Xem mẫu

  1. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU LỄ HỘI ĐÌNH QUAN LẠN: Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ VÀ SỰ KHÁC BIỆT PHAN THỊ HUỆ Tóm tắt Nằm trong dòng chảy của lễ hội truyền thống ven biển Bắc Bộ nhưng lễ hội đình Quan Lạn thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh vẫn có những điểm khác biệt so với các lễ hội truyền thống nói chung. Là một lễ hội lịch sử, cũng đồng thời là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian, lễ hội đình Quan Lạn mang sắc thái địa phương độc đáo và đậm nét văn hóa biển đảo của cư dân vùng biển Vân Đồn. Bài viết khái quát về lễ hội và diễn trình của hội đua thuyền, đi sâu phân tích ý nghĩa một số nghi lễ, hoạt động diễn ra trong lễ hội để làm rõ giá trị và sự khác biệt của lễ hội đình Quan Lạn. Từ khóa: Lễ hội truyền thống, đình Quan Lạn, hội bơi chèo Quan Lạn, hội đua thuyền, ý nghĩa, giá trị, sự khác biệt Abstract In spite of being in the flow of traditional coastal festivals in the North, festival of Quan Lan communal house, Van Don district, Quang Ninh province still has differences from traditional festivals in general. The festival is both a historical festival and an activity of folk cultural belief. The festival of Quan Lan communal house contains unique native nuance and maritime culture of the people living in Van Don coasts. The article outlines the festival, the process of the boat racing festival, delves into the meaning of some rituals, activities taking place in the festival to clarify the value and difference of the festival in Quan Lan communal house. Keywords: Traditional festival, Quan Lan communal house, Quan Lan boat racing festival, meaning, value, difference 1. Khái quát về lễ hội đình Quan Lạn Lễ hội đình Quan Lạn, còn gọi là lễ hội Đ ảo Quan Lạn thuộc huyện Vân truyền thống Vân Đồn hay hội bơi chèo Quan Đồn, tỉnh Quảng Ninh được biết Lạn, diễn ra từ ngày 10 đến ngày 20 tháng đến không chỉ là địa danh nổi Sáu âm lịch hàng năm: “Dù ai đi ngược về xuôi/ tiếng với những bãi biển đẹp (như Minh Châu, Tháng Sáu âm lịch chèo bơi thì về”. Lễ hội là dịp Sơn Hào, Quan Lạn), hệ sinh thái rừng trâm tưởng nhớ trận chiến Vân Đồn trên dòng sông thuần chủng, hệ sinh thái rừng ngập mặn, các Mang lịch sử vào năm 1288 và cầu mong các di tích lịch sử quan trọng gắn liền với quá trình vị thần phù hộ cho dân chúng tránh được bão dựng nước, giữ nước của dân tộc (như thương giông, đi biển đánh bắt được nhiều tôm cá. cảng Vân Đồn, cụm di tích lịch sử và kiến trúc Nhân vật chính của lễ hội là các nhân vật nghệ thuật Quan Lạn). Đây còn là một vùng lịch sử có thật: Trần Khánh Dư, một vị tướng văn hóa đặc sắc - văn hóa vùng biển đảo, được tài ba có công lớn thời Trần, được vua Trần thể hiện rõ nét qua lễ hội truyền thống đình phong tước Nhân Huệ Vương, chức Phiêu Kỵ Quan Lạn. đại tướng quân. Ông là một vị tướng văn võ 14 Số 30 (Tháng 12 - 2019)
  2. DI SẢN VĂN HÓA song toàn, gắn bó với mảnh đất Vân Đồn; ba Nguyên Mông góp phần làm nên chiến thắng anh em họ Phạm người Quan Lạn: Phạm Công của quân và dân nhà Trần trong cuộc kháng Chính, Phạm Quý Công và Phạm Thuần Dụng chiến chống giặc Nguyên Mông lần thứ III vào là các phó tướng của Trần Khánh Dư cùng năm 1288. Sở dĩ dân làng chọn ngày 18 tháng tham gia chỉ huy và hy sinh trong trận chiến Sáu là ngày đua thuyền, vì đó là ngày dân làng Vân Đồn năm 1288. Ngoài ra, tại đình Quan đón sắc của vua Trần ban thưởng công trạng Lạn, nhân dân còn thờ các vị thần, nhân vật cho quân dân Vân Đồn và những tướng sĩ đã lịch sử: Vua Lý Anh Tông, người có công thành anh dũng hy sinh trong trận chiến Vân Đồn, có lập thương cảng Vân Đồn năm 1149; Không công tiêu diệt giặc Nguyên Mông. Lộ, Giác Hải, hai vị thiền sư thời Lý, là ông tổ Hội đua thuyền bắt đầu từ lúc 14 giờ, ngày của nghề đúc đồng nhưng ở đây lại được xem 18 tháng Sáu, vị trí tổ chức cuộc đua ở bến như ông tổ của nghề chài lưới, đánh bắt hải Đình trước khu di tích đình, chùa, miếu Quan sản; công chúa Liễu Hạnh, người có công bảo Lạn. Từ ngày 13 tháng Sáu, dân làng chia làm vệ đất nước; các vị Tiên công đã có công khai hai phe Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ, lựa phá vùng đất này. chọn tướng Văn, tướng Võ và các tay chèo, lập Các nghi lễ của lễ hội được thực hiện tại doanh trại để luyện quân, chuẩn bị thuyền cụm di tích kiến trúc nghệ thuật Quan Lạn gồm đua, hai giáp làm lễ tế tại miếu Đức Ông để đình, chùa, miếu Đức ông và nghè Trần Khánh nhận lệnh lên đường (Ảnh 1). Khoảng 14 giờ Dư, nhưng không gian lễ hội bao trùm cả khu 30 phút, lệnh của trung tâm được phát ra, hai vực xã đảo Quan Lạn và các vùng lân cận. cánh quân từ giáp Văn và giáp Võ “hành quân” Lễ hội gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ có từ doanh trại ra sân miếu, vừa đi vừa múa long các nghi lễ chính như: Lễ mộc dục, lễ treo cờ đao, vừa đánh trống, cồng, phèng, la liên tục hội, lễ Cai đám, lễ Nghinh thần, lễ khao quân, để biểu dương lực lượng. Khi hai bên gặp nhau lễ tế Yên vị, lễ tế tại chùa, lễ tế tại miếu Đức tại điểm giữa trung tâm, tướng và quân reo hò Ông, lễ cầu bình yên, lễ xe giá hoàn cung1. như sấm dậy, binh khí chạm vào nhau tưởng Phần hội có nhiều trò chơi dân gian như: đánh vật, kéo co, cờ người, đấu long đao,… cùng nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao. Tâm điểm của lễ hội đình Quan Lạn là Hội đua thuyền. Trò diễn này nhằm tái hiện trận chiến Vân Đồn trên dòng sông Mang lịch sử do Trần Khánh Dư chỉ huy đánh tan hơn 500 chiếc thuyền Ảnh 1. Hai cánh quân giáp Văn và giáp Võ xếp hai hàng lương của quân giặc trước Miếu Đức Ông đợi lệnh xuống thuyền (Nguồn: Huy Hoàng Photo) Số 30 (Tháng 12 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 15
  3. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU như cuộc giao tranh trên chiến trường, hai đứng chứng kiến cuộc đua. Trong khi đua, hai tướng cầm đao dẫn đường, khi tung người lên, thuyền chỉ được bơi trong khu vực hai hàng khi né tránh đối phương. cờ. Mốc bắt đầu từ cây cờ trắng ngoài biển. Sau khi diễu hành đường lớn ba vòng, Hai thuyền cùng hướng mũi về phía đó. Đến hai tướng dẫn quân theo hai cổng chạy vào nơi, nhổ cờ trắng trao cho nhau rồi cùng nghỉ trung tâm sân miếu Đức Ông, lượn ba vòng ngơi khoảng 30 phút để chuẩn bị bước vào tròn khép kín. Quân Văn ở vòng trong, quân cuộc đua. Thuyền của giáp Đông Nam Văn rẽ Võ ở vòng ngoài. Ở đây bắt buộc tướng và sang phía đông (thuyền Đông), thuyền của quân của hai giáp phải chạy nhanh và theo sát giáp Đoài Bắc Võ rẽ sang phía tây (thuyền Tây). nhau. Sau đó tướng, quân hai giáp xếp thành Thuyền Đông rẽ sang đông quay vòng về phía hai hàng đứng trang nghiêm trước bàn thờ tây, thuyền Tây rẽ sang tây vòng về phía đông, tưởng niệm. Phát lệnh hai hồi trống báo hiệu cứ như vậy ba vòng rồi theo hướng bến đình tới phần việc của các vị chức sắc trong làng, mà trở lại, hai tướng đứng ở mũi thuyền hiên lần lượt các quan chức, hai tướng lên thắp ngang hùng dũng. Cờ tướng, cờ trung phất lên nhang, tiếp đến hai tướng vào lễ thần rồi đưa liên tục, đuôi cờ trung luôn sát đầu hai hàng quân xuống thuyền rồng. quân chèo. Đội hình xuống thuyền là 50 người, trong Sau ba vòng lượn, hai thuyền chèo vào bến đó có 01 tướng, 34 quân chèo, 15 người còn để hai tướng đọc lời rao. Tướng Văn đọc trước, lại gồm: trọng tài, người sử dụng sào, người sử tướng Võ đọc sau. Nội dung các bài rao nói lên dụng cồng, người lái, người đánh trống, người lòng tự hào về truyền thống của cha ông, quyết cầm cờ lọng, người phục vụ nước, chống đắm, tâm xây dựng quê hương và lời cầu mong mưa dương văn, chỉ huy quân chèo (Ảnh 2). thuận gió hoà, trời yên biển lặng, công việc làm Đường đua trên biển dài khoảng 1.500m. ăn phát đạt. Lời rao cũng như lời hịch, lời cáo Ngoài biển có cắm hai lá cờ trắng làm mốc hoặc lời truyền, một hình thức bố cáo phổ biến dành cho hai đội. Tại đây có hai trọng tài và phù hợp với thời đại nhà Trần xưa. Dứt lời rao của hai tướng, các tay chèo quay thật nhanh hai mũi thuyền rồng ra phía trước và dựng toàn bộ dầm, chèo lên be thuyền và ở tư thế chèo. Khi hiệu lệnh xuất phát, hai thuyền lao như tên bắn tới mục tiêu quy định. Lúc này quân tướng không một ai được nghỉ ngơi, ra sức đâm mái dầm thật sâu, vớt nước thật nhanh, tất cả đều Ảnh 2. Đua thuyền trong lễ hội đình Quan Lạn (Nguồn: Huy Hoàng Photo) theo nhịp trống, theo 16 Số 30 (Tháng 12 - 2019)
  4. DI SẢN VĂN HÓA tiếng hô “chèo”. Người điều khiển thuyền làm - Việc dựng doanh trại để luyện quân, diễu sao để khi quay thuyền, mặc chiều gió thuận hành trên bờ, trên biển, tiếng trống, chiêng, hay nghịch, phải lợi dụng được sức gió, chống thanh la, cùng tiếng reo hò, tiếng binh khí sào và cầm lái quay thuyền cho nhanh. chạm vào nhau mỗi khi tướng và quân hai Điểm về đích là một sợi dây thừng chăng bên gặp nhau tại điểm giữa trung tâm khi diễu ngang, nếu đầu thuyền rồng của bên nào hành, tưởng như cuộc giao tranh trên chiến chạm vào trước thì thuyền đó đạt giải nhất. trường thực sự, cùng lời rao của tướng Văn, Trong thời gian hai thuyền đua nhau, trên bờ tướng Võ trước khi vào cuộc đua... Tất cả như dân làng và những người xem hội reo hò, cổ vũ tái hiện “Hào khí Đông A” của quân và dân nhà không ngớt. Nếu nhìn thấy thuyền nào có khả Trần thế kỷ XIII, thể hiện truyền thống lâu đời năng vào trước thì tiếng reo hò cổ vũ cho bên của mảnh đất Vân Đồn oai hùng. đó lại càng vang dội hơn. Thuyền nào chạm tới - Trang phục của người tham gia đua bến trước, tướng sẽ được quân cõng chạy tới thuyền: quân giáp Văn mặc quần xanh áo cột treo giải ở miếu Đức Ông, vuốt vào khăn trắng, chân quấn xà cạp xanh; quân giáp Võ đỏ là chiến thắng. Ngày nay, chỉ cần tướng kéo trang phục quần xám đỏ, đầu thắt đai xanh quân về lễ đài miếu Đức Ông để ban tổ chức (cũng có khi quân giáp Văn trang phục màu trao giải. Dù thắng hay thua, hai tướng đều xanh viền vàng, đầu chít khăn vàng; quân dẫn quân đứng nghiêm trang trước miếu Đức giáp Võ trang phục áo đỏ, viền xanh, đầu chít Ông để vào lễ thần, sau đó mới dẫn quân về khăn đỏ)…; Tướng Văn mặc áo xanh, tướng Võ doanh trại nghỉ ngơi. mặc áo đỏ (gọi là áo phù giá) thắt đai chéo hai 2. Ý nghĩa, giá trị của lễ hội đình Quan Lạn bên, cả hai đều có mũ, giày và thanh long đao. Tồn tại hàng trăm năm qua, lễ hội đình Hai tướng được hóa trang “mắt phượng, mày Quan Lạn đã ăn sâu vào tiềm thức của người ngài”… Tất cả nhằm khắc họa khí chất trung dân nơi đây. Lễ hội gắn liền với mảnh đất, con dũng, oai phong, lẫm liệt, văn võ song toàn người, nét văn hoá đặc trưng của một vùng của tướng Trần Khánh Dư; sự tinh nhuệ, thiện biển đảo mang nhiều ý nghĩa, giá trị lịch sử, chiến, kỷ luật cao của binh sĩ nhà Trần. văn hóa, giáo dục và nhân văn sâu sắc. Điều - Hành động của quân và tướng hai giáp này được thể hiện thông qua một số nghi lễ, (giáp Văn, giáp Võ) diễu hành trên bờ 3 vòng, hoạt động diễn ra trong lễ hội như sau: chạy trong sân miếu Đức Ông 3 vòng, cũng - Lễ treo cờ hội, tục khóa làng cùng tiếng như việc hai thuyền khởi động 3 vòng trên trống thu quân vào ngày 10 tháng Sáu mang biển, mang ý nghĩa tượng trưng cho ba lần ý nghĩa báo hiệu có giặc xâm phạm bờ cõi đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông của Tổ quốc. Từ ngày này đến khi kết thúc lễ hội quân dân nhà Trần thế kỷ XIII. không ai được ra khỏi làng, nếu ai trái lệnh sẽ bị đốt thuyền. Sở dĩ lệnh nghiêm khắc như vậy - Hai thuyền diễu hành trên biển có chỗ vì xưa kia khi có giặc là có lệnh khóa làng để nghỉ ước chừng 30 phút, tượng trưng lúc quân đảm bảo an toàn cho người dân. Tục khóa làng ta mai phục chỗ khúc sông hẹp nhất, bất ngờ mở đầu vào hội thể hiện tâm thế ngày hội lịch tung ra đánh phủ đầu tiêu diệt đoàn tải lương sử, ngày hội đánh giặc truyền thống của nhân của giặc Nguyên Mông tại dòng sông Mang dân xã đảo. (địa danh Vân Đồn xưa). Số 30 (Tháng 12 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 17
  5. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU - Khi đua, các tay chèo ra sức đâm mái dầm không chỉ là một sinh hoạt văn hoá dân gian thật sâu, vớt nước thật nhanh, tất cả đều theo đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, văn hoá và sinh nhịp trống, theo tiếng hô “chèo”; khi quay hoạt tinh thần của người dân Quan Lạn (nét thuyền, phải biết lợi dụng sức gió, chống sào văn hóa đặc sắc của cư dân vùng biển), mà và cầm lái quay thuyền cho nhanh. Đó chính còn là một lễ hội lịch sử có quy mô tầm vóc là bí quyết làm nên chiến thắng của mỗi chiến quốc gia, thể hiện tinh thần thượng võ chống thuyền, đồng thời cũng thể hiện tính đoàn kết, giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền đất nước. sự đồng tâm hợp lực và kinh nghiệm đi biển Thông qua lễ hội, bản sắc văn hoá và lòng tự của cư dân nơi đây. hào dân tộc ngày càng được khẳng định, từ đó - Việc làm lễ và thả đèn hoa đăng tối 17 tháng xây dựng niềm tin, củng cố tình đoàn kết, gắn Sáu mang ý nghĩa cầu cho những linh hồn chết bó của người dân xã đảo. Với những ý nghĩa và trận, kể cả những linh hồn quân giặc Nguyên giá trị đó, lễ hội đình Quan Lạn là một di sản Mông thua trận, được siêu thoát, được về quê văn hóa quý báu cần được giữ gìn, bảo tồn và bình an. Cũng vì nghĩa này mà các cây đèn hoa phát huy. đăng có nhiều màu: màu xanh tượng trưng cho 3. Sự khác biệt của lễ hội đình Quan Lạn những người chết trẻ, màu hồng tượng trưng Lễ hội đình Quan Lạn có những điểm tương cho người lính, màu vàng tượng trương cho đồng về nghi lễ, nghi thức thờ cúng và tế lễ những người tướng trong quân đội nhà Trần; màu đen và màu tím tượng trưng cho linh hồn như các lễ hội truyền thống nói chung, nhưng quân giặc Nguyên Mông… Màu sắc của các cây bên cạnh đó vẫn có nhiều điểm khác biệt: đèn hoa đăng thể hiện truyền thống nhân văn - Về địa điểm tổ chức lễ hội: Điều khác biệt và lòng vị tha của dân tộc Việt Nam. của lễ hội đình Quan Lạn là diễn ra ở nhiều di - Việc hóa mã các ngựa thần, hai chiếc tích: đình, chùa, miếu, nghè, chứ không chỉ thuyền giấy trong lễ cầu bình yên sáng ngày diễn ra ở một di tích đình/đền/chùa/miếu như 20 tháng Sáu mang ngụ ý: trang bị phương các lễ hội ở làng quê khác. Ở lễ hội đình Quan tiện cho các linh hồn trở về quê hương sau khi Lạn, đình cũng đóng một vai trò quan trọng. kết thúc lễ hội. Đây là nghi thức mang đậm nét Vào hội, dân làng rước tượng, sắc phong của tín ngưỡng của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Trần Khánh Dư từ nghè về đình, tổ chức nhiều - Các nghi lễ, bài diễn xướng, văn tế, lời nghi lễ của lễ hội tại đây. Song các hoạt động rao,… trong lễ hội đều bày tỏ lòng biết ơn, chính của hội đua thuyền lại diễn ra ở miếu trân trọng và ước muốn của nhân dân vùng Đức Ông. Có lẽ do đặc trưng là lễ hội mang biển đảo với các vị anh hùng dân tộc, với lực đậm dấu ấn lịch sử đánh giặc, nên hoạt động lượng siêu nhiên; thể hiện đạo lý “uống nước chủ yếu được tổ chức ở miếu Đức Ông, là nơi nhớ nguồn” tưởng nhớ tôn vinh với người có thờ một trong các phó tướng của Trần Khánh công với nước, với làng; giáo dục thế hệ trẻ giữ Dư, người Quan Lạn, trực tiếp chiến đấu và hy vững truyền thống dựng nước và giữ nước của sinh trong trận chiến Vân Đồn xưa. cha ông và có ý thức giữ gìn và phát huy bản - Về các vị thần được thờ cúng trong lễ hội: sắc văn hóa của dân tộc. Thông thường, mỗi làng khi tổ chức lễ hội chỉ Những nghi lễ, những hoạt động diễn ra trình báo với một hay hai thần (hoặc thánh). trong lễ hội cho thấy, lễ hội đình Quan Lạn Trong khi đó, lễ hội đình Quan Lạn cũng là 18 Số 30 (Tháng 12 - 2019)
  6. DI SẢN VĂN HÓA trình thần, hầu thần nhưng không phải với được phong tướng đảm bảo các tiêu chí: có độ một hay hai thần mà là đa thần: ngoài thờ Trần tuổi từ 45 tuổi trở lên, có tài đức, có địa vị, uy tín Khánh Dư và ba anh em họ Phạm, nhân dân với làng xã, thành đạt trong công việc, gia đình còn thờ các vị thần, nhân vật lịch sử và các vị vẹn toàn, hạnh phúc, con cháu trưởng thành. tiên công. Tướng Văn ở giáp Đông Nam, tướng Võ ở giáp - Về hội đua thuyền trong lễ hội: Nhiều nơi Đoài Bắc. Người được phong tướng có quyền trong tỉnh Quảng Ninh cũng tổ chức đua tham vấn việc làng, võng lọng trong lễ hội, thuyền/bơi chải vào dịp lễ hội như: Hội đua chủ trì đội đua thuyền; có nghĩa vụ khao quân, thuyền trong lễ hội đình Trà Cổ chỉ mang tính khao nguyên lão, nguyên tướng; hiệu triệu dân hội nhằm vui chơi, giải trí; hay lễ hội bơi chải làng theo gương tiền nhân tiên công mở đất, Bạch Đằng ở đảo Hà Nam lại mang đậm dấu ấn bảo vệ non sông hải đảo. Đây là nét riêng độc nông nghiệp là cầu mùa màng tốt tươi. Nhưng đáo chỉ có trong lễ hội đình Quan Lạn. hội đua thuyền trong lễ hội đình Quan Lạn vừa - Về giải thưởng: Ở các hội đua thuyền nói mang tính lễ, vừa mang tính hội. Ở đây, hội đua chung chỉ trao giải cho đội thắng cuộc, nhưng thuyền diễn ra dưới hình thức là một cuộc đua ở hội đua thuyền Quan Lạn, dù thắng hay thua tài, diễn lại trận chiến Vân Đồn năm 1288, ba thì cả hai đội đều được ban tổ chức trao giải, lần đánh thắng quân Nguyên Mông của quân bởi ở đây giải của cuộc đua chỉ là vấn đề rất dân nhà Trần liên quan tới các danh tướng là phụ. Vấn đề chính là các thành viên được tham Trần Hưng Đạo và Trần Khánh Dư, cùng các gia vào hội đua. Đó vừa là niềm tự hào, vừa là sự nghi thức tế lễ cáo thần, dâng hương nghĩa tưởng nhớ bái vọng về những năm tháng hào sĩ, diễu võ dương oai, múa đao dẹp đường; hùng trong lịch sử giữ nước của ngư dân biển nội dung lời rao của tướng Văn, tướng Võ nói đảo. Đây mới là ý nghĩa chân chính mà mỗi lên lòng tự hào về truyền thống của cha ông, người dân làng Quan Lạn bao đời hướng tới. quyết tâm xây dựng quê hương và cầu mong Ngoài những điểm khác biệt nêu trên, lễ mưa thuận gió hoà, một năm trời yên biển hội đình Quan Lạn còn mang những nét văn lặng, công việc làm ăn phát đạt. Như vậy, lễ hội hóa riêng của người dân Quan Lạn: vừa mang đậm tính lịch sử, vừa mang dấu ấn của lễ hội nông nghiệp, cầu mong mùa màng - Tiếng trống thu quân được đánh vào ngày tốt tươi. 10 tháng Sáu. Đây là một kiểu đánh trống - Về thành viên tham gia hội đua thuyền: Ở truyền thống đặc biệt với giai điệu trầm bổng các hội đua thuyền nói chung, dân làng thường rất riêng. Người đánh trống thể hiện nhiều chọn những người tham gia đua thuyền là động tác khoẻ khoắn nhưng rất uyển chuyển những thanh niên khỏe mạnh, thể lực tốt, bơi như múa. Người đánh trống không do truyền lội giỏi và phải vững tay chèo, không có tướng dạy mà nó như một cơ duyên, phải tự nghe, chỉ huy cuộc đua. Ở lễ hội đình Quan Lạn, người hiểu và tự đánh theo, nếu có năng khiếu mới tham gia đua thuyền ngoài việc đảm bảo các thuần thục được. Nhiều người nghe và thích tiêu chí như vậy, còn có các tiêu chí khác như: đánh trống nhưng rất ít người cảm nhận và bắt buộc phải là người địa phương, đã làm lễ đánh được điệu trống này. cai đám từ khi 10 tuổi. Đặc biệt, dân làng còn - Điệu múa Long đao được thể hiện trong phong tướng (tướng Văn, tướng Võ). Người cuộc diễu hành của đội đua thuyền. Đao là Số 30 (Tháng 12 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 19
  7. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU một vũ khí của các võ tướng, với những thế Chú thích võ binh khí chủ yếu là đỡ, chém xuống, chém 1 Phần lễ được diễn ra theo trình tự: Ngày 10: ngược, che toàn thân (quay tròn đao). Nó biểu 8 giờ 30 phút treo cờ thần khóa làng, đánh trống thu quân; 10 giờ 30 phút cải tịch thay áo cho tượng của sự dẻo dai, rèn luyện sức khỏe và vua Lý Anh Tông, tướng Trần Khánh Dư và Phạm tinh thần thượng võ và sức mạnh của người Công Chính. Ngày 13: Các giáp họp bàn với nhau dân đảo Quan Lạn. Đây là một trò diễn độc việc tổ chức vào đám và làm lễ cai đám cho các đáo của lễ hội đình Quan Lạn không nơi nào bé trai tròn 10 tuổi. Ngày 16: 8 giờ 00 tổ chức lễ nghinh thần rước tượng và sắc phong của tướng có được. Trần Khánh Dư từ nghè về đình; chiều tướng Văn, Quy tụ nhiều ý nghĩa, giá trị và sự khác biệt tướng Võ tổ chức lễ khao quân tại doanh trại; 19 mang đặc trưng văn hóa vùng biển đảo, cùng giờ 30 phút tiến hành lễ tế Yên vị tại đình. Ngày với sự thấm đẫm tinh thần thượng võ dân tộc, 17: Sáng tổ chức lế tế tại chùa; tối làm lễ thả đèn hoa đăng và làm lễ tế tại miếu Đức Ông. Ngày 18: lễ hội đình Quan Lạn không chỉ có sức thu hút Vào lúc 0 giờ nổi một hồi trống lớn với ý nghĩa đối với đông đảo người dân trên đảo, mà còn báo hiệu ngày mai vào trận, 8 giờ quân giáp Văn có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và và giáp Võ tập trung về miếu làm lễ tế thần, hai ngoài nước. Mỗi dịp lễ hội là dịp người dân tướng nhận kiếm lệnh, dầm, chèo, cờ, long đao, y phục, kiểm tra quân số; khoảng 14 giờ 30 phút trên đảo thể hiện tinh thần đoàn kết, sự gắn khi hồi trống lệnh được phát ra, từ hai ngả của kết cộng đồng làng xã. Lễ hội là cơ hội để họ doanh trại bên giáp Văn, giáp Võ, quân sỹ diễu được sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, là chốn hành biểu dương lực lượng và tham dự đua giao cảm của tâm thức ngư dân vùng biển thuyền. Ngày 19: Hai vị tướng chuẩn bị lễ vật của giáp để cúng lễ. Ngày 20: Sáng làm lễ cầu bình đảo về quá khứ, một quá khứ hào hùng gắn yên tại đình và làm lễ “Xe giá hoàn cung”, rước liền với hành trình chinh phục thiên nhiên, tượng và sắc phong của Trần Khánh Dư từ đình cùng những chiến công hiển hách chống giặc trở lại nghè; chiều đưa thuyền lên bờ và kết thúc ngoại xâm giữ yên bờ cõi vùng Đông Bắc của lễ hội. Tổ quốc... Với những ý nghĩa và giá trị đó, ngày 20/12/2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã Tài liệu tham khảo ban hành Quyết định số 4587/QĐ-BVHTT&DL 1. Trần Hòa (2019), “Di sản văn hóa phi vật công nhận lễ hội đình Quan Lạn, xã Quan Lạn, thể Lễ hội đình Quan Lạn: Đất hiếm dựng đình huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh là Di sản văn thiêng”, https://giaoducthoidai.vn/van-hoa/di- san-van-hoa-phi-vat-the-le-hoi-dinh-quan-lan- hóa phi vật thể Quốc gia. Đây vừa là vinh dự, là dat-hiem-dung-dinh-thieng-4058763-b.html niềm tự hào, nhưng cũng là sự nhắc nhở mỗi 2. Phan Thị Huệ (2018), Giáo trình Lễ hội truyền người dân trên đảo, chính quyền địa phương thống tiêu biểu Quảng Ninh, Nxb. Đại học Thái trong việc trân trọng, giữ gìn và phát huy Nguyên, Thái Nguyên. những giá trị văn hóa độc đáo mà cha ông để 3. Nguyễn Thị Phương Thảo (2015), Văn hóa lại và xây dựng hòn đảo trở thành hòn ngọc vùng biển đảo Quảng Ninh qua các lễ hội truyền thống, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. mãi mãi tỏa sáng đúng với tên đảo (Quan Lạn: có nghĩa quang đãng, sáng đẹp). Ngày nhận bài: 20 - 11 - 2019 P.T.H Ngày phản biện, đánh giá: 8 - 12 - 2019 (TS., Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hạ Long) Ngày chấp nhận đăng: 27 - 12 - 2019 20 Số 30 (Tháng 12 - 2019)
nguon tai.lieu . vn