Xem mẫu
- XUÂN CANH TÝ 2020
LÀM GÌ ĐỂ QUẢN LÝ CÓ HIỆU QUẢ VỀ NỢ VÀ TÀI SẢN
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
PGS.TS HOÀNG ĐỨC (*)
TÓM TẮT
Trong cơ cấu tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM), Nợ và Tài sản của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN VN) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, khác với cơ cấu tài chính của các
doanh nghiệp sản xuất, cơ cấu tài chính của NHTM đối với Nợ chủ yếu là nguồn vốn huy động từ tiền
gửi của các doanh nghiệp, các cá nhân (chiếm 80 – 90 % tổng nguồn vốn). Còn Tài sản của NHTM
chủ yếu là cấp tín dụng cho nền kinh tế (chiếm tỷ trọng 70 – 80%). Vấn đề đặt ra làm gì để quản lý có
hiệu quả Nợ và Tài sản của NHTM. Bài viết sẽ làm rõ về Nợ và Tài sản cũng như mối quan hệ về Nợ
và Tài sản từ đó đưa ra các giải pháp nhằm quản lý có hiệu quả Nợ và Tài sản của NHTM đảm bảo
cho NHTM hoạt động kinh doanh bình thường và có hiệu quả.
Từ khóa: NHTM; Tài sản Nợ; Tài sản có của NHTM; Huy động vốn; Cấp tín dụng…
SUMMARY
In the financial structure of commercial banks (commercial banks), Debt and Assets of the State
Bank of Vietnam (SBV) have a close relationship with each other, which is different from the financial
structure of manufacturing enterprises.
The financial structure of commercial banks for debt is mainly capital mobilized from deposits
of businesses and individuals (about 80-90% of the total capital). The assets of commercial banks are
mainly credit for the economy (nearly70-80%). The question is what to do to effectively manage Debts
and Assets of commercial banks. The article will clarify the Debts and Assets as well as the
relationship on Debts and Assets, thereby offering solutions to effectively manage the Debts and Assets
of commercial banks to ensure the commercial activities of commercial banks and effective.
Key words: Commercial banks; Debt Property; Assets of commercial banks; Capital
mobilization; Credit extension…
1. Nợ và Tài sản của Ngân hàng thương mại
1.1. Tổng quan về Nợ của Ngân hàng thương mại
Nợ là thuật ngữ dùng để chỉ nghĩa vụ nợ của ngân hàng. Nợ có vai trò quan trọng trong việc góp
phần vào sự phát triển bền vững của mỗi ngân hàng. Nợ cùng với Tài sản thuộc nghiệp vụ nội bảng của
ngân hàng.
Tài sản Nợ của ngân hàng được chia làm 4 nhóm:
Vốn huy động
Vốn điều chuyển
Vốn đi vay
Vốn chủ sở hữu
1.1.1. Nhóm vốn huy động
Các tài khoản giao dịch:
Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn (tài khoản tiền gửi giao dịch, thanh toán) của doanh nghiệp,
cá nhân, tổ chức. Loại tài khoản này có đặc điểm:
+ Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi tiền vào và rút tiền ra bất cứ lúc nào vì vậy
mang tính rủi ro cao cho các ngân hàng khi dùng các khoản vốn này để đầu tư. Do đó, ngân hàng phải
dự trữ nhiều hơn so với các loại tiền gửi khác.
(*) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM TẠP CHÍ KINH TẾ - CÔNG NGHIỆP
11
- XUÂN CANH TÝ 2020
+ Mục đích của người gửi tiền trong phương thức này không phải để hưởng lãi mà là để nhận
các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng cung cấp và những dịch vụ thanh toán này sẽ
không thu phí. Vì vậy, nếu sử dụng nguồn vốn này cho vay sẽ mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Tài khoản vãng lai:
+ Loại tài khoản này thường áp dụng với những khách hàng có uy tín, ngân hàng có thể thấu chi
đến mức phù hợp với thu nhập bình quân của chủ tài khoản nhằm đảm bảo khả năng trả nợ. Tài khoản
vãng lai là công cụ riêng có của ngân hàng ở tầm vi mô. Các doanh nghiệp chỉ mở cho nhau các tài
khoản chủ nợ, khách nợ hay phải thu phải trả. Các công ty tài chính, các tổ chức phi ngân hàng không
được mở tài khoản vãng lai cho khách hàng.
+ Tài khoản vãng lai dựa trên hợp đồng tài khoản vãng lai, trong đó hai bên thỏa thuận mức cho
vay, thời hạn, lãi suất, các hình thức đảm bảo,… Các tranh chấp phát sinh được xử lý theo luật tố tụng
thương mại.
+ Tài khoản vãng lai là một tài khoản lưỡng tính và hoạt động theo nguyên lý:
Bên Nợ ghi mọi khoản tiền khách hàng rút ra sử dụng, bao gồm các khoản ngân hàng trả thay
cho khách hàng.
Bên Có ghi mọi khoản tiền khách hàng nộp hay thu vào.
Các tài khoản phi giao dịch
Thường bao gồm các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tiền gửi tiết kiệm của
cá nhân. Loại tiền gửi này khách hàng chỉ được rút tiền ra theo một kỳ hạn được quy định trước, được
hưởng lãi và nhận gốc khi đáo hạn nhưng không được tham gia thanh toán không dùng tiền mặt.
Các tài khoản phi giao dịch có các đặc điểm chính:
+ Mục đích của người gửi tiền là hưởng lãi.
+ Đây là loại tiền gửi ổn định, thường được ngân hàng sử dụng cho vay trung dài hạn.
Phát hành giấy tờ có giá
Phát hành chứng chỉ tiền gửi: là những tờ giấy chứng nhận đã gửi tiền vào ngân hàng, có thể
chuyển nhượng được, có hưởng lãi theo lãi suất thỏa thuận giữa khách hàng với người phát hành.
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng: Là những chứng khoán nợ có thời hạn ngắn, được ngân
hàng phát hành để huy động vốn.
Huy động vốn qua việc phát triển các tài khoản hỗn hợp
Là một dạng tiền gửi hoặc phi tiền gửi cho phép kết hợp thực hiện các dịch vụ thanh toán, tiết
kiệm, môi giới đầu tư, tín dụng. Khách hàng sẽ ủy thác dịch vụ trọn gói cho chuyên viên quản lý tài
khoản tại ngân hàng.
Vốn chiếm dụng
Là việc ngân hàng sử dụng các loại tiền gửi nghĩa vụ của khách hàng trong quá trình tổ chức
thanh toán không dùng tiền mặt (như các khoản tiền ký quỹ để bảo chi séc, mở thư tín dụng, bảo lãnh
ngân hàng…) để tạm thời đáp ứng nhu cầu vốn của ngân hàng.
Ngoài hình thức phân loại trên, các nguồn vốn của ngân hàng còn được phân chia theo tiêu
thức: nguồn vốn bị động (tiền gửi giao dịch, phi giao dịch) và nguồn vốn chủ động (các công cụ nợ của
ngân hàng, vay các định chế tài chính, bán các khoản nợ, vay Ngân hàng Trung ương…).
1.1.2. Vốn điều chuyển
TẠP CHÍ KINH TẾ - CÔNG NGHIỆP
12
- XUÂN CANH TÝ 2020
Vốn điều chuyển là nguồn vốn mà chi nhánh điều chuyển từ hội sở hay các chi nhánh khác
trong cùng hệ thống khi nguồn vốn huy động không đủ để đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh của ngân
hàng.
Ngày nay, hệ thống NHTM được tổ chức theo mô hình tổng công ty và các công ty con gồm
ngân hàng mẹ và các hệ thống các ngân hàng chi nhánh trực thuộc. Có một phương thức huy động vốn
rất hiệu quả hiện nay là chu chuyển vốn điều hoà. Do tình hình hoạt động của các chi nhánh tại các địa
bàn khác nhau là khác nhau (do ảnh hưởng của điều kiện phát triển kinh tế của từng vùng, do phong tục
tập quán…), cho nên những chi nhánh ngân hàng hoạt động sử dụng vốn vượt quá khả năng huy động
vốn thì đầu kỳ lập kế hoạch lên ngân hàng mẹ và xin được nhận lượng vốn điều hoà cần thiết cho hoạt
động của mình. Còn những ngân hàng mà khả năng huy động vốn vượt quá khả năng sử dụng vốn thì
đầu kỳ cũng lập kế hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về ngân hàng mẹ để được hưởng lãi suất điều
hoà. Như vậy, ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm điều chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu của các chi
nhánh trong cùng hệ thống. Các ngân hàng chỉ được nhận nguồn vốn này sau khi đã lập kế hoạch về
lượng vốn huy động được trong kỳ sau.
1.1.3. Vốn đi vay
Vay vốn trên thị trường tiền tệ
Các ngân hàng có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng.
Các ngân hàng cũng có thể vay vốn từ ngân hàng Trung ương thông qua các nghiệp vụ chiết
khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá hoặc cho vay lại theo hồ sơ tín dụng mà NHTM xuất trình, vay
thấu chi, vay qua đêm, vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ qua NHNN VN.
Vay ngắn hạn qua hợp đồng mua lại
Hợp đồng mua lại thực chất là thỏa thuận bán tạm thời chứng khoán chất lượng với tính thanh
khoản cao (cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu Chính phủ sắp hết hạn thanh toán…) kèm theo thỏa thuận sẽ
mua lại các chứng khoán này tại một thời điểm trong tương lai với mức giá xác định trong hợp đồng.
Hợp đồng được ký kết giữa ngân hàng với khách hàng (có tài khoản tại ngân hàng) hoặc với ngân hàng
khác.
Đối với bên bán chứng khoán, cam kết mua lại được gọi Repo; đối với bên kia (mua chứng
khoán sau đó lại đồng ý bán lại) gọi là Reverse Repo. Giao dịch này có thể thuộc loại qua đêm hoặc
đến vài tháng, tùy thuộc vào nhu cầu vốn của ngân hàng và khả năng vốn của chủ thể mua chứng
khoán. Như vậy, ngân hàng có thể thỏa mãn nhu cầu vốn mà không phải bán vĩnh viễn các chứng
khoán chất lượng của mình.
Chi phí trả lãi theo PR = Số tiền vay x Lãi suất hiện hành của PR x Số ngày vay theo hợp đồng.
Thông thường lãi suất trong hợp đồng mua lại rất thấp so với lãi suất huy động vốn của ngân
hàng.
Bán các khoản cho vay
Bán các khoản cho vay.
Các khoản cho vay của một ngân hàng ngoài việc được sử dụng như tài sản thế chấp trong hoạt
động chứng khoán để thu hút các nguồn vốn mới, mà còn có thể được bán cho một ngân hàng khác.
Hiện nay, bán khoản cho vay không chỉ được thực hiện bởi các ngân hàng lớn mà đã mở rộng đến mọi
ngân hàng với đủ loại quy mô khác nhau. Ngân hàng thường bán những khoản nợ cho vay có kỳ hạn
dưới 90 ngày.
TẠP CHÍ KINH TẾ - CÔNG NGHIỆP
13
- XUÂN CANH TÝ 2020
Đối tượng tham gia
+ Người mua: chủ yếu là ngân hàng, bao gồm ngân hàng nước ngoài muốn tìm kiếm vị trí chắc
chắn trong thị trường nội địa; công ty bảo hiểm; quỹ hưu trí; công ty phi tài chính lớn; các quỹ tương
hỗ, gồm cả các quỹ tập trung mua các món vay có vấn đề và các ngân hàng đầu tư.
+ Người bán: ngân hàng trung tâm tiền tệ, các ngân hàng nước ngoài.
Hình thức bán các khoản cho vay
+ Bán nợ tham gia (Participation loan): Là một thỏa thuận giữa ngân hàng bán nợ với người
vay, người mua nợ không phải là một bên pháp lý của quan hệ mua bán này.
+ Chuyển nhượng nợ (Assignment): Quyền sở hữu khoản tín dụng được chuyển cho người mua
nợ và người mua có quyền yêu cầu trực tiếp đối với người đi vay.
+ Bán từng phần (Loanstrip): Ngân hàng sẽ chia khoản tín dụng dài hạn thành các khoản tín
dụng ngắn hạn, bên mua nợ sẽ nhận một phần lãi của khoản tín dụng.
Chứng khoán hóa (Securitization)
Chứng khoán hóa là hình thức phát hành các chứng khoán trên cơ sở các tài sản được thế chấp
của các khoản mục tín dụng. Đây là phương thức huy động vốn bằng cách thay đổi tài sản có thành
nguồn vốn của mình và phương thức hạn chế rủi ro đơn giản của ngân hàng, được phát triển đầy đủ từ
trước những năm 1970. Thông thường những khoản nợ bán là khoản nợ có chất lượng cao và ngân
hàng biến những khoản cho vay thành những loại chứng khoán có thể mua bán trên thị trường.
Việc thực hiện chứng khoán hóa là không bắt buộc đối với từng NHTM hiện nay. Nhưng thực
tế cho thấy rằng, việc ứng dụng và phát triển kỹ thuật chứng khoán hóa là cần thiết vì nó khắc phục
được những hạn chế về nguồn vốn cho vay trung, dài hạn của NHTM, giúp các NHTM giảm thiểu rủi
ro, hoạt động hiệu quả, đúng bản chất, từ đó thúc đẩy thị trường tài chính phát triển. Đặc biệt là trong
tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng như hiện nay thì việc chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của
doanh nghiệp thành những loại chứng khoán có thể mua bán trên thị trường là một điều vô cùng cần
thiết.
Vay thị trường Đô la Châu Âu
Eurodollars là khoản tiền gửi bằng đô la Mỹ trên tài khoản ngân hàng nằm ngoài nước Mỹ. Đơn
giản, ta có thể hiểu: Eurocurrencies là tiền gửi bằng các đồng tiền khác nhau trên tài khoản của các
ngân hàng nằm ngoài nước phát hành.
Eurobanks là những ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay ngắn hạn đồng tiền của một quốc gia
bất kỳ, nhưng không chịu sự chi phối các quy định của Ngân hàng Trung ương phát hành đồng tiền
này. Đây là những ngân hàng nước ngoài kinh doanh đồng tiền của một nước nhất định.
1.1.4. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu bao gồm: vốn điều lệ, lợi nhuận chưa phân phối, chênh lệch đánh giá lại tài sản,
quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng phúc lợi…
1.2 Tổng quan về Tài sản của Ngân hàng thương mại
Trong bảng cân đối kết toán của NHTM, mục tài sản được hiểu là những khoản tiền mặt tại quỹ,
tiền gửi tại các NHNN VN, Tổ chức tín dụng (TCTD); các khoản cấp tín dụng và các khoản đầu tư
chứng khoán, góp vốn liên doanh… Một cách ngắn gọn, Tài sản của NHTM chính là nguồn vốn sẵn có
hoặc huy động và NHTM sẽ kinh doanh bằng nguồn vốn một cách hiệu quả.
Các thành phần của Tài sản:
TẠP CHÍ KINH TẾ - CÔNG NGHIỆP
14
- XUÂN CANH TÝ 2020
Nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết định đến khả năng
tồn tại và hoạt động của NHTM. Đây là các nghiệp vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của
Tài sản của ngân hàng. Thành phần Tài sản của ngân hàng bao gồm:
Dự trữ
Cấp tín dụng
Đầu tư
Tài sản khác
1.2.1 Dự trữ
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời, song cần phải bảo đảm an toàn để
giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải
bảo đảm khả năng thanh toán: đáp ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy các ngân hàng
phải để dành một phần nguồn vốn không sử dụng nó để sẵng sàn đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn
để dành này gọi là dự trữ. NHNN VN được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo từng thời kỳ
nhất định, việc trả lãi cho tiền gởi dự trữ bắt buộc do Chính phủ quy định. Dự trữ bao gồm:
Dự trữ sơ cấp (Primary Reserves): bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, tại các ngân hàng
khác.
Dự trữ thứ cấp (Secondary Reserves): (cấp hai) là dự trữ không tồn tại bằng tiền mà bằng chứng
khoán, nghĩa là các chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành tiền một cách thuận lợi. Các loại
chứng khoán NHTM nắm giữ gồm: tín phiếu kho bạc, hối phiếu đã chấp nhận và các giấy nợ ngắn hạn
khác. Gọi là dự trữ thứ cấp bởi nó chỉ được sử dụng khi các khoản mục dự trữ sơ cấp bị cạn kiệt. Khi
quản lý dự trữ bắt buộc, Ngân hàng Trung ương (NHTW) có thể áp dụng 1 trong 3 phương pháp.
+ Phương pháp phong tỏa: Theo đó toàn bộ mức dự trữ bắt buộc phải gửi vào một tài khoản tại
NHTW và sẽ bị phong tỏa để đảm bảo thực hiện đúng mức dự trữ.
+Phương pháp bán phong tỏa: Theo đó một phần của mức dự trữ bắt buộc sẽ được quản lý và
phong toả tại một tài khoản riêng ở NHTW.
+ Phương pháp không phong tỏa: theo phương pháp này tiền dự trữ được tính và thực hiện
hàng ngày trên cơ sở số dư thực tế về tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Toàn bộ mức dự trữ
sẽ không bị phong tỏa, nó có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt hay tiền gửi tại NHTW hay dưới dạng
chứng khoán ngắn hạn là tùy NHTM, tuy nhiên đến cuối mỗi tháng, NHTW sẽ kiểm tra việc thực hiện
dự trữ bắt buộc, nếu các NHTM không thực hiện đúng sẽ bị phạt (cảnh cáo, phạt tiền nếu tái phạm).
1.2.2 Cấp tín dụng
Số nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các NHTM có thể dùng để cấp tín dụng
cho các tổ chức, cá nhân bao gồm:
Cho vay
Là tín dụng nghiệp vụ của NHTM. Trong đó, NHTM sẽ cho người đi vay, vay một số vốn để sản
xuất kinh doanh, đầu tư hoặc tiêu dùng. Khi đến hạn người đi vay phải hoàn trả vốn và tiền lãi. Ngân
hàng kiểm soát được người đi vay, kiểm soát được quá trình sử dụng vốn. Người đi vay có ý thức trả
nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến việc sử dụng làm sao có hiệu quả để hoàn trả nợ vay. Trong
cho vay thì mức độ rủi ro rất lớn, không thu hồi được vốn vay hoặc trả không hết hoặc không đúng
hạn… do chủ quan hoặc khách quan. Do đó khi cho vay các ngân hàng cần sử dụng các biện pháp bảo
đảm vốn vay: thế chấp, cầm cố …
TẠP CHÍ KINH TẾ - CÔNG NGHIỆP
15
- XUÂN CANH TÝ 2020
Chiết khấu các chứng từ có giá
Đây là nghiệp vụ cho vay (gián tiếp) mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và
một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng. Các đối tượng trong nghiệp vụ này gồm hối
phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ có giá khác.
Cho thuê tài chính
Là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó các công ty cho thuê tài chính dùng vốn của mình
hay vốn do phát hành trái phiếu để mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và tiến hành cho
thuê trong một thời gian nhất định. Người đi thuê phải trả tiền thuê cho công ty cho thuê tài chính theo
định kỳ. Khi kết thúc hợp đồng thuê người đi thuê được quyền mua hoặc kéo dài thêm thời hạn thuê
hoặc trả lại thiết bị cho bên cho thuê.
Bảo lãnh
Trong loại hình nghiệp vụ này khách hàng được ngân hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng nhờ đó
khách hàng sẽ được vay vốn ở ngân hàng khác hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết.
1.2.3 Đầu tư
Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cấp tín dụng, nó mang lại khoản
thu nhập lớn và đáng kể của NHTM. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và
nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như:
+ Hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty; hùn vốn mua cổ phần chỉ được phép thực
hiện bằng vốn của ngân hàng.
+ Mua trái phiếu Chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty…
Tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập, mặt khác nhờ hoạt
động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán, mặt khác đầu tư vào trái phiếu
Chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp
1.2.4 Tài sản khác
Những khoản mục còn lại của Tài sản trong đó chủ yếu là tài sản cố định nhằm xây dựng hoặc
mua thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng, trang thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển, xây dựng
hệ thống kho quỹ… Ngoài ra còn các khoản phải thu, các khoản khác…
1.3. Mối quan hệ giữa Nợ và Tài sản của Ngân hàng thương mại
Nợ và tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và được thể hiện ở các đặc điểm sau:
Bất kỳ một tài sản nào cũng được hình thành từ một hoặc một số nguồn (nợ) nhất định và một
nguồn (nợ) có thể hình thành nên một hoặc nhiều tài sản khác.
Về mặt giá trị, căn cứ vào mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn trên bảng cân đối kế
toán thì tài sản và nợ là hai cách phân loại khác nhau để phản ánh vốn kinh doanh của ngân hàng và
luôn luôn bằng nhau. Khi đó ta luôn có: Tổng nguồn vốn = Tổng tài sản.
Nếu tài sản ngắn hạn > nợ ngắn hạn, thể hiện ngân hàng giữ vững quan hệ cân đối giữa tài sản
ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Điều này đảm bảo cho hoạt động thường xuyên, phù hợp với sự hình thành,
phát triển và mục đích sử dụng vốn của ngân hàng.
Ngược lại, nếu tài sản ngắn hạn < nợ ngắn hạn, điều này xuất hiện dấu hiệu ngân hàng đã sử
dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn đầu tư vào tài sản trung dài hạn và có khả năng dẫn đến thiếu hụt
nguồn tài chính, vốn lưu động ròng âm.
TẠP CHÍ KINH TẾ - CÔNG NGHIỆP
16
- XUÂN CANH TÝ 2020
Nếu tài sản dài hạn > nợ dài hạn, thể hiện ngân hàng sử dụng đúng mục đích nợ dài hạn
và cả vốn chủ sở hữu. Ngược lại, nếu phần tài sản dài hạn < nợ dài hạn điều này chứng tỏ một phần nợ
dài hạn đã chuyển vào tài trợ tài sản ngắn hạn. Điều này làm lãng phí chi phí lãi vay nợ dài hạn, đồng
thời thể hiện sử dụng sai mục đích nợ dài hạn và có thể dẫn đến sự mất cân đối trong cấu trúc tài chính
và tình hình kinh doanh giảm sút.
2. Giải pháp quản lý có hiệu quả Nợ và Tài sản của Ngân hàng thương mại hiện nay của Việt
Nam
2.1 Tổng quan về quản lý Nợ và Tài sản của Ngân hàng thương mại
Quản lý nợ và tài sản hoạt động như một cơ chế xử lý những rủi ro của ngân hàng do nguyên
nhân mất cân đối giữa Tài sản và Nợ bởi thanh khoản hoặc biến động lãi suất thị trường. Đây là một
quá trình tích hợp giữa quản trị rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản; lập ngân sách và lập kế hoạch chiến
lược trong toàn ngân hàng; xây dựng các chiến lược năng động trong tương lai, đảm bảo cân đối giữa
rủi ro và khả năng sinh lời.
Mục tiêu của quản lý Nợ và Tài sản của NHTM
Kiểm soát những biến động bất thường của thu nhập lãi thuần và giá trị gia tăng của vốn chủ sở
hữu.
Đảm bảo khả năng thanh khoản.
Đảm bảo sự cân bằng giữa lợi nhuận, tăng trưởng và rủi ro.
2. 2 Giải pháp quản lý nợ của NHTM
Biện pháp kinh tế: Sử dụng đòn bẫy kinh tế (chủ yếu là công cụ lãi suất) để gia tăng sức hấp
dẫn của huy động vốn. Tuy nhiên công cụ này đang bị các ngân hàng lạm dụng nhằm tăng tính cạnh
tranh, dẫn đến chi phí huy động bị đẩy lên cao, ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh và ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế.
Biện pháp kỹ thuật: Cải tiến khoa học công nghệ hiện đại nhằm đảm bảo tốc độ giao dịch, chính
xác, an toàn cho giao dịch. Đa dạng hóa hình thức huy động vốn với những sản phẩm linh hoạt, tích
hợp nhiều tiện ích trong một sản phẩm. Kiểm soát chặt chẽ mạng lưới để tránh gây lãng phí vốn, con
người và công nghệ.
Biện pháp tâm lý: Tăng cường chăm sóc khách hàng, tổ chức các hoạt động tuyên truyền, đào
tạo đội ngũ nhân viên nhằm duy trì mối quan hệ với khách hàng, đồng thời tạo dựng hình ảnh tốt và có
uy tín đối với khách hàng mới.
Sử dụng công cụ cơ bản để tìm kiếm nguồn vốn: Khi nhu cầu vay vượt quá khả năng thanh
khoản, các NHTM sẽ thực hiện vay theo thứ tự sau: Vay qua đêm, vay tái cấp vốn của NHNN VN với
thời gian linh hoạt tùy vào nhu cầu và khả năng trả nợ của ngân hàng, sử dụng hợp đồng mua lại, các
chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn để huy động vốn.
Đa dạng hóa nguồn huy động vốn và tạo cơ cấu nguồn vốn phù hợp với những đặc điểm hoạt
động của ngân hàng: Tùy vào đặc điểm ngân hàng tập trung vào bán buôn hay bán lẻ mà có cơ cấu
nguồn vốn hợp lý để đảm bảo khả năng thanh khoản, tránh rủi ro về lãi suất.
Tận dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn: giúp ngân hàng tận dụng nguồn huy
động vốn rẻ mà vẫn đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Ngân hàng cần phân biệt các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn.
Các khách hàng, hoặc nhóm khách hàng có tiền gửi lớn cần được đặc biệt chú ý, các nhóm khách hàng
TẠP CHÍ KINH TẾ - CÔNG NGHIỆP
17
- XUÂN CANH TÝ 2020
truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với những thay đổi về công nghệ, lãi suất và chất lượng
dịch vụ kèm theo cần phải được nghiên cứu cụ thể. Nhà quản lý cũng cần xem xét thị phần nguồn tiền
của các ngân hàng khác trên địa bàn và khả năng cạnh tranh của họ.
Xây dựng kế hoạch nguồn vốn cho từng giai đoạn.
2.3 Giải pháp quản lý Tài sản
Quản lý dự trữ
Dự trữ là một bộ phận tài sản được duy trì song song với tài sản sinh lời nhằm đảm bảo khả
năng thanh toán của toàn bộ các khoản nợ phát sinh, toàn bộ các khoản chi trả, chi tiêu và cho vay
thường xuyên của ngân hàng. Dự trữ quá nhiều sẽ giảm hiệu quả kinh doanh, dự trữ quá ít thì không
đảm bảo khả năng chi trả của ngân hàng, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Do đó, các ngân hàng cần phải hoạch định các chính sách về ngân quỹ hợp lý, không nên để
thặng dư thanh toán hay thâm hụt lâu. Đồng thời, phải giám sát chặt chẽ việc huy động vốn và cho vay
vốn; cần có thông tin chính xác và nhanh chóng đến người quản lý để giải quyết.
Xây dựng chính sách tín dụng hiệu quả
Tín dụng được xem là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng nhưng cũng là thu
nhập mang lại rủi ro cao. Để có thể đảm bảo hoạt động kinh doanh mà vẫn giảm thiểu rủi ro ở mức
thấp nhất thì các NHTM cần thiết lập chính sách tín dụng hiệu quả trên cơ sở tuân thủ các quy định
pháp luật, bao gồm: việc xây dựng chính sách lãi suất thích hợp, thủ tục vay nợ khoa học, quản lý rủi ro
tín dụng, tiêu chuẩn xếp loại khách hàng, đa dạng hóa các khoản mục tín dụng để phân tán các rủi ro…
kể cả phương pháp quản lý và xử lý các khoản vay có vấn đề.
Xây dựng chính sách đầu tư hiệu quả
Xây dựng danh mục đầu tư sao cho đa dạng hóa được các rủi ro và thu được lợi nhuận tốt nhất.
Ngoài ra, cần phân tích kỹ lưỡng các khoản mục đầu tư trước khi quyết định đầu tư và cần có bộ phận
thẩm định đầu tư chuyên nghiệp để đánh giá được khoản mục đầu tư nhằm giảm mức thấp nhất các rủi
ro đầu tư.
Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tập trung
Luân chuyển vốn giữa các chi nhánh: Vốn được luân chuyển giữa các chi nhánh thông qua trung
tâm vốn, nơi tập trung toàn bộ nguồn vốn và tài sản của ngân hàng. Trung tâm vốn mua tất cả tài sản
Nợ và bán tất cả tài sản Có cho các chi nhánh.
Tập trung rủi ro thanh khoản về Hội sở: Khi có nhu cầu thanh toán, số dư tiền gửi khách hàng tại
chi nhánh giảm một lượng tương ứng với số dư vốn của chi nhánh tại Trung tâm vốn, chi nhánh không
cần quan tâm đến nguồn vốn để thanh toán.
Tập trung rủi ro lãi suất về Hội sở: Tất cả tài sản và nợ của chi nhánh đều được mua bán căn cứ vào
kỳ hạn, loại tiền với các lãi suất điều chuyển tại ngày phát sinh giao dịch. Từ ngày phát sinh giao dịch
cho đến ngày định giá lại của tài sản hay nợ, chi nhánh luôn được đảm bảo một mức chênh lệch lãi suất
giữa lãi suất áp dụng cho khách hàng và lãi suất chuyển vốn nội bộ. Chi nhánh chỉ quyết định lãi suất
cho vay/nhận gửi sao cho có chênh lệch so với lãi suất điều chuyển vốn nội bộ và không phải quan tâm
đến rủi ro lãi suất mà sẽ do Hội sở chịu trách nhiệm.
Xác định lợi nhuận của chi nhánh: mức đóng góp (lợi nhuận) của chi nhánh được đánh giá một
cách chính xác và khách quan. Tất cả tài sản của chi nhánh đều được định giá, có thể xác định rõ ràng
TẠP CHÍ KINH TẾ - CÔNG NGHIỆP
18
- XUÂN CANH TÝ 2020
chi phí mà chi nhánh phải trả cũng như thu nhập được nhận, từ đó xác định rõ ràng lợi nhuận chi
nhánh.
Sử dụng hiệu quả một cách tập trung Tài sản và Nợ của ngân hàng: tập trung tất cả Tài sản và Nợ
của ngân hàng, cân đối về loại tiền, về kỳ hạn. Không còn tình trạng chi nhánh thiếu vốn nằm trên địa
bàn khó khăn bắt buộc phải huy động với giá cao hoặc các chi nhánh thừa vốn bắt buộc phải cho vay
khách hàng không tốt để tăng dư nợ. Không còn tình trạng chi nhánh tự cân đối nguồn huy động ngắn
hạn cho vay trung dài hạn với lãi suất cao gây rủi ro lãi suất vì chi nhánh có thể tiếp cận nguồn vốn
thông qua Trung tâm vốn bất cứ khi nào có nhu cầu cho vay hoặc đầu tư miễn là khoản mua đó nằm
trong hạn mức cho phép.
Là công cụ điều hành của Hội sở: Hội sở có thể điều tiết, cơ cấu lại bảng tổng kết tài sản để phục vụ
mục tiêu quản lý của mình.
3. Kết luận
Xây dựng NHTM Việt Nam trở thành ngân hàng đa năng, tập trung hóa hoạt động và quyền lực
tại Hội sở, thu hẹp dần chức năng, quy mô hoạt động của các chi nhánh để các chi nhánh hoạt động
trực tuyến như kênh phân phối, còn Hội sở kiểm soát các sản phẩm, kế hoạch tài chính cho từng nhóm
khách hàng thông qua kênh phân phối.
Tài liệu tham khảo
[1] Quốc hội (2010), Luật các tổ chức tín dụng
[2] Quốc hội (2010), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
[3] Hiệp ước vốn Basel (I+II+III)
Ngày nhận: 22/10/2019
Ngày duyệt đăng: 11/12/2019
TẠP CHÍ KINH TẾ - CÔNG NGHIỆP
19
nguon tai.lieu . vn