Xem mẫu

  1. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 LỊCH SỬ NGÀNH THUẾ VIỆT NAM 1. Sơ lược lịch sử ngành thuế Việt Nam Ngày 13/01/2011 Những nội dung cơ bản của quyết định số 218/2003/QĐ-TTg Tổ chức bộ máy ngành thuế được tổ chức lại theo nguyên tắc: Xác định đầy đủ nhiệm vụ quản lý thuế; đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện tự tính, tự khai tiến tới tự nộp thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tăng cường quyền hạn của cơ quan thuế; tăng cường chức năng quản lý nhà nước về thuế để thực thi tốt pháp luật; bổ sung thêm các quyền hạn cho cơ quan thuế; trên cơ sở tăng cường tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế; tăng cường thanh tra, kiểm tra. Tổ chức bộ máy hợp lý theo hướng cải cách hành chính và hiện đại hoá công tác quản lý thuế. 1. Về nhiệm vụ: Theo QĐ 218, nhiệm vụ cơ bản của Tổng cục Thuế là tổ chức quản lý thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của NSNN, còn nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng chính sách thuế, phí, lệ phí không phải là nhiệm vụ chính của Tổng cục Thuế, mà với tư cách là người quản lý, tổ chức thực hiện chính sách, Tổng cục Thuế có nhiệm vụ đề xuất và tham gia (với Vụ Chính sách thuế- Bộ Tài chính) xây dựng, bổ sung, sửa đổi các văn bản qui phạm pháp luật về thuế. Nhiều nhiệm vụ của quản lý thuế chưa được quy định tại NĐ 281-HĐBT nay được quy định rõ trong QĐ 218 và trở thành các nhiệm vụ trọng tâm của quản lý thuế, đó là: Chiến lược phát triển qui hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm của ngành Thuế để xác định mục tiêu, định hướng và các bước đi trong tiến trình cải cách quản lý thuế ở nước ta. (khoản 1 điều 2) Nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế nhằm làm cho mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ chính sách thuế, nâng cao tính tuân thủ tự giác trong việc chấp hành các nghĩa vụ thuế. Hạn chế các sai sót, các vi phạm do sự thiếu hiểu biết gây ra 1
  2. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 Nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuế nhằm tăng cường quản lý thuế giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, quản lý thực hiện Hiệp định thuế; trao đổi học tập kinh nghiệm giữa các quốc gia trong lĩnh vực quản lý thuế và hội nhập Quốc tế trong lĩnh vực thuế. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với các hoạt động kinh doanh mang tính chất khu vực và toàn cầu. Nhiệm vụ phát triển hệ thống công nghệ thông tin quản lý thuế, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế, nhanh chóng hiện đại hoá ngành thuế. 2- Về quyền hạn của cơ quan thuế: Bổ sung thêm các quyền: Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về các đối tượng nộp thuế vi phạm nghiêm trọng các chính sách thuế. Được yêu cầu các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan cung cấp tài liệu và có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thuế để thu thuế. Xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các tổ chức, cá nhân không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp tài liệu hoặc không phối hợp với cơ quan thuế để thu thuế. Thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành pháp luật về thuế Quyết định việc uỷ nhiệm cho các cơ quan, tổ chức thu một số khoản thuế. (mở rộng hơn so với qui định trong NĐ281).Đây cũng là một trong những nội dung cải cách hành chính về quản lý thuế. Ngoài ra, Quyết định 218 còn quy định tại mục 18, điều 2: “thực hiện những nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao” tạo cơ sở pháp lý cho Bộ trưởng Bộ Tài chính giao thêm những nhiệm vụ khác cho Tổng cục Thuế. 3- Về cơ cấu tổ chức: Nguyên tắc cơ cấu tổ chức của cơ quan thuế: Thu gọn đầu mối, nhưng bao quát hết các nhiệm vụ. Cơ cấu tổ chức chủ yếu theo chức năng và theo đối tượng kết hợp theo sắc thuế nhằm chuyên môn hoá, áp dụng tin học, giảm tiêu cực, giảm phiền hà cho ĐTNT; 2
  3. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 Phát triển các tổ chức để thực hiện và đảm đương những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, đó là: dịch vụ hỗ trợ ĐTNT, thanh tra kiểm tra, bồi dưỡng đào tạo cán bộ, tin học hoá, quản lý ĐTNT; thu gọn các tổ chức mang tính chất phục vụ. Nâng cao vị thế chỉ huy của Tổng cục- phụ cấp trách nhiệm tăng lên. a/ Bộ máy giúp việc Tổng cục trưởng TCT: Bộ máy giúp việc Tổng cục trưởng TcT được tổ chức thành các Ban. Số đầu mối giảm từ 22 phòng còn 14 Ban và 3 đv sự nghiệp. Thu hẹp việc tổ chức theo sắc thuế, mở rộng tổ chức theo chức năng và đối tượng Thành lập Ban Ban Tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế. 3 Đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục: Trung tâm tin học - thống kê Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ Thuế Tạp chí Thuế. Đại diện Tổng cục Thuế tại tpHCM tương đương cấp Ban. b/ Cơ cấu tổ chức Cục Thuế và Chi cục Cơ cấu tổ chức Cục Thuế lần này đã giảm đáng kể số đầu mối: Cấp Cục thuế tổng số giảm khoảng hơn 100. Nếu tính cả cấp Chi cục thì tổng số đầu mối (kể cả các tổ, đội) toàn ngành giảm khoảng gần 1000 Giải thể Phòng Nghiệp vụ thuế: Nhiệm vụ của Phòng này trước đây nay được chuyển giao cho 2 Phòng đảm nhiệm là Phòng Tổng hợp và dự toán và Phòng Tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT. Xoá bỏ Phòng Thu lệ phí trước bạ và thu khác. Cơ cấu Chi cục Thuế: số tổ, đội cũng được sắp xếp lại và giảm so với trước đây, đồng thời cũng phân công lại một số nhiệm vụ giữa các tổ, đội thuộc Chi cục. Quyết định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thuế trực thuộc Tổng cục Thuế, Chi cục Thuế trực thuộc Cục Thuế lần này đã thể hiện một bước thực hiện cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp lại tổ chức, tinh gọn đầu mối khá cơ bản tạo điều kiện thực hiện cải cách quản lý thuế. 4- Về con dấu, kinh phí và mối quan hệ của cơ quan thuế với UBND các cấp: 3
  4. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 Về con dấu Tổng cục Thuế được sử dụng con dấu hình quốc huy, nhằm thể hiện tính chất cơ quan công quyền quan trọng của Nhà nước, cũng như tạo thuận lợi trong các giao dịch Quốc tế. Về kinh phí Tổng cục Thuế được thực hiện cơ chế khoán kinh phí do Thủ tướng Chính phủ quy định. Về quan hệ với chính quyền địa phương Theo quy định tại Nghị định 281- HĐBT thì cơ quan thuế chịu sự lãnh đạo song trùng của cơ quan thuế cấp trên và UBND cùng cấp. Trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số điểm hạn chế. Nay Quyết định 218 quy định trách nhiệm phối hợp của cơ quan thuế ở địa phương với UBND các cấp và tổ chức, cá nhân. Đây chính là điều kiện để cơ quan thuế chủ động hơn trong việc quản lý thuế. Đồng thời cũng quy định trách nhiệm của UBND các cấp trong việc phối hợp chỉ đạo, kiểm tra cơ quan thuế. 2. Giai đoạn trước cách mạng tháng 8/1945 Ngày 06/01/2011 Những hình thức đóng góp thời kỳ đầu dựng nước và thời Bắc thuộc (Từ cuối thời kỳ Hùng Vương đến giữa thế kỷ thứ X) 1- Thời kỳ đầu dựng nước: Trải qua nhiều thiên niên kỷ tồn tại và phát triển, người dân Việt ngày càng đông, sống trải rộng suốt từ biên giới Việt - Trung đến Quảng Bình ngày nay. Đầu thiên niên kỷ thứ II trước Công nguyên (TCN) họ đã phát minh ra kỹ thuật luyện kim và phát triển dần lên, tạo cơ sở cho một nền văn hoá đồng thau rực rỡ: Văn hoá Đông sơn. Đây cũng 4
  5. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 là thời kỳ mà người Việt biết chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng lúa nước, dùng sức kéo trâu bò... Từ sự phân công lao động xã hội, phân hoá giai cấp và với nhiều yêu cầu khác nhau, 15 khu vực lớn - lúc bấy giờ được gọi là "bộ lạc" - đã tập hợp nhau lại trong một quốc gia thống nhất: nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên của người Việt ra đời. Dưới thời Vua Hùng Vương, ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà Vua, bao gồm nhiều loại ruộng đất công ở các làng xã. Theo Các Mác, "nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về tư liệu sản xuất thì nơi đó, người lao động tự do hay không tự do, đều phải buộc thêm vào thời gian lao động tất yếu để nuôi sống mình, một số thời gian trội ra để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất". (Các Mác - tư bản. Quyển I. Tập I - NXB Sự Thật - Hà nội - 1963. trang 321). Đối với Việt Nam, quy luật đó cũng không thể là ngoại lệ. Cùng với sự xuất hiện quyền chiếm hữu ruộng đất của một số tù trưởng ở nước ta thời đó, quan hệ bóc lột đã bắt đầu phát sinh. Những thành viên trong các công xã phải nộp cho tù trưởng của họ một phần sản phẩm làm ra hoặc một số ngày lao dịch không công. Hơn nữa, Nhà nước của vua Hùng muốn tồn tại và phát triển , tất nhiên phải thu một số vật phẩm của dân, bao gồm lương thực, thú vật săn bắt, sản phẩm thủ công..., những mầm mống đầu tiên của hình thức thuế. Trong thời kỳ ấy, khoản thu của Nhà nước Văn Lang ở Trung ương là một bộ phận tài sản, vật phẩm của các địa phương, do các Lạc tướng trích nộp lên trên. Cuối thế kỷ thứ II TCN, nước Âu Lạc ra đời thay thế nước Văn Lang. Vua An Dương Vương được thừa hưởng những tài sản mà Nhà nước của vua Hùng để lại và tìm cách gia tăng thêm. Chế độ cống nạp, đóng góp được thực hiện đều đặn, ngày càng phong phú, cho phép nhà vua xây dựng quân đội hùng mạnh, có nhiều thuyền chiến, giáo mác, cung tên, xây dựng lâu đài ở trung tâm thành Cổ Loa. Tuy nhiên, ở thời kỳ đầu dựng nước, các hình thức đóng góp của dân chỉ dừng lại ở trạng thái "mầm mống thuế", cống phẩm là những hiện vật trong đó lương thực, thực phẩm, thú vật săn bắt là chủ yếu. 5
  6. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 2- Thời Bắc thuộc: Cuộc xâm lược của Triệu Đà năm 180 - 179 TCN, qua câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thuỷ đã đưa Âu Lạc vào ách đô hộ của đế chế phương Bắc: thời Bắc thuộc, qua các triều đại nhà Triệu, nhà Tây Hán, Đông Hán, nhà Ngô, nhà Tuỳ, nhà Đường. 2.1 Thời nhà Triệu, Tây Hán thống trị (từ thế kỷ thứ II TCN đến đầu thế kỷ thứ I SCN): Lúc đầu, thế lực thống trị phong kiến phương Bắc chưa trực tiếp nắm ngay được toàn bộ nước ta. Chúng bắt buộc phải để cho các Lạc tướng được quyền trị dân và bóc lột như cũ, với điều kiện là các Lạc tướng đó phải thường xuyên vơ vét những sản phẩm quý của dân (như vàng, bạc, ngọc trai, sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi...) để cống nạp lên cho chúng. Nói cách khác, vua chúa phương Bắc đã dựa trên sự khống chế bằng bạo lực, uy quyền để vơ vét cống phẩm, vừa có tính chất cướp bóc, vừa có tính chất sơ khai địa tô, với mức áp đặt tuỳ thích, không theo phép tắc, luật lệ cố định. 2.2 Thời nhà Đông Hán, nhà Ngô, nhà Tuỳ thống trị (từ dầu thế kỷ thứ I đến dầu thế kỷ thứ VII): Nhà Đông Hán đã bỏ chế độ Lạc tướng "cha truyền con nối", thay thế bằng chế độ "huyện lệnh" (đặt những viên cai trị ở các huyện) tuyển dụng từ giai cấp quý tộc ở địa phương, nhưng ở một số vùng quan trọng, thì có các quan lại người Trung quốc trực tiếp cai trị. Đặc điểm của sự thống trị "lưỡng hợp" đó đã quyết định sự tồn tại song song của hai phương thức bóc lột trong thời kỳ này là cống nạp và tô thuế. Nhìn chung cả nước, phương thức bằng cống nạp lúc này vẫn là phổ biến. Về cống nạp, dân ta phải nộp hạt châu, hương dược, ngà voi, sừng tê giác, đồi mồi, san hô, chim vẹt, chim chả, chim công, cùng các vật lạ... Về tô thuế, chính quyền phương Bắc đã thi hành chính sách bóc lột bằng địa tô. Xét về bản chất kinh tế, cần phân biệt hai khái niệm giữa "tô" và "thuế". Tô là sản phẩm thặng dư mà nông dân phải nộp cho chủ đất khi sử dụng ruộng đất của họ. Thuế là những khoản đóng góp của mỗi người dân đối với Nhà nước để giai cấp thống trị duy trì quyền lực công cộng. Trong thời kỳ ấy, kẻ thống trị tự coi mình là chủ đất, vừa 6
  7. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 là người đứng đầu Nhà nước phong kiến. Người nông dân vừa là người cày ruộng của vua, vừa là thần dân của vua. Bởi vậy, họ phải nộp cho vua cả tô lẫn thuế. Đúng như Các Mác đã viết:"nếu đối lập với những người sản xuất trực tiếp không phải là những kẻ sở hữu ruộng đất tư nhân, mà là của Nhà nước, như ở Châu á, với tư cách là một kẻ sở hữu ruộng đất, đồng thời là vua chúa thì địa tô kết hợp làm một với thuế. Nói đúng hơn, trong trường hợp đó, không có thuế khoá nào khác phân biệt với hình thái địa tô" (Các Mác. Tư bản. Quyển III, tập III trang 243-244). 2.3 Thời nhà Đường thống trị (Thế kỷ VII đến đầu thế kỷ X) Dưới thời thống trị của nhà Đường, chính quyền đã với tay tới cơ sở làng, xã. Nhà Đường đã đặt ra "tiểu xã", "đại xã", "tiểu hương", "đại hương" với quy mô: tiểu xã gồm từ 10 đến 30 hộ; đại xã từ 40 đến 60 hộ; tiểu hương từ 70 đến 150 hộ; đại hương từ 160 hộ trở lên. Đặc điểm đó đã quyết định phương thức bóc lột trong thời kỳ này, chủ yếu là tô, thuế. Nhà Đường đã thi hành chế độ Tô, Dung, Điệu ở nước ta: Đối với tô, nhân đinh cày ruộng phải nộp cho Nhà nước 2 thạch lúa; với dung, nhân đinh phải đi lao động công ích 1 năm từ 20 đến 50 ngày; với điệu, thợ thủ công phải nộp sản phẩm do mình làm ra (Lịch sử Việt nam - tập I - trang 121). Theo nguyên tắc chung, tuỳ kết quả sản xuất được nhiều hay ít để quy định mức thu sản phẩm, không thành quy tắc cố định, rõ ràng. Dân cư miền núi cũng phải nộp tô thuế bằng nửa suất của dân cư miền xuôi. Ngoài ra, ở các vùng trung tâm, các hộ được chia thành "thượng hộ" (phải nộp 1 thạch, 2 đấu thóc/hộ), "thứ hộ" (8 đấu thóc/hộ) và "hạ hộ" (6 đấu thóc/hộ). (Nghiên cứu lịch sử số 16-trang 33). Nhân đinh có vị trí quan trọng cho việc thu tô, thuế, lao dịch, bắt lính. Vì vậy, để thực hiện triệt để chủ trương bóc lột, chính quyền đô hộ rất chú ý đến việc kiểm kê, kiểm soát, nắm chắc hộ khẩu của dân. 2.4 Khái quát chính sách thuế dưới thời Bắc thuộc Nhìn chung, trong thời Bắc thuộc, vấn đề tô thuế nổi lên một số điểm cơ bản sau đây: - Từ thời Tây Hán (Thế kỷ thứ II TCN) đến hết thời nhà Tuỳ (đầu thế kỷ thứ VII) thống trị nước ta, nhà nước phong kiến phương Bắc không trực tiếp quản lý và kinh doanh ruộng đất, không cần sử dụng nhiều lao động sống (trừ một số nhu cầu đắp đê, 7
  8. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 xây dựng...). Phương thức bóc lột cống nạp là chủ yếu. Lúc này, kinh tế tự nhiên ở nước ta gần như hoàn toàn bao trùm, kinh tế hàng hoá còn rất yếu. Có hai hình thức tô, thuế cùng tồn tại bằng hiện vật và bằng lao dịch nhưng tô hiện vật chiếm vai trò chủ yếu. - Từ thời Đông Hán (thế kỷ thứ I) phương thức bóc lột tô thuế đã xuất hiện nhưng đến thời nhà Đường (từ thế kỷ thứ VII đến đầu thế kỷ thứ X) mới chiếm vị trí chủ yếu. Quá trình chuyển biến từ phương thức cống nạp sang phương thức bóc lột bằng tô thuế cũng là quá trình hình thành chế độ phong kiến, địa chủ ở nước ta. Dưới thời kỳ bị phong kiến phương Bắc thống trị, một lớp địa chủ người Việt dần dần xuất hiện. Đó là những tù trưởng các bộ lạc cũ đã đầu hàng phong kiến phương Bắc, được phong hầu tước, cấp đất hoặc là những quý tộc, hào trưởng địa phương, lợi dụng uy quyền của mình, dần dần xâm chiếm ruộng đất công. Tầng lớp địa chủ mới đã tiếp tục bóc lột nông dân bằng hình thức địa tô hoặc lao dịch một số ngày lao động không công... - Tổ chức phụ trách thu các loại cống nạp, tô, thuế dưới thời Bắc thuộc được gọi chung là "công tào", chủ yếu là: Diêm quan, phụ trách thu thuế muối; Thiết quan thu thuế khoáng sản, đặc biệt là sắt; Thuỷ quan, thu thuế thuỷ sản; các huyện lệnh, trưởng hương, trưởng xã chịu trách nhiệm thu các loại sản phẩm, tô thuế trong địa bàn được phụ trách. Sản phẩm cống nạp phải tập trung chuyển về kho chính tại Trung quốc. - Chế độ cống nạp, tô thuế rất nặng nề, một phần để nuôi dưỡng bộ máy quan lại và đội quân chiếm đóng. Nhưng trên thực tế, bọn quan lại đô hộ sống chủ yếu bằng vơ vét, cướp bóc tài sản của nhân dân ta. Trời rét căm căm, dân phải xuống biển mò ngọc trai, đồi mồi, lên rừng tìm sừng tê giác, ngà voi... Nếu không đủ số lượng thì bị đòn roi, chém giết dã man... Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm bùng nổ hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, đấu tranh quyết giành độc lập, tự do cho đất nước. 3.Giai đoạn 1945 - 1955 - Thời kỳ đầu chưa có chính sách thuế chính thức dưới chính quyền cách mạng Ngày 05/01/2011 8
  9. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 Bối cảnh lịch sử thời kỳ đầu của Cách mạng tháng 8 và chính sách động viên đóng góp chủ yếu theo hình thức tự nguyện Sau cách mạng tháng 8 thắng lợi, nhu cầu chi tiêu cho công tác an ninh-quốc phòng và bảo vệ đất nước trên nhiều mặt ngày càng lớn. Trong lúc đó, quỹ ngân khố Trung ương mà Nhà nước ta nắm được chỉ có 1.250.000 đồng Đông Dương (Một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) kể cả 580.000 đồng tiền hào rách chờ ngày tiêu huỷ. Tuy vậy, chủ trương của Hồ Chủ Tịch và Chính Phủ cách mạng lâm thời là không thể đơn thuần giải quyết vấn đề tài chính Nhà nước Việt nam chỉ biết bắt buộc nhân dân nộp thuế như chế độ cũ. Với phương châm "lấy dân làm gốc", dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, ngày 4-9- 1945, Chính Phủ đã ban hành sắc lệnh số 4 thành lập "Quỹ độc lập" để thu nhận các món tiền và đồ vật mà nhân dân sẵn lòng quyên góp ủng hộ nền độc lập quốc gia. Trong khuôn khổ của Quỹ độc lập, từ ngày 19-9-1945 Tuần lễ vàng đã được phát động long trọng trong cả nước. Nhân dịp này, trong bức thư gửi đồng bào cả nước, Hồ Chủ Tịch đã nhấn mạnh "Tuần lễ vàng sẽ thu góp số vàng trong nhân dân, nhất là của các nhà giầu có để dùng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc phòng. Tuần lễ vàng sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và cho toàn thế giới biết rằng trong lúc chiến sĩ Việt minh trên các mặt trận quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự do độc lập của nước nhà thì đồng bào ở hậu phương, nhất là những nhà giàu có cũng có thể hy sinh được chút vàng để phụng sự tổ quốc. Như thế, Tuần lễ vàng không những có ý nghĩa đóng góp vào nền tài chính, quốc phòng mà còn có ý nghĩa chính trị quan trọng... Tôi tin rằng toàn quốc đồng bào, nhất là các nhà giàu có , trong sự quyên góp này sẽ xứng đáng với sự hy sinh phấn đấu của các chiến sỹ ái quốc trên các mặt trận" (Hồ Chủ Tịch toàn tập - NXB Sự thật- Hà nội 1984- Tập 4- Trang 15-16). Nhờ vậy, Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng và Tuần lễ đồng đã được đồng bào cả nước nhiệt liệt hưởng ứng. Nhiều người, nhiều gia đình đã không tiếc những đôi hoa tai vàng từ hồi còn con gái, những chiếc nhẫn cưới, những đôi vòng, đôi xuyến vốn là những kỷ niệm quí giá, thiêng liêng của gia đình, những bộ tam sự, ngũ sự đã bao đời dùng để thờ cúng tổ tiên góp vào công quỹ Nhà nước. Một cụ già 80 tuổi mang đến một gói lụa điều 9
  10. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 bên trong là nén vàng gia bảo nặng 17 lạng, có người quyên góp toàn bộ tư trang của những người trong gia đình đến nộp cho ban tổ chức Tuần lễ vàng... Lòng dân đối với chính quyền cách mạng thật vô biên. Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Tài chính ngày 20- 5-1946 thì Quỹ độc lập đã thu được 20 triệu đồng Đông Dương và Tuần lễ vàng đã động viên được khoảng 370kg vàng, tương đương với số thuế thu trong 1 năm dưới chính quyền thực dân, phong kiến ở nước ta. (Võ Nguyên Giáp – Những chặng đường lịch sử – NXB Chính trị quốc gia 1994 – trang 275). Thực hiện 10 chính sách trong chương trình Việt Minh trước thực trạng chế độ thuế khoá dưới chế độ thực dân phong kiến cũ quá hà khắc, Đảng và Chính phủ chủ trương bãi bỏ các thứ thuế hà khắc do Pháp - Nhật đặt ra, đồng thời xây dựng một hệ thống chính sách thuế mới hợp lý, công bằng, giảm nhẹ hơn, nhằm giải phóng sức sản xuất bị kìm hãm từ bao đời nay do nạn sưu cao, thuế nặng. Nhưng tiếc rằng, do không nắm vững các quan điểm, nội dung chính sách thuế mới nên một số cán bộ lại tuyên truyền, nhấn mạnh đến ý kiến: "Chính quyền cách mạng sẽ bỏ hết các thứ thuế", gây nên sự hiểu lầm trong một số người là dưới chính quyền cách mạng sẽ không phải nộp thuế nữa. Vì vậy, sắc lệnh số 11 ngày 7-9-1945 của Chính Phủ đã nêu rõ: "Chính sách thuế khoá hiện hành sẽ thay đổi dần; Mỗi khi bãi bỏ một thứ thuế cũ hay đặt ra một thứ thuế mới phải có sắc lệnh ấn định". Trong sắc lệnh cũng đã qui định: "Bãi bỏ thuế thân là một thứ thuế vô lý, trái ngược với tinh thần của chính thể dân chủ cộng hoà". Việc xoá bỏ thuế thân đã thực sự giải phóng nhân dân ta thoát khỏi sự trói buộc vào chiếc thẻ thuế thân, gắn với bắt bớ, giam cầm, hành hạ nhân dân như đối với người nô lệ. Chính Phủ cũng ra lệnh đình chỉ hẳn việc nấu và bán thuốc phiện nhằm chống tệ nạn nghiện hút mà thực dân Pháp đã, đầu độc nhân dân ta để thu lợi nhuận và bần cùng hoá đời sống nhân dân ta, gây nên cảnh tan nát của các gia đình. Ngày 29-9-1945, Bộ Tài chính đã ban hành Chỉ thị số 3-TC bãi bỏ chế độ độc quyền muối . Đồng thời tổ chức mua muối của dân với giá hợp lý, giảm bớt thiệt thòi cho nhân dân, tạo được yên tâm, phấn khởi sản xuất trong dân. 10
  11. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 Trong tình hình bị lũ lụt gây mất mùa, đói kém cho nông dân, ngày 28-10-1945, Bộ Tài chính đã được phép ban hành Nghị định giảm đồng loạt 20% thuế điền thổ chung cho cả nước và miễn thuế điền thổ năm 1946 cho các vùng bị lũ lụt. Dưới chế độ cũ, thuế môn bài cũng là một gánh nặng đáng kể với người buôn bán nhỏ. Sắc lệnh ngày 27-9-1945 đã quyết định bãi bỏ các hạng thuế môn bài thấp (dưới 50 đồng/năm). Đối với các hộ nộp thuế môn bài với mức cao hơn cũng được bỏ phần phụ thu nộp cho Ngân sách các cấp nhằm giảm nhẹ mức đóng góp của các cơ sở SXKD. Trong hoàn cảnh nhân dân ta đang bị nạn đói hoành hành, sắc lệnh số 57 ngày 10-11- 1945 đã quyết định cấm sản xuất, tàng trữ, tiêu thụ rượu nấu bằng ngũ cốc, gắn với cuộc vận động sâu rộng toàn dân không uống rượu với khẩu hiệu "Mỗi giọt rượu là một giọt máu của đồng bào". Những vi phạm đối với các quy định trên đều bị xử lý nghiêm khắc. Chế độ công quản, độc quyền nấu rượu của các Công ty tư nhân dưới chính quyền cũ cũng bị bãi bỏ. Được giải phóng khỏi thuế thân; giảm, miễn thuế điền thổ, thuế môn bài, thoát khỏi nạn độc quyền công quản thuốc phiện, rượu, muối, bước đầu được hưởng chế độ tư do dân chủ, đời sống giảm bớt khó khăn, quần chúng nhân dân vô cùng phấn khởi, yên tâm đẩy mạnh sản xuất. Nhìn về hình thức bên ngoài, thì số thu của NSNN có bị giảm sút nhưng cái được còn lớn lao hơn nhiều, đó là "thu được lòng dân", tạo được lòng tin của dân đối với Đảng, Bác Hồ, Chính Phủ. Nhân dân quyết tâm đi theo Đảng, sẵn sàng chịu đựng mọi hy sinh, mất mát để giữ được nền độc lập, tự do vừa mới giành được. Kết quả đóng góp tự nguyện của nhân dân tuy rất to lớn song vì đời sống còn quá nghèo nàn, khả năng đóng góp bằng tinh thần yêu nước còn rất hạn chế. Sau ngày kháng chiến Nam bộ bùng nổ (23-9-1945) nhu cầu chi tiêu của NSNN tăng mạnh. Trong lúc đó, đời sống kinh tế xã hội từng bước ổn định hơn. Chính phủ xác định đã đến lúc cần có thêm một số biện pháp Tài chính phù hợp để động viên sự đóng góp của nhân dân mang tính nghĩa vụ, đúng quy định của Nhà nước. Đầu năm 1946, Bộ Tài chính đã điều chỉnh tăng thuế đối với thuốc lào, thuốc lá, rượu ngoại, các loại bài lá, với những người đến mua vui tại các cuộc du hý công cộng : rạp hát, rạp chiếu bóng, rạp xiếc, tiệm khiêu vũ, nhà ả đào, cuộc đua ngựa (Nghị định số 11
  12. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 126/TC ngày 2/1/1946; Nghị định số 131/TC ngày 7/1/1948), phục hồi chế độ thu thuế môn bài đối với loại buôn bán nhỏ do tình hình kinh tế tốt hơn, có khả năng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế. Theo Nghị định 193/TC ngày 5-2-1946 của Bộ Tài chính, xe ô tô vận tải phải nộp thuế đặc biệt tính theo chỗ ngồi dành cho hành khách hay mức trọng tải của mỗi xe, dùng cho việc sửa chữa đường sá, cầu cống. Theo Nghị định 194/TC ngày 15-2-1946 của Bộ Tài chính, trâu, bò, ngựa, lợn, cừu, dê, đưa ra làm thịt ăn hay bán phải nộp thuế đặc biệt với mức thuế phân biệt giữa Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ đối với mỗi con trâu, bò, ngựa là 30đ, 20đ, 15đ, mỗi con lợn, dê, cừu là 15đ, 10đ, 5đ. Ngoài ra, Nhà nước tăng thêm thuế lưu hành thuốc lào, thuốc lá, rượu tây, rượu tầu; tăng gấp 4 lần với việc lưu hành bài lá; đặt thêm thuế vãng lai đối với tàu thuyền đi lại trên sông Bắc kỳ. Ngày 10-4-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 48 thành lập một khoản đóng góp bắt buộc mới được gọi là "đảm phụ quốc phòng" với đạo lý: "Trong khi các chiến sỹ mang xương máu ra bảo vệ non sông thì quốc dân ở hậu phương được yên ổn làm ăn cũng phải có nhiệm vụ đóng góp vào công cuộc bảo vệ quốc gia". Đảm phụ quốc phòng động viên sự đóng góp rộng rãi mang tính chất bắt buộc theo nghĩa vụ công dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc với định mức chung trong năm 1946 đối với mọi công dân từ 18 tuổi đến 65 tuổi là 5đồng/suất (trừ người nghèo khổ, tàn tật không kế sinh nhai, binh lính tại ngũ, cha mẹ, vợ chồng liệt sĩ...) Riêng đối với người có ruộng đất, hoạt động kinh doanh nộp thuế điền thổ, thuế thổ trạch, thuế môn bài và công nhân viên chức mà lương bổng trong năm trên 1.000 đồng thì nộp thuế theo "đảm phụ tỷ lệ" từ 20 đồng đến 3.000 đồng. Chỉ trong thời gian ngắn, riêng ở Bắc bộ và Trung bộ khoảng 8 triệu công dân đã đóng góp xấp xỉ 40 triệu đồng, nhiều người trong diện được miễn cũng xin được đóng góp "đảm phụ quốc phòng", có người nằm trong diện đóng góp xin được đóng cao hơn so với mức quy định. 12
  13. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 Theo các sắc lệnh số 69 ngày 15-5-1946 và sắc lệnh số 78 ngày 29-5-1946. Chính Phủ đã điều chỉnh biểu thuế điền thổ cho phù hợp với thời giá lúc bấy giờ, nhẹ hơn nhiều so với trường hợp "cấy rẽ, nộp tô". Hình thức đóng góp tự nguyên cũng được phát triển với nhiều dạng phong phú như "Hũ gạo nuôi quân" "Giúp binh sĩ bị nạn", "Giúp đồng bào tản cư" "Quỹ bình dân học vụ" " Đón thương binh về làng" "Đỡ đần bộ đội" "Hũ gạo cứu nước", "Hũ gạo nuôi quân", "Thóc Bác Hồ khao quân" ... Nhân dân ngày càng tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, hăng hái đóng góp sức người, sức của. Bên cạnh các hình thức đóng góp như trên, bấy giờ còn có hình thức đóng góp khác rất phổ biến, đó là "ăn cơm nhà, làm việc nước", bụng đói nhưng vẫn hăng hái luyện tập quân sự, canh gác xóm làng suốt ngày đêm hay đi dân công phục vụ tiền tuyến. Một gia đình có con em đi bộ đội, đi dân công thì cả xóm phân công nhau giúp đỡ, trông nom người già yếu ở nhà để người đi được yên tâm, ruộng vườn không bị hoang hoá. Cùng với chính sách động viên, Đảng và Chính Phủ đã rất quan tâm tìm mọi cách từng bước bồi dưỡng sức dân qua các phong trào vận động "đẩy mạnh tăng gia sản xuất", "thực hành tiết kiệm", "giảm tô giảm tức"... phân chia ruộng đất lĩnh canh trong các đồn điền tịch thu của bọn thực dân, phản động hoặc tạm giao ruộng đất tịch thu của bọn Việt gian cho nông dân nghèo canh tác, cho vay tín dụng bằng tiền, bằng trâu bò, nông cụ..., không đòi hỏi thế chấp bằng ruộng đất, tài sản... Chính sách tiết kiệm đã trở thành "quốc sách" được mọi cấp, mọi ngành và đại bộ phận các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và thực hiện trong tiêu dùng. Bộ máy chính quyền của mỗi Tỉnh thường không quá 30 người; rất ít trường hợp dùng xe công cho việc riêng; đất không bị bỏ hoang, kể cả những mảnh vườn nhỏ xung quanh các cơ quan Trung ương tại An toàn khu Việt Bắc; mỗi tuần lễ, mỗi gia đình bớt ăn mấy nắm gạo bỏ vào hũ gạo nuôi quân, hũ gạo cứu đói...thậm chí ở cơ quan, một phong bì thư được dùng đi dùng lại 2-3 lần; bản nháp công văn, lần đầu viết bằng bút chì, lần sau mới viết bằng bút mực... Nhìn về hình thức, những việc trên đây mang tính bình thường nhưng trong lúc đất nước còn nghèo, với phương châm "kiến tha lâu đầy tổ" "năng nhặt chặt bị" "góp gió thành bão" thì những việc trên đây có ý nghĩa rất thiết thực, to lớn. 13
  14. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 Các hình thức quyên góp, đảm phụ quốc phòng và một số cải cách về thuế chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu chi tiêu của NSNN. Để vươn lên thế chủ động về tài chính, Đảng và Chính Phủ đã quyết định khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện để in và phát hành giấy bạc Việt nam. Ngày 15-11-1945 cơ quan ấn loát (in bạc) của Bộ Tài chính, tiền thân của nhà in Ngân hàng ra đời và bắt đầu hoạt động... Từ 3/2/1946 (ngày tết đầu tiên sau Cách mạng Tháng 8 thắng lợi) ở các tỉnh Nam Trung bộ, những tờ giấy bạc đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra mắt trước sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhân dân. Mọi người nô nức đổi tiền ĐD lấy tiền Việt Nam, nên Chính phủ đã thu hồi được số tiền ĐD đáng kể để chi tiêu trong những vùng chưa phát hành tiền Việt Nam. Giấy bạc Việt Nam trong giai đoạn này do Bộ Tài chính phát hành nên có tên gọi là "tiền tài chính". Trên tờ giấy bạc có hình Hồ Chủ tịch nên còn được gọi là "giấy bạc Cụ Hồ". Ngày 3/11/1945, Quốc hội đã quyết định cho lưu hành giấy bạc Việt Nam trong cả nước, kịp thời trở thành lợi khí phục vụ nhu cầu của cuộc trường kỳ kháng chiến nổ ra từ 19/12/1946. Đầu năm 1948, qua nhiều thắng lợi giòn giã, cuộc kháng chiến chống Pháp đã được chuyển sang giai đoạn cầm cự, giằng co với địch. Về kinh tế hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, toàn dân "Thi đua ái quốc", phong trào thi đua sản xuất được đẩy mạnh ở tất cả vùng tự do. Về nông nghiệp đã có một số chính sách khuyến khích sản xuất được ban hành như: chia lại công điền, tạm cấp ruộng đất vắng chủ, tăng cường giảm tô, giảm tức, cho vay sản xuất nông nghiệp...Về công thương nghiệp: cho vay vốn, tích cực bao vây kinh tế địch, bảo vệ hàng sản xuất ở vùng tự do. Nhờ đó, trong khu vực nông nghiệp, công thương nghiệp đã có những bước phát triển khá. Về thuế, đã có những điều chỉnh phù hợp với thời giá lên cao, biểu thuế điền thổ tăng 50%, thuế nhập khẩu tăng từ 5% lên 10% và từ 15% lên 20% (Sắc lệnh số 218 ngày 20/8/1948) Bước vào năm 1949, căn cứ vào tình hình chung có nhiều biến động có lợi cho ta, Chính Phủ ra lệnh "Tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công". Ngày 8-5-1949, sắc lệnh số 36 ra đời, đặt ra quỹ "Tham gia kháng chiến" quy định suất đóng góp bắt buộc cho mỗi công dân là 60 đồng, tương đương 10 ngày sinh hoạt phí của bộ đội. 14
  15. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 Năm 1950, lực lượng quân sự của ta mạnh mẽ hơn nhiều. Cách mạng Trung quốc thành công có ảnh hưởng tích cực tới cuộc kháng chiến của ta, Liên Xô, các nước XHCN và nhiều nước khác lần lượt công nhận Chính Phủ ta làm cho địa vị quốc tế của nước ta ngày càng tăng thêm, thế của ta càng mạnh. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu kháng chiến ngày càng nhiều theo hướng tích cực trên các lĩnh vực, ngày 12-12-1950 Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh Tổng động viên nhân tài vật lực của toàn dân theo phương châm "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng" Tất cả các địa phương, toàn dân thi đua thực hiện bằng được khẩu hiệu "Thuế không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Cuộc vận động trên không những chỉ có đồng bào ở vùng tự do hăng hái thi đua làm nghĩa vụ đóng góp đảm phụ, nộp thuế mà cả đồng bào vùng tạm bị chiếm cũng hăng hái, phấn khởi góp quân lương, bán thóc cho Chính Phủ. Nhân dân ta còn vượt qua bao nguy hiểm của vòng vây của giặc để tự nguyện gánh, thồ thóc ra vùng tự do "đóng nhanh lúa tốt"... Nhìn chung trong các năm 1950-1951, kinh tế – tài chính của ta gặp rất nhiều khó khăn do cuộc kháng chiến phát triển, chi tiêu ngày càng nhiều. Việc thi hành chính sách tài chính còn nhiều thiếu sót, mức động viên còn mang tính bình quân, chính sách thuế còn dè dặt . . Thuế thu vừa thấp, vừa chưa đánh mạnh vào các tầng lớp có nhiều thóc, nhiều tiền . Thuế thu bằng tiền chỉ bảo đảm phần nhỏ yêu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế điền thổ và quỹ công lương từ năm 1950 đã chuyển sang thu bằng hiện vật, theo luỹ tiến nhưng mức huy động còn chưa sát với các tầng lớp nhân dân. Số thu cho NSNN còn thấp nên Chính phủ phải dựa nhiều vào việc phát hành giấy bạc để đáp ứng đủ yêu cầu chi tiêu về quân sự, hành chính. Trong bài trả lời phỏng vấn của Báo Cứu quốc về kết quả tổng động viên, Bác Hồ đã nói :"Từ nay trở đi, cuộc tổng động viên phải tiếp tục rộng lớn, đều hơn, mạnh hơn. Phải làm cho bộ đội đủ ăn, đủ mặc, đủ người giúp việc trong khi chuẩn bị chiến trường, sửa sang đường sá" (Hồ Chí Minh toàn tập - NXB Sự thật - Tập 5- Trang 316) Về tài chính, phương hướng đề ra là động viên đến mức cao nhất khả năng đóng góp của nhân dân một cách công bằng, hợp lý. Chuyển hướng quan trọng đối với các khoản đóng góp chính là không thu bằng tiền mà thu bằng hiện vật, chủ yếu là bằng thóc, 15
  16. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 nhằm tránh ảnh hưởng của lạm phát, đồng bạc của ta bị sút giảm, đảm bảo cho bộ đội ăn no đánh thắng và cung cấp đủ lương thực cho công nhân viên chức Nhà nước. Trên tinh thần đó, "Quỹ tham gia kháng chiến" ban hành năm 1949 với mức quy định là 60 đồng/suất được chuyển thành "Quỹ công lương" thu bằng 10kg thóc/suất. Đồng thời tăng cường thu các loại thuế được duy trì sau khi loại bỏ các loại thuế nô dịch, mang tính chất bóc lột; sửa lại thuế điền thổ hợp lý hơn và đánh luỹ tiến vào hoa lợi của chủ ruộng đất, phù hợp hơn với khả năng của người nộp thuế, đặc biệt là động viên hợp lý vào địa chủ, phú nông có nhiều ruộng đất phì nhiêu, thu hoạch cao. Thuế môn bài được điều chỉnh tăng gấp đôi; thuế trước bạ tăng gấp 2 lần, thuế thuốc lào, thuốc lá tăng gấp 4 lần cho phù hợp với thời giá (Bộ Tài chính - Lịch sử Tài chính Việt nam - Tập 1- 1993- trang 76). Nhằm thu hồi bớt một số lượng tiền phát hành quá mức, đẩy giá lên cao, Chính phủ ta đã dùng đến hình thức phát hànhcông trái. Theo Sắc lệnh 122 ngày 16/7/1946, Nam bộ là nơi đầu tiên được phát hành công trái (gọi là "công thải") để huy động sự đóng góp tài lực của nhân dân, với mức vay là 5 triệu đồng, chia làm 5 kỳ, lãi không quá 5%/năm. Phát huy thắng lợi của chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, theo Sắc lệnh số 166 ngày 11/4/1948, Chính phủ cho phát hành công phiếu kháng chiến nhằm hai mục đích: Huy động số tiền nhàn rỗi trong dân, phục vụ sản xuất chiến đấu và dùng công phiếu kháng chiến như một thứ tiền dự trữ, đề phòng trường hợp đứt liên lạc với trung ương, UBKCHC địa phương có thể ra lệnh lưu hành Công phiếu kháng chiến như giấy bạc, theo giá trị ghi trên Công phiếu kháng chiến. Dự kiến phát hành 500 triệu đồng, lãi suất 3%/năm, thời hạn trả lãi 5 năm. Do công tác tuyên truyền vận động chưa tốt, việc bán Công phiếu kháng chiến kéo dài đến hết năm 1949, tiền sụt giá nhanh, cũng chỉ bán được 2/3 số phiếu phát hành. Rút kinh nghiệp Công phiếu kháng chiến, ngày 19/9/1950, Chính phủ đã cho phát hành Công trái quốc gia, ghi bằng thóc để bảo đảm giá trị số tiền dân cho vay với tổng mức phát hành là 100.000 tấn thóc, lãi suất 3%/năm, thời hạn hoàn trả 5 năm. Công tác tuyên truyền làm tốt hơn nhưng kết quả cũng chỉ đạt khoảng 30% dự tính. Nguyên nhân chủ yếu là hình thức công trái còn xa lạ với số đông dân chúng, chỉ quen nộp thuế, ủng hộ, 16
  17. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 chưa mạnh dạn bỏ nhiều tiền ra mua công trái, một phương tiện cất giữ tiền và sinh lợi. Nhu cầu chi tiêu cho kháng chiến tăng nhanh hơn nhiều so với những cố gắng và kết quả động viên dươí các hình thức tự nguyện và bắt buộc nêu trên đây. Do đó trong 4 năm kháng chiến (1947-1950), số thu Ngân sách chỉ đáp ứng khoảng 25% nhu cầu chi tiêu, còn lại phải dựa vào phát hành (Bốn mươi năm trưởng thành của ngành Tài chính Việt nam 1945-1985 - trang 13). Nhìn chung, các chủ trương, chính sách và biện pháp về tài chính, tiền tệ từ sau cách mạng tháng 8 đến năm 1950 đã khơi dậy được lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự chủ và tinh thần đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Qua đó, đã từng bước góp phần khắc phục được những khó khăn cực kỳ gay gắt, bảo đảm các nhu cầu chi tiêu ngày càng nhiều trong bước đầu của cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, nguồn thu chủ yếu vẫn dựa vào sự đóng góp tự nguyện của nhân dân mà người nghèo lại hăng hái hơn người giầu có thì kết quả còn rất hạn chế. Chế độ động viên theo nghĩa vụ chưa được hình thành chặt chẽ, chính sách thuế còn sơ sài, chắp vá trên một số loại thuế dưới chế độ cũ; hệ thống thuế mới chưa được xây dựng; tư tưởng muốn xoá thuế, xem nhẹ thuế, còn phổ biến trong một số cán bộ. Số thu vào NS chỉ đáp ứng được phần nhỏ nhu cầu chi tiêu, phải dựa chủ yếu vào nguồn phát hành tiền, một lợi thế mà cách mạng đã giành được qua lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Hồ Chủ Tịch là rất cần thiết và có tác dụng to lớn nhưng cũng có những tồn tại, hậu quả không tốt do tình trạng lạm phát, giá trị đồng tiền ngày càng giảm sút. 4.Giai đoạn 1956 - 1965 - Sau khi có hệ thống chính sách thuế mới dưới Chính quyền cách mạng Ngày 04/01/2011 Bối cảnh lịch sử - Phương hướng nhiệm vụ đối với công tác thuế Sau chiến thắng Điện biên phủ, Hiệp định Geneve năm 1954 đã kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân xâm lược Pháp. Nhưng đất nước ta còn bị chia cắt: Miền Bắc được giải phóng vẫn mang hậu quả nặng nề của chiến tranh tàn phá; miền Nam còn phải sống dưới ách đô hộ tàn bạo của đế quốc Mỹ xâm lược và 17
  18. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 bè lũ tay sai. Nhân dân ta bước vào thời kỳ phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Thuận lợi cơ bản đối với chúng ta lúc này là hoà bình, nhân dân ta đoàn kết, yêu nước, tin tưởng ở Đảng, Bác Hồ và Nhà nước CM, hăng hái thực hiện những chủ trương, chính sách mới của Chính Phủ. Đồng thời có phe XHCN tận tình giúp đỡ chúng ta. Song hoàn cảnh chiến tranh đã từng gây cho ta rất nhiều khó khăn mà bao trùm là nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn đói kéo dài đe doạ đời sống của nhân dân miền Bắc. Ngoài ra việc chuyển hướng quản lý kinh tế của vùng tự do cũ, chủ yếu dựa vào nông thôn sang một nền kinh tế bao gồm cả nông thôn và thành thị, với vùng mới giải phóng còn nặng nề tàn tích của Chủ nghĩa đế quốc, thực dân, chưa có sự thống nhất về giá cả, tiền tệ và có nhiều việc còn rất mới mẻ, phức tạp. Đi đôi với chủ trương khôi phục kinh tế, Đảng và Nhà nước đã chủ trương củng cố nền tài chính quốc gia, vạch rõ những nhiệm vụ tài chính thích hợp với những điều kiện kinh tế- xã hội và yêu cầu khôi phục kinh tế trong lúc này là: -Tăng thu đúng chính sách, chế độ; triệt để khai thác các nguồn thu trong nước, động viên đúng mức khả năng đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Thuế vẫn là nguồn thu quan trọng nhất, đặc biệt là thuế CTN; hạ dần mức động viên đối với thuế nông nghiệp. Tăng cường các khoản thu từ xí nghiệp quốc doanh, sử dụng hợp lý các khoản viện trợ, tăng dần tỷ lệ thu trong nước. -Giảm chi tiêu hành chính đi đôi với chống lãng phí, tham ô. Dành phần lớn chi tiêu để khôi phục và phát triển kinh tế. -Bảo đảm thăng bằng thu chi NSNN, đi đôi với thăng bằng thu chi tiền mặt, góp phần bình ổn vật giá, thị trường, cải thiện đời sống nhân dân; chú ý đời sống bộ đội, cán bộ công nhân viên chức. -Xây dựng chính sách, chế độ tài chính, chú ý nghiên cứu, sửa đổi những điểm chưa hợp lý và bổ sung một số điểm cần thiét trong chính sách thuế, nghiên cứu xây dựng chế độ quản lý XNQD, sửa đổi chế độ lương của CB viên chức và bộ đội. 18
  19. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 Để đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu trong tình hình chưa có chính sách, chế độ tài chính thống nhất giữa vùng tự do và vùng mới giải phóng. Nhà nước đã thi hành một số biện pháp chuyển tiếp từ chiến tranh sang hoà bình như: Bãi bỏ một số thứ thuế nô dịch và bất công trong vùng tạm chiếm cũ như: o Thuế thân, thuế gái điếm, thuế sòng bạc... trái với chế độ xã hội của ta - Tạm thời vận dụng một số chính sách thuế, để từng bước khắc phục tình trạng quá chênh lệch và thực hiện nghĩa vụ đóng góp giữa 2 vùng. + ở vùng nông thôn mới giải phóng: Vận dụng thuế nông nghiệp, thực hiện ở vùng tự do và giảm 50% số thuế. Thuế nông nghiệp vẫn tiếp tục được thu bằng thóc để đảm bảo nhu cầu lương thực, góp phần vào quản lý thị trường, ổn định giá cả. + ở các thành thị mới giải phóng: Vận dụng các loại thuế CTN theo thể lệ của chế độ cũ. Đồng thời tiến hành việc thu đổi tiền Đông Dương, phát hành tiền Ngân hàng của ta vào vùng mới giải phóng. Qua đó, xoá bỏ một bước sự khác nhau về chế độ đóng góp giữa 2 vùng, thống nhất giá cả, tiền tệ, ổn định thị trường, đời sống và tăng thu cho NSNN. Đồng thời với việc áp dụng những biện pháp tạm thời trên đây, Bộ Tài chính đã tiến hành nghiên cứu "chính sách thuế thành thị" là công cụ có hiệu lực của Nhà nước, phục vụ kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế (1955-1957) với các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Bảm đảm yêu cầu tăng cường tích luỹ vốn để kiến thiết quốc gia, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN. - Tích cực thu hồi tiền mặt, góp phần củng cố giá trị tiền tệ, ổn định vật giá; - Hướng dẫn hoạt động SXKD có lợi cho quốc kế dân sinh, góp phần bảo hộ và phát triển kinh tế quốc doanh. - Góp phần thúc đẩy việc khôi phục và phát triển kinh tế, tạo tiền đề cho công cuộc cải tạo nền kinh tế theo hướng sử dụng, hạn chế và cải tạo CTN tư bản tư doanh bằng hình thức thích hợp (công tư hợp doanh, đại lý, kinh tiêu) hợp tác hoá người SX nhỏ, sắp xếp và chuyển tiểu thương sang lao động SX 19
  20. TRẦN QUANG HUY-10K4051035 - Điều tiết lợi nhuận CTN tư bản tư doanh, điều hoà thu nhập của các tầng lớp dân cư. Chính sách thuế mới được áp dụng thống nhất với mọi cơ sở SXKD thuộc mọi thành phần kinh tế trên nguyên tắc: thuế đối với quốc doanh nhẹ hơn tư nhân; động viên đối với SX nhẹ hơn buôn bán; ngành nghề, mặt hàng cần thiết nhẹ hơn ngành nghề, mặt hàng không cần thiết, xa xỉ, cao cấp; biện pháp thu đơn giản, bảo đảm tính công bằng, hợp lý... Từ cuối năm 1954, Nhà nước đã công bố hệ thống thuế mới hoàn chỉnh và lần lượt ban hành áp dụng thống nhất trên toàn miền Bắc. Hệ thống thuế mới gồm có thuế nông nghiệp thu bằng hiện vật và 12 thứ thuế thu bằng tiền là: Thuế doanh nghiệp o Thuế lợi tức doanh nghiệp o Thuế buôn chuyến o Thuế hàng hoá o Thuế sát sinh o Thuế kinh doanh nghệ thuật o Thuế thổ trạch o Thuế môn bài o Thuế trước bạ o Thuế muối o Thuế rượu o Thuế xuất khẩu - Thuế nhập khẩu. o 5.Giai đoạn 1966 - 1975 - Thời kỳ cải tạo và xây dựng CNXH ở miền Bắc Ngày 03/01/2011 Ở miền Bắc - Kết quả thu các loại Yêu cầu rất to lớn và khẩn trương của nền tài chính quốc gia trong thời kỳ cả nước có chiến tranh (1966-1975) với những nhiệm vụ đặc biệt là vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu chống xâm lược, đòi hỏi số thu tăng lên gấp bội. So với thời gian 1961-1965, số thu trong nước chỉ tăng chút ít trong thời gian chiến tranh phá 20
nguon tai.lieu . vn