Xem mẫu

  1. 130 “LẼ THƯỜNG” TRONG TỤC NGỮ VỀ ÂN NGHĨA - BỘI BẠC SV. Nguyễn Thị Tuyết Nữ SV. Trịnh Khánh Linh SV. Dương Quế Trân ThS. Nguyễn Thị Bộ Tóm tắt. Tục ngữ Việt Nam là kho tàng lí lẽ chung của lập luận. Ở bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ lẽ thường là những câu tục ngữ về ân nghĩa - bội bạc. Trong tục ngữ về ân nghĩa - bội bạc, lẽ thường được dùng phổ biến theo hai cách khác nhau: hoặc là xuất hiện công khai, hoặc là được ẩn đi trong lập luận. Mỗi cách dùng như vậy có thể mang đến cho lập luận những giá trị khác nhau. 1. Đặt vấn đề Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét, phán đoán, lời khuyên răn của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, giản dị, súc tích. Chúng là lí lẽ, triết lí của một cộng đồng xã hội, một dân tộc. Chính vì vậy, tục ngữ được xem là kho tàng lí lẽ chung, lí lẽ về mọi phương diện của cuộc đời của mỗi con người sống trong trời đất. Bài viết này chỉ tập trung tìm hiểu về lẽ thường trong tục ngữ ân nghĩa, bội bạc - mảng tục ngữ rất quen thuộc, gần gũi và thường được người Việt Nam lấy làm cơ sở để tạo nên các lập luận về đối nhân, xử thế, về đạo lí làm người. 2. Nội dung 2.1. Khái quát về tục ngữ ân nghĩa – bội bạc và lẽ thường trong lập luận 2.1.1. Vài nét về tục ngữ ân nghĩa – bội bạc Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, tục ngữ về ân nghĩa - bội bạc giữ vị trí khá quan trọng trong việc phản ánh quan niệm về nhân tình thế thái của người Việt. Theo cuốn Tục ngữ Việt Nam (Chu Xuân Diên chủ biên), mảng đề tài này có khoảng 58 câu tục ngữ, trong đó có khá nhiều câu tục ngữ đồng nghĩa. Dựa vào nội dung, có thể phân 58 câu tục ngữ đó thành các nhóm nhỏ như: tục ngữ về đạo lí nhớ ơn (“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Vay nên nợ, đợ nên ơn”, “Ăn bát cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi”, “Sống tết, chết giỗ”,…); tục ngữ xem trọng nghĩa tình (“Một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên quen”, “Một chữ nên thầy, một ngày nên nghĩa”, “Vị tình vị nghiã, ai vị đĩa xôi gà”, “Tiền là gạch, ngãi là vàng”, “Đường mòn ân nghĩa không mòn”,…); tục ngữ nói về sự bội bạc (“Ăn cháo đái bát”, “Có trăng, quên đèn”, “Có mới, nới cũ”, “Qua cầu rút ván”, “Chưa được thì hứng bằng rá, đã được thì đá bằng chân”,…). Tuy số lượng khiêm tốn nhưng những câu tục ngữ trong mảng đề tài này được sử dụng rất phổ biến trong văn chương cũng như trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Việt. 2.1.2. Sơ lược về lẽ thường trong lập luận Lẽ thường là “những chân lí thông thường có tính chất kinh nghiệm, không có tính tất yếu, bắt buộc như các tiền đề logic, mang đặc thù địa phương hay dân tộc, có tính khái quát, nhờ chúng mà chúng ta xây dựng được lập luận riêng” [2, 158]. Một lẽ thường nào đó có thể được dân tộc này, địa phương này chấp nhận nhưng lại không được chấp nhận ở dân tộc, địa phương khác, thậm chí trong một dân tộc, nó có thể được chấp nhận ở thời gian này nhưng lại không được chấp nhận ở thời gian khác. Nói cách khác, lẽ thường có tính chất dân tộc, tính địa phương và tính lịch sử. Sau đây là một vài ví dụ về lẽ thường trong lập luận.
  2. 131 Ví dụ 1: Ta có lập luân “Cá này sao rẻ quá vậy? Thôi, đừng mua”. Điều gì đã gắn kết hai phát ngôn “Cá này sao rẻ quá vậy?” (luận cứ) và “Đừng mua” (kết luận) lại với nhau để tạo thành một lập luận có sức thuyết phục? Đó chính là lẽ thường đã được nhiều người thừa nhận: “Của rẻ là của ôi”. Ví dụ 2: Lập luận “Trời nắng lắm, ở nhà đi.” dựa vào lẽ thường: “Ra ngoài trời nắng to sẽ có hại cho sức khỏe”. Ví dụ 3: Lập luận “Hôm nay có liên hoan mà sao đi trễ vậy?” có lẽ thường là câu tục ngữ “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”. Câu tục ngữ này có thể chỉ là lẽ thường của người Việt bởi vì nó chỉ đúng với văn hóa người Việt. Cư dân Việt sống chủ yếu bằng nghề lúa nước, cư trú thành làng xã, lấy quan hệ huyết thống trong dòng họ làm phương châm ứng xử. Vì vậy, họ có tâm lý tư hữu, chỉ biết có mình nên chọn sự khôn ngoan: miếng ăn thì giành trước phần mình vì sợ người khác giành hết, gặp nguy hiểm thì đùn đẩy cho người khác chịu trước, mình ở phía sau rút kinh nghiệm. Tục ngữ Việt Nam, với những đặc trưng riêng của nó, xứng đáng là kho tàng lẽ thường trong lập luận của người Việt. 2.2. Cách thức sử dụng tục ngữ ân nghĩa - bội bạc làm lẽ thường trong lập luận Ở bài viết này, chúng tôi chủ yếu tìm hiểu một số lập luận sử dụng tục ngữ ân nghĩa - bội bạc làm lẽ thường trong các tác phẩm văn học và trong đời sống hàng ngày. Qua khảo sát, chúng tôi thấy có hai cách dùng thường gặp. Đó là: câu tục ngữ không xuất hiện công khai hoặc có xuất hiện công khai trong lập luận. 2.2.1. Câu tục ngữ về ân nghĩa - bội bạc không xuất hiên công khai trong lập luận Lẽ thường, như trên đã nói, là những chân lí thông thường mang đặc thù địa phương hay dân tộc, có tính khái quát, được nhiều người thừa nhận chứ không phải là kinh nghiệm cá nhân. Lẽ thường khi đó trở thành tri thức nền mà những người tham gia giao tiếp cùng có chung. Vì vậy, khi xây dựng lập luận, thông thường, lẽ thường có mặt nhưng được ngầm hiểu, hàm ẩn trong lập luận, còn luận cứ và kết luận xuất hiện công khai. Ví dụ 1: “Hôm nay là ngày giỗ cụ tổ năm đời của thần, nhưng thần không có mặt ở nhà để cúng giỗ. Thật là bất hiếu với tổ tiên.” (Trí dũng song toàn – Đinh Xuân Lâm) Trong lập luận này, luận cứ “ngày giỗ cụ tổ năm đời mà thần không có mặt ở nhà để cúng giỗ” và kết luận “Thật là bất hiếu với tổ tiên” được kết nối với nhau nhờ lẽ thường: “Sống tết, chết giỗ”. Lẽ thường này bị ẩn đi nhưng người Việt Nam đều hiểu đạo lí này. Vì vậy, lập luận trên là hợp lí, được chấp thuận trong cộng đồng người Việt nhưng với người phương Tây lập luận đó lại là bất thường. Ví dụ 2: “Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc…” (Tinh thần yêu nước của nhân dân ta – Hồ Chí Minh) Truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam là tinh thần: “Uống nước nhớ nguồn” thể hiện lòng biết ơn của thế hệ sau thừa hưởng thành quả tốt đẹp của người đi trước để lại. Để có được kết luận “chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc” ta cần có luận cứ “chúng ta tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…” và tất nhiên ai cũng hiểu lẽ thường ở đây dựa vào câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”.
  3. 132 Ví dụ 3: “Trước mặt chị hiện ra một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đá đổ òa vào giấc ngủ. - Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ? Chị đưa những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai chồng: - Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được. Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá. - Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm…mà em vẫn nín thinh. - Có hề sao đâu… Miễn là anh còn sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này…” (Bến quê – Nguyễn Minh Châu) Sở dĩ Liên tránh trả lời câu hỏi của Nhĩ là vì với một người đếm sự sống từng ngày như Nhĩ thì việc bây giờ là cô phải đấu tranh giành lại sự sống của chồng mình với tử thần, câu trả lời hoàn toàn không ăn nhập gì với câu hỏi nhưng người đọc có thể thấy ẩn đằng sau đó là cả một quan niệm sống: “Bền người hơn bền của” của Liên. Bởi tiền của có thể kiếm nhưng đời người chỉ được sống có một lần duy nhất, dù thế nào cô cũng cứu lấy sự sống cho anh. Qua đó ta thấy, luận cứ “Miễn là anh còn sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này” và kết luận “Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được” được liên kết với nhau là dựa vào lẽ thường: “Bền người hơn bền của”. Ví dụ 4: “Khi trở về nhà, vợ tôi cứ phàn nàn: - Sao mình lại xưng con với cậu ấy? Cậu ấy là em mình chứ! Tôi cười rất vui, đáp: - Anh phải tôn trọng cái điều có trước. Trước khi làm chồng em, anh đã là học trò của ông Phách từ lâu rồi. Người thầy giáo ấy đã có công lớn đào tạo được ra anh hôm nay đấy em ạ!” (Nhớ thầy Song An Hoàng Ngọc Phách - Lời kể của Hoàng Cầm) Qua lời phân trần của người chồng thì ta thấy: Vì ông Phách là người thầy đã đào tạo ra anh ấy như ngày hôm nay nên việc anh ấy xưng thầy với ông Phách là điều phải. Cách lập luận đó dựa trên quan niệm: “Một chữ nên thầy, một ngày nên nghĩa” để hành xử đúng mực. Đây cũng chính là lẽ thường mà Hoàng Cầm muốn vợ ngầm hiểu khi kết luận rằng: “Anh phải tôn trọng cái đều có trước” mà cái đều có trước đó chính là “anh đã là học trò của ông Phách”. Vốn dĩ những lẽ thường được đúc kết trong một cộng đồng, dân tộc nên việc không nêu ra là điều rất đỗi bình thường. Nó buộc người nghe ít nhiều phải động não để giải mã lập luận, khiến cho sự tiếp nhận trở nên hứng thú hơn. Trong cách nói như vậy, người nói vừa có thể khôn khéo lựa lời phù hợp mà còn giữ được sự tế nhị, kín đáo trong giao tiếp. Tuy nhiên, cách sử dụng này có khi cũng gây khó hiểu nếu người phát và người nhận có sự lệch pha về tri thức nền.
  4. 133 2.2.2. Câu tục ngữ về ân nghĩa - bội bạc xuất hiện công khai trong lập luận Cách sử dụng lẽ thường không công khai như trên là rất phổ biến và hợp lí. Nhưng thực tế linh hoạt hơn nhiều khiến cho lẽ thường, vốn hàm ẩn, có thể xuất hiện công khai trong lập luận. Lúc này, lẽ thường xuất hiện tường minh bên cạnh luận cứ và kết luận, nhằm nhấn mạnh cơ sở tạo nên lập luận, từ đó khẳng định tính hợp lí, sức thuyết phục của lập luận. Khi xuất hiện công khai, câu tục ngữ về ân nghĩa - bội bạc được dùng làm lẽ thường trong lập luận có thề được dùng nguyên dạng hoặc không nguyên dạng. 2.2.2.1. Câu tục ngữ về ân nghĩa - bội bạc được sử dụng nguyên dạng Ở đây, sử dụng nguyên dạng được hiểu là dùng nguyên văn câu tục ngữ làm lẽ thường trong lập luận Ví dụ 1: “Việt Nam có câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”. Càng nhớ lại những ngày tủi nhục mất nước, nhớ lại mỗi bước đường đấu tranh cách mạng đầy hi sinh, gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang thì giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của Lênin và Cách mạng tháng Mười.” (Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc - Hồ Chí Minh) Trong lập luận trên, luận cứ là “Càng nhớ lại những ngày tủi nhục mất nước, nhớ lại mỗi bước đường đấu tranh cách mạng đầy hi sinh, gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang”; kết luận là “giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của Lênin và Cách mạng tháng Mười”; lẽ thường là câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”. Lẽ thường này không chỉ hàm ẩn trong lập luận mà nó còn được nêu rõ ràng trước luận cứ làm cho lập luận càng vững chắc hơn. Ví dụ 2: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Có những chiến sĩ hi sinh cho đất nước nên ngày nay chúng ta mới được sống trong yên bình.” (Trong đời sống hàng ngày) Ở lập luận này, lẽ thường là hai câu tục ngữ đồng nghĩa: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, được nêu tường minh làm nền tảng cho lập luận, làm cho kết luận “ngày nay chúng ta mới được sống trong yên bình” càng tất yếu hơn. Cách sử dụng này cũng xuất hiện trong lập luận sau: Ví dụ 3: ““Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng”. Thử nghĩ bao nhiêu đất đai mà các thế hệ qua đã thừa hưởng của tiền nhân, công khai thác khi còn là chốn hoang vu, đầy rắn độc, thú dữ, thật là công đáng ghi muôn thuở.” (Vĩnh Long xưa - Huỳnh Minh) Ví dụ 4: “Hắn thay đổi chóng mặt. Lúc yêu nhau thì ngọt ngào nhẹ nhàng nhưng khi cưới về hắn thường “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với cô ấy, đúng là “Chưa được thì hứng bằng rá, đã được thì đá bằng chân.” (Trong đời sống hàng ngày) Lập luận trên khẳng định một thực tế cay đắng: “Hắn thay đổi chóng mặt”, và sự thay đổi đó, đau xót thay, lại chẳng bất thường. Lẽ thường của lập luận “Chưa được thì hứng bằng rá, đã được thì đá bằng chân” được nêu tường minh càng xoáy sâu vào đắng cay, chua xót.
  5. 134 2.2.2.1. Câu tục ngữ về ân nghĩa - bội bạc không được sử dụng nguyên dạng Đây là cách sử dụng tục ngữ chỉ có một vế hoặc thêm bớt từ ngữ trong câu để phù hợp với nội dung của phát ngôn. Trong quá trình vận dụng, người viết (người nói) chỉ sử dụng vế này hoặc vế kia nhưng vẫn đảm bảo được nội dung ý nghĩa của cả câu tục ngữ. Ví dụ 1: “Cứu nó làm gì để bây giờ nó trả oán, biết vậy lúc trước đừng cứu. Đúng là làm ơn nên oán mà.” (Trong đời sống hàng ngày) Ở ví dụ trên, ta thấy người nói đưa ra luận cứ “Cứu nó làm gì để bây giờ nó trả oán” để dẫn dắt đến kết luận “biết vậy lúc trước đừng cứu”, sau đó lại có lời giải thích cho lập luận của mình, lời giải thích đó chính là câu tục ngữ được dùng làm lẽ thường. Tuy nhiên, câu tục ngữ này chỉ được sử dụng một phần: “làm ơn nên oán”. Nguyên dạng câu tục ngữ là: “Làm ơn nên oán, làm bạn thiệt mình” nhưng vì để câu nói ngắn gọn, súc tích và để phù hợp với ngữ cảnh nên người phát chỉ sử dụng một phần thích hợp của câu tục ngữ. Ví dụ 2: “Đi học xa nhà, có thiếu thốn thì cũng đừng vay mượn. Vay nên nợ nghe con”. (Trong đời sống hàng ngày) Trong lập luận này, luận cứ nghịch hướng với kết luận nên việc nêu công khai lẽ thường làm cho lập luận tường minh hơn. Lẽ thường ở đây là câu tục ngữ có hai vế nêu lên hai sự việc tương tự nhau về nghĩa bóng nhưng khác nhau về nghĩa đen “Vay nên nợ, đợ nên ơn”. Để phù hợp với phát ngôn của mình người nói chọn nêu tường minh vế đầu của câu tục ngữ “Vay nên nợ”. Việc lẽ thường xuất hiện rõ ràng trong lập luận có tác dụng giúp người nói (viết) nhấn mạnh ý của mình nhằm hướng người nghe (đọc) đến chính xác điều mình muốn. Lẽ thường xuất hiện như vậy thường được dùng trong khi khuyên nhủ hay răn dạy điều gì đó. 3. Kết luận Từ trong kho tàng tục ngữ của dân tộc, tục ngữ về ân nghĩa - bội bạc đã gia nhập vào cấu trúc của lập luận với các với vai trò khác nhau như: luận cứ, kết luận, lẽ thường. Nhưng phổ biến và đặc sắc nhất vẫn là khi chúng làm lẽ thường của lập luận. Để chứng minh cho lập luận của mình là đúng, người nói (viết) đã rất thông minh khi vận dụng những kinh nghiệm đã được cộng đồng đúc kết để làm lẽ thường, vừa xác đáng vừa tinh tế lại vừa nhân đạo nghĩa tình. Chính vì lẽ đó, khi nghiên cứu tục ngữ về ân nghĩa – bội bạc với vai trò này cho ta thấy được người Việt rất quan trọng việc đối nhân xử thế - một truyền thống đạo đức lâu đời của nhân dân ta. Bên cạnh đó, tục ngữ được khám phá trên phương diện ngữ dụng học là cách nhìn mới mẻ và đáng được quan tâm.
  6. 135 Tài liệu tham khảo [1]. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang (1975), “Tục ngữ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, H. [2]. Đỗ Thị Kim Liên (2005), “Giáo trình ngữ dụng học”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [3]. Đỗ Việt Hùng, “Lẽ thường trong lập luận và văn hóa ứng xử của cộng đồng”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, 2014. [4]. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, NXB Giáo dục, H. [5]. Đinh Xuân Lâm, “Trí dũng song toàn”, SGK lớp 5 tập 2, NXB Giáo dục, 2009 [6]. Hồ Chí Minh, “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, Báo cáo chính trị của Bác Hồ tại Đại hội 2, tháng 2-1951 của Đảng Lao động Việt Nam. [7]. Nguyễn Minh Châu, “Bến quê”, Nguyễn Minh Châu – tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009. [8]. Hoàng Cầm, “Nhớ thầy Song An Hoàng Ngọc Phách”, Tạp chí Thế giới mới, Ngữ Văn 7, 2012. [9]. Hồ Chí Minh, “Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, gởi cho báo Pravđa (Liên Xô), 28-10-1967. [10]. Huỳnh Minh, “Vĩnh Long xưa”, 1967. [11]. Những lập luận trong đời sống hàng ngày.
nguon tai.lieu . vn