Xem mẫu

  1. https://tieulun.hopto.org
  2. https://tieulun.hopto.org
  3. https://tieulun.hopto.org
  4. BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN DO THƯ VIỆN KHTH TP. HỒ CHÍ MINH THỰC HIỆN General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data Trần Nhật Vy, 1956-         Báo quấc ngữ ở Sài Gòn cuối thế kỷ 19 / Trần Nhật Vy. - Tái bản lần thứ 1. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2015.         276 tr. ; 20 cm.                          1. Báo chí -- Việt Nam -- Nam Việt Nam -- Thế kỷ 19. 2. Nam Việt Nam -- Đời sống xã hội và tập quán -- Thế kỷ 19 -- Báo. I. Ts. 1. Press -- Vietnam -- Vietnamese, Southern --19th century. 2. Vietnamese, Southern -- Social life and customs -- 19th century -- Newspapers. 079.5977 -- ddc 23 T772-V99 https://tieulun.hopto.org
  5. NHÀ XUẤT BẢN TRẺ https://tieulun.hopto.org
  6. MỤC LỤC LỜI GIỚI THIỆU 5 BỐI CẢNH 8 GIA ĐỊNH BÁO Tờ báo chữ quấc ngữ đầu tiên 17 THÔNG LOẠI KHÓA TRÌNH - Tờ báo của nhiều cái đầu tiên 93 NAM KỲ 135 PHAN YÊN BÁO 249 KẾT 260 THAM KHẢO 269 https://tieulun.hopto.org
  7. LỜI GIỚI THIỆU Đến năm 2015, báo “quấc ngữ viết theo mẫu tự Langsa” vừa đúng 150 tuổi, gần phân nửa số tuổi của Sài Gòn, của miền Nam. Số tuổi ấy so với lịch sử của đất nước chẳng đáng kể vào đâu. Thế nhưng cho tới nay, chúng ta chưa hề có một nghiên cứu nào đầy đủ về lịch sử báo quốc ngữ của đất nước lẫn lịch sử báo quốc ngữ ở Sài Gòn, nơi khai sinh ra báo quốc ngữ. Lịch sử báo quốc ngữ ở Sài Gòn không chỉ là lịch sử của báo chí, của nghề báo, nhà báo mà còn là lịch sử phát triển chữ quốc ngữ, lịch sử văn học của nước nhà. Do thiếu nghiên cứu đầy đủ, do không được ngó tận mặt những tờ báo thuở chữ quốc ngữ còn phôi thai, không được đọc những tiểu thuyết đăng báo ngày xưa, tới nay chúng ta và lớp em cháu vẫn còn mơ hồ nhiều điều về báo chí lẫn văn học quốc ngữ. Tỉ dụ, cho tới nay, trong các nghiên cứu, trong sách giáo khoa, sách lịch sử, thư tịch vẫn còn ghi tờ Nam Kỳ (thường được ghi nhận là Nam Kỳ Nhựt Trình), tờ tuần báo của ông Schreiner, ra đời năm 1883 là bản tiếng Việt của báo Pháp. Thật ra đây là tờ tuần báo được ghi rõ dưới măng-sét “nhựt trình mỗi tuần lễ in một lần nhằm ngày thứ năm”, số đầu tiên ra ngày 21-10-1897. Và bản tiếng Pháp ra đời sau bản tiếng Việt 2 năm. Trong trang  5 https://tieulun.hopto.org
  8. nhứt số 94 ra ngày 17 Août 1899 có cáo bạch:1 “Kể từ ngày mồng 1 septembre tới đây, thời mỗi ngày thứ sáu trong tuần lễ đều có phát nhựt trình Nam Kỳ chữ Langsa. Ở dưới nhựt trình ấy có in một khúc nói về “các thể lệ người Annam tại Nam Kỳ trước khi người Langsa đến trị” của ông A.Schreiner làm ra”. Báo tên là Nam Kỳ và nhựt trình là cách gọi một tờ báo của người miền Nam. Hay nhiều tài liệu trước nay cứ lặp đi lặp lại là Phan Yên Báo do ông Diệp Văn Cương làm chủ nhiệm. Không, ông Cương không liên quan gì đến tờ Phan Yên Báo, vì khi tờ báo này ra đời, ông còn là một thông ngôn tùng sự ở Vĩnh Long! Ông Cương không thể ba đầu sáu tay mà ở Vĩnh Long có thể điều hành tờ báo hằng tuần ở Sài Gòn trong điều kiện giao thông và thông tin của thế kỷ 19. Hoặc chúng ta vẫn lầm lẫn khi nói rằng “tiểu thuyết Việt Nam bắt đầu bằng quyển Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách in năm 1925”. Hẳn cũng có người nghĩ, chữ quốc ngữ thông dụng ở miền Nam, ở Nam Kỳ từ năm 1865 lẽ nào không thể sanh ra một người viết văn nào mà phải đợi tới năm 1925 mới có ông nhà văn, mới có tác phẩm? Nhưng nghĩ và thấy là một chuyện khác nhau. Và khi thấy rồi thì việc tin lại là một khoảng cách còn xa. Đã có nhà nghiên cứu xác định, tiểu thuyết đầu tiên bằng văn xuôi chữ quốc ngữ là quyển Thầy Lazaro Phiền của ông Nguyễn Trọng Quản in năm 1887. Thế nhưng trong nhiều nghiên cứu, trong sách giáo khoa đây đó vẫn chưa điều chỉnh! Và không chỉ có ông Nguyễn Trọng Quản. Trong thế kỷ 19, báo chí quốc ngữ Sài Gòn đã đăng nhiều truyện dịch, nhiều tiểu thuyết văn xuôi như truyện “Đố ngộ cố nhân, tương đàm thục ký” của ông Nguyễn Dư Hoài đăng liên tục 6 kỳ trên báo Nam Kỳ vào tháng 4-1899. Dù chưa tuyệt vời, văn chương không gọt giũa, tình tiết còn đơn giản, câu chữ còn thô sơ 1 Cáo bạch: lời rao báo. 6 BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19 https://tieulun.hopto.org
  9. nhưng đó là những tiểu thuyết mở đường không thể chối cãi được của văn học Việt Nam. Thế nhưng... Mới chỉ có 150 năm trôi qua, mà tất cả những gì người đi trước để lại, đã bị thất thoát khá nhiều. Từ thư khố cho tới các tủ sách tư nhân, chiến tranh, thay đổi thể chế chính trị đã khiến tài liệu về báo chí quốc ngữ Sài Gòn trở thành hàng hiếm. Sài Gòn đã từng cho ra đời bao nhiêu tờ báo? Những tờ báo này ra đời và chết ra sao? Khổ báo ra sao? Địa chỉ tòa soạn ở đâu?... Tới nay chưa có thống kê nào tương đối đầy đủ. Tờ báo như vậy thì nhà báo chắc gì có thể tìm biết cho đủ, cho hết! Nhiều tờ báo chỉ có tên nhưng không thể tìm thấy như trường hợp tờ Phan Yên Báo. Và không chỉ vậy, nhiều tờ ra đời trong thế kỷ 20 cũng đã trở thành vật khó kiếm. Và dĩ nhiên, với tình trạng như vậy, việc nghiên cứu đầy đủ dù chỉ là thống kê, cũng là công việc không dễ dàng. Báo quấc ngữ ở Sài Gòn cuối thế kỷ 19 là một cố gắng hết mực của chúng tôi. Đây cũng là lời đính chánh nhiều điều về báo chí và văn học quốc ngữ mà lâu nay người ta vẫn lầm tưởng. Chúng tôi không mong rằng những lời đính chánh này sẽ “thấu” đến những ai có trách nhiệm sửa chữa các sai sót về lịch sử báo chí và văn học. Mà chỉ hy vọng những gì viết ra đây sẽ được ghi nhận để bổ khuyết dần khi có một cuốn lịch sử báo chí, ít ra là riêng của Sài Gòn, đúng nghĩa. TRẦN NHẬT VY Tháng 11-2014  7 https://tieulun.hopto.org
  10. BỐI CẢNH T hế kỷ 19, bộ mặt thế giới đã thay đổi khi máy hơi nước được phát minh. Nếu phát minh ra máy móc cơ khí giúp cho năng suất lao động tăng lên nhiều lần với hàng hóa dồi dào, thì phát minh ra máy hơi nước khiến tốc độ sản xuất vượt hẳn lên và thế giới như nhỏ lại. Kết hợp những phát minh này lại với nhau, các loại máy công nghiệp, đầu máy xe lửa, máy tàu... có mặt, góp phần vào một xã hội công nghiệp. Và một nền công nghiệp mới với hàng hóa dồi dào buộc những nước phương Tây phải đi tìm thị trường mới khi thế giới đang nhỏ lại, gần lại. Thế kỷ 19, Việt Nam là một quốc gia sống khép kín bởi chánh sách “bế quan tỏa cảng” và chỉ biết thế giới bên ngoài duy nhứt là Trung Hoa dù từ hai thế kỷ trước đó đã có nhiều nhà truyền giáo phương Tây đến và đi. Nhà cầm quyền coi thường việc buôn bán với quan niệm “thương buôn” là lớp người thấp kém nhứt trong xã hội. Không chỉ vậy, nhà cầm quyền còn cự tuyệt những đề nghị, những mời mọc buôn bán, giao lưu với thế giới bên ngoài với những lo sợ âm ỉ về sự mất mát quyền lực. Kèm theo đó là việc cấm đạo quyết liệt hơn. 8 BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19 https://tieulun.hopto.org
  11. Với chánh sách như vậy, nửa đầu thế kỷ 19, Việt Nam được ngủ yên dưới thời Gia Long, Minh Mạng. Đến thời Tự Đức thì sự thể thay đổi. Quân Pháp tới, cuối cùng đã đánh chiếm Sài Gòn và ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, một dải đất từ giáp Bình Thuận đến bên này sông Tiền bằng những cuộc tiến công. Với hiệp định Nhâm Tuất 1862, vua quan nhà Nguyễn đã chấp nhận mất ba tỉnh miền Đông vào tay Pháp. Thế kỷ 19, Sài Gòn hôm nay chỉ là những làng xóm với vài thị tứ Bến Nghé, Chợ Quán và Sài Gòn (nay là Chợ Lớn) nằm dọc theo rạch Bến Nghé. Phụ trợ thêm vào đó là Phú Lâm nằm bên bờ rạch Lò Gốm, Cầu Bông - khu vực từ cầu Bông tới đường Nguyễn Đình Chiểu - nằm ven rạch Nhiêu Lộc, Xã Tài (nay là Phú Nhuận) nằm bên bờ rạch Nhiêu Lộc, Bà Chiểu nằm ven Cầu Bông... Phần còn lại của Sài Gòn là đồng không mông quạnh, là nghĩa địa, là sình lầy,... ngoài tòa thành Gia Định rộng lớn đã mấy lần đổi tên. Ngay sau khi chiếm ba tỉnh, Pháp bắt tay vào xây dựng một thành phố Sài Gòn mới trên nền thị tứ Bến Nghé. Họ đắp đường, đào kinh thông nước, giăng dây thép (điện tín), cất nhà thờ, lập nhà in... trong lúc chiến trường Chí Hòa còn tanh mùi máu và các cuộc phản kháng của người Nam Kỳ vẫn diễn ra hầu như hằng ngày. Người Pháp tìm cách “cắt đứt quan hệ tinh thần” giữa người Nam Kỳ và các vùng khác của đất nước bằng một thứ chữ khác thay thế cho chữ Nho. Và chữ quốc ngữ được chọn vì có sẵn, dễ học. Đây là thứ chữ mà các nhà truyền giáo đã phát minh ra từ thế kỷ 17 để giao tiếp, truyền đạo giữa các nhà truyền giáo  9 https://tieulun.hopto.org
  12. và người Việt. Nhưng suốt hai thế kỷ, chữ quốc ngữ chỉ phát triển và phổ biến âm thầm trong các nhà thờ và trong giáo dân. Thế rồi trường dạy chữ quốc ngữ được xây dựng dưới sự điều hành của các nhà truyền giáo và tiền bạc của người Pháp. Người ta nhận thấy, nơi đâu người Pháp sống tập trung thì nơi đó phải có “nhà thờ, quán cà phê và nhà in”. Quả vậy, từ năm 1862-1863, Sài Gòn đã có nhà thờ (nay là khu cao ốc Sunwah), quán cà phê trên đường Catinat (Đồng Khởi) và nhà in ở góc đường Nguyễn Du - Hai Bà Trưng. Rồi những tờ báo bằng tiếng Pháp, tiếng Hán ra đời. Tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên của Sài Gòn ra đời trong tình thế ấy! Ngày 15-4-1865, tờ báo in bằng “chữ quấc ngữ viết bằng mẫu tự Langsa” đầu tiên ra đời tại Sài Gòn sau ba năm chuẩn bị bộ chữ in, đó là Gia Định Báo. Tờ báo ra đời khi máu trên các chiến trường vẫn còn bốc mùi tanh và các cuộc nổi dậy của dân quân đánh đuổi quân xâm lược diễn ra hầu như mỗi ngày ở Nam Kỳ. Nhưng lòng người và giáo mác, đao kiếm không thể ngăn nổi đại bác, súng dài. Sự ra đời của tờ báo đã đưa tiếng Việt, người Việt sang một con đường khác của lịch sử. Thời điểm Gia Định Báo ra đời, là dấu chấm hết của chữ tượng hình và dân tộc Việt đã từ đó dần thoát khỏi vòng tay ôm ấp ngàn năm của chữ Nho và tự mình đứng thẳng lưng đi tới. Trong “Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh” của Alexandre de Rhodes, người đầu tiên in bộ tự điển tiếng Việt vào năm 1651, viết “những chữ mà người Đông Kinh hay An Nam sử dụng trong những trước tác của họ, thứ chữ rất khó cả hầu như vô số, đặc biệt là thứ chữ họ sử dụng để viết sách, cũng là thứ chữ y như người Trung 10 BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19 https://tieulun.hopto.org
  13. Hoa, và người ta nói có thể tới 80 ngàn chữ: các dân tộc này bỏ trọn đời mình để học những chữ đó mà chẳng một ai làm quen được để đạt tới sự hiểu biết hoàn toàn hết mọi chữ. Vậy chúng tôi sử dụng những thứ chữ của xứ sở chúng ta vừa ít vừa dễ hơn nhiều”1. Tờ Gia Định Báo đã viết bằng thứ chữ ấy, thứ chữ “chẳng có chia động từ, chẳng có thì, chẳng có thức; nhưng tất cả những thứ chữ đó hoặc được cắt nghĩa nhờ thêm vào một số phụ từ, hoặc được suy đoán nhờ những tiếng đi trước hay theo sau, khiến người thông thạo tiếng, nhận đúng ra thì, hoặc thứ và số, được giải nghĩa trong chính câu nói”. Thứ chữ ấy, chữ quốc ngữ, chữ Việt ngày nay, đã được gieo xuống mảnh đất màu mỡ là báo quốc ngữ và nhanh chóng lớn lên thành chữ của dân tộc chúng ta. Tờ báo không chỉ giúp cho người Việt có thêm một nghề - nghề báo - tới nay trở thành nghề có chỗ đứng trang trọng trong xã hội và quốc tế, giúp người Việt học và phát triển mạnh chữ quốc ngữ, đồng thời trở thành thứ chữ chánh thức của người Việt trên toàn cầu. Tờ báo còn dẫn người Việt đi xa hơn ngôi nhà văn vần, văn biền ngẫu để viết tiểu thuyết, viết tổng luận, viết phóng sự, ký sự, triết học, khoa học..., hòa nhập vào thế giới bên ngoài, nơi mà ngàn năm trước bị coi là “thấp kém”. Mặt khác, tờ báo cũng có những tác động mạnh mẽ đến nhận thức xã hội của người Việt từng chìm trong u tối, chìm trong sự mù chữ kinh niên. Tờ báo cũng làm sản sinh thêm một nghề “cơ khí” mới trong xã hội: đó là nghề sắp chữ in, nghề in bằng 1 Alexandre de Rhodes, Tự điển Annam-Lusitan-Latinh, Báo cáo vắn tắt, NXB KHXH, 1991, tr.5.  11 https://tieulun.hopto.org
  14. máy đồng thời phát triển thêm nghề khác như phát hành sách báo, quảng cáo... Về mặt xã hội, đời sống, tờ báo giúp cho người Việt tiếp cận nhiều hơn với thông tin, biết nhiều hơn về thế giới chung quanh mình một cách nhanh chóng, điều mà trước đó có lẽ phải mất nhiều thời gian tính bằng tháng, năm và có thêm những hiểu biết nhứt định về khoa học để giải thích những hiện tượng thiên nhiên, bịnh tật... diễn ra chung quanh hằng ngày và nhờ đó mà có cách nhìn mới, cách nghĩ mới về cuộc sống. Nhờ dễ học, dễ viết, dễ nhớ, tiếng Việt trên báo ban đầu đã giúp những người Việt học quốc ngữ dễ dàng hơn và số người “có học”, “biết chữ” ngày càng nhiều hơn so với trước đó. Nếu trước đó, cả làng chỉ một vài hoặc một ít người biết chữ Nho thì từ sau khi tờ báo ra đời số người biết chữ, biết đọc chữ Việt tăng lên, số người mù chữ giảm đi, đồng thời việc học chữ cũng trở nên nhẹ nhàng hơn, dù còn nhiều e sợ, lo lắng! Tờ báo cũng chuyên chở nhiều hơn các câu chuyện xảy ra đây đó, nhưng rất xa chỗ ở của người đọc, các truyện dịch... để người Việt thấy rằng ngoài Trung Hoa còn có “thế giới khác”, có hiểu biết khác, có nền văn hóa khác và đang phát triển rất mạnh mẽ. Tờ báo còn là bàn đạp, là vùng đất tốt để văn học chữ quốc ngữ, chữ Việt phát triển. Có thể nói được rằng, nếu không có chữ quốc ngữ, không có tờ báo đầu tiên này, thì nền văn học chữ Việt của chúng ta hiện nay đã đi theo một hướng khác. Gần 20 năm đầu, dưới thời cai trị của quân đội Pháp, báo quốc ngữ chỉ có tờ Gia Định Báo. Đến năm 1888, thì Trương Vĩnh Ký đã cho xuất bản tờ nguyệt san Thông Loại Khóa Trình, tờ báo tư nhân đầu tiên ở Sài Gòn. Và gần 10 năm sau, năm 12 BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19 https://tieulun.hopto.org
  15. 1897 tuần báo Nam Kỳ (thường được gọi là Nhựt Trình Nam Kỳ hoặc Nam Kỳ Nhựt Trình) của Schreiner xuất hiện, rồi khoảng cuối năm 1898 hoặc đầu 1899 là tờ Phan Yên Báo. Thời gian đầu, do chưa có luật lệ nên báo quốc ngữ xuất bản “thoải mái” nhưng thị trường hẹp, người biết quốc ngữ không nhiều nên không ai ra báo. Tới năm 1881, Luật tự do báo chí mới được Tổng thống Pháp ban hành, và điều khoản quan trọng của Luật 1881 là tờ báo chỉ cần “thông báo trước 24 giờ cho biện lý cuộc tên tờ báo, địa chỉ tòa soạn và tên người chủ nhiệm” là được phát hành, không hạn chế là ở Pháp hay thuộc địa. Song tới cuối năm 1898, có lẽ do áp lực từ Toàn quyền Đông Dương, Tổng thống Pháp đã ban hành sắc lệnh ngày 30-12-1898 “sửa luật” và buộc “những tờ báo không phải tiếng Pháp ở thuộc địa phải xin phép Toàn quyền” để hạn chế tự do báo chí theo luật 1881. Việc làm này nhằm bóp nghẹt tự do báo chí ở Đông Dương, đồng thời hạn chế quyền làm báo, viết báo và đọc báo quốc ngữ của người Việt. Điều đó đã khiến Nguyễn Ái Quốc đã viết trong bài Đông Dương và Triều Tiên, một sự so sánh thú vị trên báo le Populaire ngày 4-9-1919: “Về mặt báo chí xuất bản bằng tiếng phương Đông, chính phủ giành lấy cái quyền bỉ ổi chỉ cho phép xuất bản những loại nào ca ngợi mình và sau khi đã có kiểm duyệt rồi. Chính phủ lợi dụng cái đặc quyền độc đoán ấy để lập ra những tờ báo tiếng Việt theo ý mình, được hưởng trợ cấp bí mật của nhà nước và chuyên việc làm quảng cáo tuyên truyền cho chính phủ và thường kỳ viết những bài phỉnh nịnh các quan trên có thế lực ở thuộc địa”1. 1 Hồng Chương, Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, NXB Sách Giáo khoa Mác-Lê Nin, Hà Nội, 1987.  13 https://tieulun.hopto.org
  16. Trước khi có Luật 1898 thì người Việt không mấy ai quan tâm đến “làm báo quốc ngữ” vì ít người đọc và có lẽ nghề báo cũng “chưa sống được”. Sang thế kỷ 20 nghề báo mới thực sự được quan tâm và phát triển mạnh thì... Song phải nói rằng, dù có hay không luật, thì báo chí quốc ngữ ở Nam Kỳ và Việt Nam sau này, cũng bị chánh quyền thực dân hạn chế tự do thông tin, nhứt là thông tin về chánh trị, kinh tế và những sai lầm, tham nhũng, hiếp đáp dân chúng... của quan lại, viên chức chánh quyền. Có lẽ vì “nói những điều cấm” mà tờ Phan Yên Báo bị đóng cửa và trở thành tờ báo bị đình bản đầu tiên trong lịch sử báo chí Sài Gòn. Trong mục Tiểu Tự số 94 ngày 17-8-1899, chủ báo Nam Kỳ đã tâm sự với ông MVH ở Mỹ Tho: “Đều (điều - BTV) ông xin đó xem ra phải lẻ (lẽ) lắm, song rũi (rủi) ta không nói đặng nhà nước trong nhựt trình quấc ngữ này, dầu phải là viên quan bổn quấc (bản quốc) cũng vậy. Sự đó nhà nước có cấm rồi. Song xin ông phải đợi khởi làm nhựt trình Nam Kỳ chữ Langsa, lúc ấy ta mới lo đặng các đều như vậy và bia danh cho thiên hạ biết những kẻ nào lấy quyền thế mình mà ép uỗng (uổng) người nghèo khổ. Ta xin ông phải nhớ đều nầy, là ta lo lắng những việc nào có cớ rõ ràng mà thôi, bởi vì một mình ta làm đều ấy, thì ta muốn gánh vác một mình không đỗ (đổ) thừa cho ai ráo. Có phải là ông Tổng, ông Huyện hay là ông Phủ thì ta cũng cáo không dung, song trước khi ta làm đều như vậy, ta phải xem xét đã, bỡi (bởi) chưng ta không muốn đến sau ông hay là mấy người hoạn nạn phải vương đều thiệt hại bởi sự báo cừu của kẻ độc dữ mà ra”. Tâm sự này nói rõ, báo quốc ngữ bị “cấm nói đến chuyện xấu của chánh quyền, của quan viên” hay nói cách khác là bị bịt miệng. Và cũng vì 14 BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19 https://tieulun.hopto.org
  17. muốn được tự do thông tin mà những người Việt yêu nước đầu thế kỷ 20 đã ra báo bằng tiếng Pháp để được hưởng tự do theo luật 1881 như trường hợp tờ La Cloché Fêlée của Nguyễn An Ninh, tờ La Lutte và những tờ khác. Song trong thiên khảo cứu nhỏ này, chúng tôi chỉ nói tới báo quốc ngữ và không đề cập tới báo bằng tiếng Pháp xuất bản ở Sài Gòn. 150 năm là thời gian dài đối với một đời người và con người chưa có ai sống hết quãng thời gian ấy để thấy hết những gì đã diễn ra. Suốt thời gian ấy, biết bao nhiêu chuyện, biết bao thăng trầm thay đổi diễn ra ở Sài Gòn mà “báo chí” phải chịu đựng, phải nói, phải rượt theo! Biết bao tờ báo ra đời rồi chết đi. Biết bao thay đổi về kỹ thuật. Để có cái nhìn “thấu” một thế kỷ rưỡi ấy cần có con mắt lịch sử thẳng thắn, trung thực tới mức có thể.  15 https://tieulun.hopto.org
  18. https://tieulun.hopto.org
  19. GIA ĐỊNH BÁO - TỜ BÁO CHỮ QUẤC NGỮ ĐẦU TIÊN https://tieulun.hopto.org
  20. G ia Định Báo ra đời tại Sài Gòn ngày 15-4-1865 do Ernest Potteaux, một thông ngôn người Pháp, làm việc trong bộ phận thông ngôn của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ, làm Chánh Tổng tài. Ernest Potteaux được coi là người Pháp biết tiếng Việt nhiều nhứt thời ấy, phụ trách bộ phận thông ngôn ở Soái phủ Nam Kỳ. Ông cũng là người viết “niên giám” hàng năm tên là “Lịch Annam sáu tỉnh Nam Kỳ” bằng tiếng Việt và Pháp từ năm 1869 đến cuối thế kỷ 19. Chưa rõ tiểu sử ông này ra sao nhưng chắc chắn ông không thể là người “rành chữ Việt” bằng người Việt cùng thời kỳ. Và để làm được tờ báo hẳn ông phải cần đến một đội ngũ người Việt đông đảo giúp sức. Người ta đã đề cập tới các ông Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Tôn Thọ Tường là những người cộng tác với Gia Định Báo ngay từ những số đầu tiên. Song có thể có nhiều hơn ba người này. Và ngay những số báo năm 1865 còn lưu trữ được thì thấy có nhiều cái tên như Paulus Toi, Phủ Ka... Tòa soạn của báo nằm trong bộ phận thông ngôn của Nha Nội vụ Nam Kỳ (còn được gọi là Nha Nội chính, dinh Thượng thơ, Lại bộ Thượng thơ đường). Theo thư của Paulin Vial, giám đốc Nha Nội vụ Nam Kỳ, gởi ông Maucher (có lẽ là giám đốc Nha Tạo tác tức xây dựng) ngày 22-12-1864: “Xin hân hạnh gởi đến ông danh sách các công trình mà ngài Đô đốc muốn cho đấu thầu trong năm 1865 như sau: 1 tòa nhà cho Nhà Nội 18 BÁO QUẤC NGỮ Ở SÀI GÒN CUỐI THẾ KỶ 19 https://tieulun.hopto.org
nguon tai.lieu . vn