gọi là giấy bạc tài chính. Ngày 5 tháng 6 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Nghị định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và phát hành giấy bạc ngân hàng. Giấy bạc ngân hàng đ ổi l ấy gi ấy bạc tài chính theo tỷ lệ 1 đồng ngân hàng đổi 10 đồng tài chính. Gi ấy b ạc ngân hàng có các lo ại mệnh giá: 1 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng và 5.000 đồng. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (chữ Hán và chữ quốc ngữ) và hình Hồ Chí Minh; một mặt in hình Công - Nông - Binh, hình bộ đội ở chiến trường. Trên tờ giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán. Sau đó, vi ệc liên lạc gi ữa đ ịa phương và trung ương có nhiều khó khăn, nên chính quyền trung ương cho phép Trung Bộ và Nam Bộ phát hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 đ ồng, 100 đ ồng. Hình ảnh trang trí cũng tương tự như giấy bạc ngân hàng chỉ khác là trên gi ấy b ạc có chữ ký c ủa Ch ủ
  2. tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ (Phạm Văn Bạch), đại diện Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam Bộ. Một số tỉnh được phát hành tín phiếu, phiếu đổi chác, phiếu tiếp tế.... hoặc giấy bạc chỉ lưu hành trong tỉnh. Thời kỳ đó, ở Nam Bộ nền kinh tế chia ra hai vùng, s ử d ụng hai loại tiền khác nhau, vùng thuộc sự kiểm soát của Pháp lưu hành tiền do Pháp phát hành. Mặt khác, mặc dù Chính phủ phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng do phương ti ện giao thông còn khó khăn nên loại tiền này không lưu hành đến Nam B ộ. Chính vì th ế, sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân Nam Bộ vẫn sử dụng các loại tiền giấy, tiền kim loại do chế độ cũ phát hành. Vào giai đoạn từ 1954-1975: Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có hai chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng. Ở miền Nam, từ năm 1953, lưu hành Đồng (tiền Việt Nam Cộng hòa). Sau 30 tháng 4 năm 1975: tiền miền Nam phải đổi thành tiền giải phóng với giá 500 đồng miền Nam cho mỗi đồng giải phóng từ Quảng Nam-Đà Nẵng trở vào, ở Thừa Thiên-Huế trở ra, 1000 đồng tiền miền Nam đổi được 3 đồng giải phóng. Vào năm 1978, sau khi thống nhất hai miền về mặt hành chính, đã có một cuộc đổi tiền nữa. Tỷ giá đổi tiền miền Bắc là 1 đồng cũ thành 1 đồng thống nhất trong khi tại miền Nam 1 đồng giải phóng thành 8 hào ti ền th ống nh ất. L ần đ ổi ti ền thứ ba xảy ra vào năm 1985, khi 10 đồng tiền cũ đổi thành 1 đồng tiền mới. Trong tiếng Việt, "đồng" cũng có thể dùng để chỉ đến những đ ơn v ị ti ền t ệ n ước ngoài, đ ặc bi ệt là những đơn vị ít người biết đến. Trong một số cộng đồng dùng tiếng Việt ở hải ngoại , đồng cũng có thể dùng để chỉ đến đơn vị tiền tệ địa phương. Tiền polymer tại Việt Nam là loại tiền bằng polymer được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành năm 2003, có giá trị lưu hành song song với các đồng ti ền cũ v ới m ục tiêu đáp ứng nhu c ầu lưu thông tiền tệ về cơ cấu mệnh giá (thêm loại tiền có mệnh giá l ớn), ch ủng lo ại, đ ồng th ời nâng cao chất lượng, nhất là khả năng chống làm gi ả c ủa đồng tiền, nhưng một số tờ tiền mới in đã gặp vài lỗi kĩ thuật. Và hiện nay, thị trường tiền tệ Việt Nam đã đáp ứng được các yêu cầu c ơ b ản c ủa n ền kinh t ế. Thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thi ện gắn li ền v ới ti ến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, m ặc dù th ị tr ường ti ền t ệ Vi ệt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trò quan tr ọng trong vi ệc đi ều ti ết cung c ầu v ề nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, d ịch v ụ, đ ời s ống c ủa các chủ thể trong nền kinh tế. Đặc biệt, thị trường đã thực hiện chức năng cân đ ối, đi ều hòa nguồn vốn giữa các ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, hoạt động an toàn và hiệu quả. Thông qua các ho ạt đ ộng trên th ị tr ường ti ền t ệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm thực thi chính sách ti ền tệ quốc gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam đã góp phần nh ất đ ịnh trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế th ị trường theo đ ịnh h ướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển thị trường tiền tệ các n ước trên thế gi ới, th ị tr ường ti ền t ệ Việt Nam vẫn còn non trẻ và nhiều bất cập, cần đẩy nhanh hoàn thiện để phát triển. Một số bất cập của thị trường tiền tệ Việt Nam hiện tại: • NHNN (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) cần thực hiện dứt khoát và rõ ràng chức năng người cho vay cuối cùng trong m ọi th ời đi ểm:Lãi su ất chủ đ ạo ph ải đ ủ v ề “ch ất”: phải là định hướng và sát thị trường . Can thiệp điều hành chính sách ti ền t ệ ph ải đ ủ v ề “lượng”. Lượng tiền cung hoặc rút qua thị trường mở; Lượng ngo ại tệ bán ra đ ể can thi ệp vào thị trường ngoại hối. Các công cụ tái cấp vốn, tái chi ết khấu: th ực hi ện ch ưa liên t ục và nhất quán, thủ tục còn “nặng thủ công”… • Điều hành chính sách tiền tệ vẫn sử dụng công c ụ tr ực ti ếp: t ỷ l ệ tăng tr ưởng tín dụng. • Công cụ gián tiếp vẫn chưa thực sự làm tăng sự “phụ thuộc“ vào NHNN c ủa t ổ chức tín dụng. Công cụ tác động gây ảnh hưởng mạnh và nhanh là: d ự tr ữ bắt bu ộc & Tín
  3. phiếu NHNN bắt buộc. Các công cụ thị trường mở, tái cấp vốn, nhiều ngân hàng hầu như không sử dụng • Nên có cơ chế cho vay qua đêm với tổ chức tín dụng cũng nh ư th ực hi ện giao d ịch thị trường mở với kỳ hạn qua đêm. • Tập quán giao dịch chưa đồng nhất • Quản lý điều hòa nguồn vốn trong các tổ chức tín dụng chưa tốt: khi thừa khi thiếu. • Liên kết giữa các tổ chức tín dụng không tốt. Khi thị trường thi ếu thanh kho ản: có xu hướng phòng thủ. Liên kết yêu giữa các tổ chức tín dụng d ẫn đến kh ả năng ch ống đ ỡ với khủng hoảng kém • Tính thời vụ của thị trường tiền tệ Việt Nam khá cao (Tết dương lịch, âm lịch, n ộp thuế…) • Thanh khoản của thị trường không ổn định: “lúc thừa cùng thừa, lúc thiếu cùng thiếu” Mục tiêu của thị trường tiền tệ là: ổn định và phát triển thị trường tiền tệ để thực hiện có hiệu quả vai trò điều tiết cung cầu vốn ngắn hạn, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nền kinh tế phát tri ển bền vững phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện mục tiêu trên, thị trường tiền tệ Việt Nam cần phát tri ển theo định h ướng sau: Phát triển thị trường tiền tệ an toàn hiệu quả, đồng bộ, mang tính cạnh tranh cao nh ằm t ạo c ơ s ở quan trọng cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, huy động và phân b ổ có hi ệu qu ả các nguồn lực tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Theo đó, thị trường tiền tệ sẽ phát triển mạnh trên cơ sở tổ chức lại và củng c ố thị trường liên ngân hàng v ới c ơ ch ế ho ạt đ ộng thông thoáng, tăng cường vai trò giám sát, điều hành, khả năng kiểm soát, đi ều ti ết th ị tr ường c ủa NHNN; phát triển thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc; tăng cường ho ạt đ ộng nghi ệp v ụ th ị trường mở, tăng số lượng và chủng loại chứng khoán có độ an toàn và tính thanh kho ản cao đ ược phép giao dịch; tăng cường sự liên kết giữa các thị trường ti ền tệ b ộ ph ận, gi ữa th ị tr ường ti ền t ệ và thị trường chứng khoán nhằm tăng tính linh hoạt c ủa thị trường, kh ả năng phòng ngừa và kh ả năng chuyển đổi rủi ro giữa các thị trường; hạn chế can thi ệp hành chính vào ho ạt đ ộng th ị trường tiền tệ.
nguon tai.lieu . vn