Xem mẫu

  1. LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG TỪ ĐẦU NĂM 2011 ĐẾN NAY Lãi suất là một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tuỳ thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Một trong những điểm đáng lưu ý về lãi suất trên thị trường Việt Nam từ đầu năm2011 đến nay là lãi suất liên tục tăng cao, đặc biệt là các đợt điều chỉnh liên tiếp các lãi suất chủ đạo từ đó ảnh hưởng đến lãi suất cho vay cũng như lãi suất tiền gửi tại các NH I.DIỄN BIẾN VỀ TÌNH HÌNH LÃI SUẤT TRÊN THỊ TRƯỜNG TỪ ĐẦU NĂM 2011 ĐẾN NAY 1.Lãi suất huy động vốn Trong 6 tháng đầu năm 2011, thị trường tiền tệ có nhiều biến động. Bên cạnh lãi suất huy động thì lãi suất cho vay cũng diễn biến phức tạp. Vào khoảng tháng 3 và tháng 4, NHNN đã rút lượng tiền lớn về thông qua thị trường mở (OMO) đã khiến các ngân hàng nhỏ gặp nhiều khó khăn. Mức trần theo qui định của NHNN là 14% /năm đối với VNĐ nhưng các nhà băng vẫn “đi đêm” huy động với mức trượt từ +-2- +-5% để đảm bảo thanh khoản. Phó Tổng giám đốc của một ngân hàng TMCP cho biết “6 tháng đầu năm nay thị trường rất phức tạp, không cho phép bất kỳ một lơ là nào cả hai đầu vào và ra”. Mặc dù lãi suất cao nhưng tỷ trọng tăng huy động thật sự không cao, theo báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm 2011 của NHNN thì tỷ lệ tăng huy động vốn thấp hơn huy động ngoại tệ. Khảo sát dịch vụ ngân hàng từ tháng 1 đến tháng 6/2011 của Cổng thông tin ngân hàng – Laisuat.vn cho thấy khách hàng quan tâm đến khuyến mãi chiếm tỷ lệ cao nhất. Khi được hỏi “yếu tố nào quyết định bạn chọn ngân hàng giao dịch” trong số 9000 lượt chọn đã có đến 38% chọn “khuyến mãi”. Điều này cho thấy, bên cạnh lãi suất thì các chương trình khuyến mãi, tặng thưởng được đông đảo khách hàng quan tâm.
  2. Khi hỏi về kênh đầu tư hiệu quả, theo chuyên gia kinh tế Đinh Thế Hiển “Xét về các kênh kinh doanh trong 6 tháng đầu năm nay thì gửi tiền ngân hàng hưởng lãi suất là kênh đầu tư tốt nhất”. Và điều này thể hiện rõ thông qua biểu so sánh diễn biến lãi suất giữa 2010 và 2011. So sánh lãi suất huy động trung bình 6 tháng đầu năm 2010 và 2011 (theo tháng)
  3. Lãi suất cao nhất 6 tháng đầu năm 2010 là 9.11%, trong khi đó cao nhất năm 2011 so với cùng kỳ là 13,34%. Lãi suất cao năm 2011 tập trung vào khu vực ngắn hạn, gửi qua đêm, gửi tuần, gửi không kỳ hạn. Dưới đây là lãi suất huy động đồng nội tệ của Việt Nam và các quốc gia khác trong 6 tháng
  4. Ngày 8-9, nhiều ngân hàng (NH) đã đồng loạt rút lãi suất (LS) huy đ ộng về 14%/năm sau khi NH Nhà nước ban hành chỉ thị 02 kiên quy ết x ử lý NH huy động vượt trần. Nhân viên một NH cổ phần chi nhánh Phan Đình Phùng (Q.Phú Nhu ận, TP.HCM) cho biết từ 14g chiều 7-9 LS huy động cao nhất ch ỉ còn 14%/năm áp dụng cho tất cả kỳ hạn, ngoài ra không còn hình thức khuy ến mãi khác. Trong khi đó tại chi nhánh một NH cổ phần lớn, LS được giảm t ừ mức 18,5%/năm trước đó còn 14%/năm. Nếu gửi trên 100 tri ệu đ ồng s ẽ đ ược nh ận quà tặng là mũ bảo hiểm, áo mưa. Nhiều NH còn thận trọng rút h ết các ch ương trình khuyến mãi tặng quà trước đó, trường hợp có duy trì khuy ến mãi thì NH s ẽ áp dụng mức LS huy động thấp hơn mức trần để không vi phạm quy định c ủa NH Nhà nước. Nhiều NH cho biết theo thói quen, nhiều khách hàng đ ến g ửi tiết kiệm vẫn yêu cầu được khuyến mãi hoặc tặng thêm LS, do vậy nhân viên NH ph ải giải thích về chủ trương mới để khách hàng hiểu. Có NH còn niêm y ết thông t ư quy định trần LS của NH Nhà nước ngay tại quầy giao dịch nh ư một hình thức thông báo không thỏa thuận LS. 2.Lãi suất liên ngân hàng Sau một thời gian tăng cao kéo dài, lãi suất bình quân liên ngân hàng đ ối v ới tiền đồng đã liên tục suy giảm. Lãi suất qua đêm ngày 19.5.2011 ch ỉ còn ở m ức 12,43%, giảm 0,69% so với ngày 13.5.2011. Lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 12 tháng giảm 1% xuống mức 12,5%. Trong tháng 6,Lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn vẫn duy trì trên mức 13%/năm . và dao động trong khoảng 13,39 - 13,65%/năm. Theo số liệu vừa công bố của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất bình quân liên ngân hàng các kỳ hạn ngày 8/9 tiếp tục có biến động so với lần cập nhật vào ngày 6/9. Lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn vẫn duy trì trên m ức 13%/năm. Đáng chú ý, lãi su ất liên ngân hàng 6 tháng giảm 1,42% từ 14,92%/năm xuống còn 13,5%/năm. Lãi suất liên ngân hàng 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng cũng giảm từ 0,12 - 0,37% so v ới l ần cập nhật ngày 6/9. Trong đó, lãi suất 2 tuần giảm 0,12% từ 13,71%/năm xuống 13,59%/năm; Lãi suất 1 tháng giảm 0,37% từ 13,95%/năm xuống 13,58%/năm; Lãi suất 3 tháng giảm 0,15% từ 13,69%/năm xuống 13,54%/năm. Ngoài ra, lãi suất qua đêm, 1 tuần tăng nhẹ so v ới tr ước đó. Lãi su ất qua đêm tăng 0,1% từ 13,29%/năm lên 13,39%/năm; Lãi suất 1 tuần tăng 0,27% từ 13,38%/năm lên 13,65% Ngày 8-9, một ngày sau khi Ngân hàng (NH) Nhà nước có chỉ th ị về xử lý lãnh đạo NH huy động vượt trần lãi suất, đã có diễn biến mới, đ ộ nóng c ủa lãi suất huy động chuyển từ giữa NH với người gửi tiền sang gi ữa NH v ới NH.
  5. Khoảng 9g cùng ngày, lãi suất cho vay giữa NH với nhau đ ược c ập nh ật. NH thừa vốn đã đưa ra mức lãi suất cho vay tăng khá mạnh 17-20%/năm tùy thời hạn, trong đó kỳ hạn ngắn lãi suất cao hơn.Nếu trước đây NH bạn đưa lãi suất 19-20% làm họ chuyển sang trả thêm ngoài trần lãi suất đ ể huy đ ộng c ủa dân thì nay phải vay của NH bạn. Mức lãi suất trên 17%/năm là quá cao, không ít NH cần vốn lắc đầu nhưng cũng có NH chấp nhận vay để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. . Có nhiều lý giải khác nhau về nguyên nhân lãi su ất vay gi ữa các NH tăng cao. Có NH nói do một NH cổ phần có vốn nhà nước chi phối - nơi có nhi ều vốn để cho NH bạn vay - đang đáo hạn khoản vay và làm lại th ủ t ục không còn nhi ều vốn để cho vay, nên lãi suất tạm nóng. Những NH cần vốn nói h ọ vẫn không thể tiếp cận nguồn vốn rẻ từ NH Nhà nước, từ đó những NH có vốn t ận dụng việc thực hiện trần lãi suất để cho vay với lãi suất cao. Xu hướng cho vay lãi suất cao giữa các NH đã có vài ngày trước khi có chỉ thị mới về trần lãi su ất huy động. Thời hạn Lãi suất BQ liên NH Lãi suất BQ liên NH Tăng/giả (%năm) ngày (%năm) ngày 13/9/2011 m 6/9/2011 Qua đêm 13,29 12,53 -0,76 1 tuần 13,38 13,06 -0,32 2 tuần 13,71 13,33 -0,38 1 tháng 13,95 13,61 -0,34 3 tháng 13,69 14,09 +0,40 6 tháng 14,92 12,90 -2.02
  6. 12 tháng 13,50 12,00 -1.5 3.Lãi suất tiền gửi VNĐ Lãi suất tiền gửi VNĐ bắt đầu có sự thay đổi bắt đầu từ tháng 3 khi 1 loạt các NHTM nhỏ như seabank, Việt Á, Hàng Hải đã thay đổi mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn từ 2-3% lên đến 6-12% trên năm. Trung tuần tháng 3, lãi suất cho vay VND đã “bỏ xa” mức 20%/năm, doanh nghiêp ̣ ́ ̣ chongmăt Lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu là 14,5%/năm; đối v ới các lĩnh v ực sản xuất kinh doanh khác từ 16-18%/năm; đối với lĩnh vực phi sản xuất từ 18- 22%/năm. Lãi suất cho vay USD tăng khoảng 0,5%/năm, phổ biến ở mức 6-7%/năm đối với ngắn hạn, đối với hạn. 7-8,5%/năm trung và dài Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ nói họ buộc phải thu h ẹp đầu t ư, s ản xu ất c ầm chừng, giảm tối đa vay mượn từ ngân hàng. “Nếu tính lại các hợp đ ồng mà công ty đã vay từ cuối năm 2009 với lãi suất 10,5%/năm thì hiện nay tất cả các hợp đồng này đều bị điều chỉnh suất mức đã lãi lên 18,66%/năm” Lãi suất cho Ngắn Trung, dài vay phục vụ Loại tiền hạn hạn SX - KD 16-16,5 17-18 VND (Trong đó đối với sx nông nghiệp, Nhóm nông thôn và xuất khẩu) 14-14,5 15-16 NHTMNN USD 6,0-6,5 6,5-7,0 17-17,5 17-18 VND (Trong đó đối với sx nông nghiệp, Nhóm nông thôn và xuất khẩu) 14,5-15 16-17 NHTMCP USD 6,0-7,5 7,0-8,5 Kết suất là thúc Quý I/2011: Lãi cho vay bình quân 16,23%/năm Kết thúc Quý I/2011: Lãi suất cho vay bình quân là 16,23%/năm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa cho biêt, trong quý I/2011, lãi suất cho vay đã tăng ́ khoảng 1 - 1,5%/năm và hiện ở mức bình quân 16,23%/năm. Như vậy, lãi suất áp dụng
  7. trong thời điểm này tính ra cao bằng lãi suất năm 2008, th ời đi ểm Vi ệt Nam ch ịu tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, khi lượng tín dụng cho vay gi ảm m ạnh, ti ền mặt trở hiếm. nên khan Tuy nhiên, đại diện một số ngân hàng thương mại cho rằng mức lãi su ất cao hi ện ch ủ yếu chỉ có ở các khoản vay tiêu dùng, mức 20% là khá cao, còn 30% có th ể ch ỉ là cá biệt; người vay chấp nhận khi họ có một khoản thu trong tương lai gần để bù đ ắp. “Với doanh nghiệp, mức 16% - 17% cũng đã khó đối với sự chấp thu ận c ủa h ọ. 20% hay cao hơn nữa thì mấy doanh nghiệp có được khả năng sinh lãi cao h ơn để tr ả n ợ? Với ngân hàng, cũng khó khi cho vay tới 17% - 18%, bởi ph ải th ực s ự cân nh ắc m ức độ rủi ro và xem xét kỹ hiệu quả của dự án vay vốn. Đâu phải cứ lãi suất cao là có lợi, bởi đi cùng với đó là độ rủi ro cao hơn”, một cán bộ tín dụng của Ngân hàng Sài Gòn Nội biết. - Hà (SHB) cho suất đầu giảm Lãi quay Trước sức nóng lãi suất cho vay, ngày 7/4, Thống đốc Ngân hàng Nhà n ước (NHNN) Nguyễn Văn Giàu đã chỉ đạo 16 tổ chức tín dụng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh tính giảm suất nghiệp. toán lãi cho doanh Các ngân hàng bắt đầu xắn tay vào việc cắt giảm lãi suất thỏa thuận để giải quyết bài toán vốn ứ đọng cũng như đẩy mạnh tăng trưởng dư n ợ sau khi ch ững l ại ở quý I/2010. đầu bố suất về Ngân hàng tiên công rút lãi cho vay 12,5% Theo đó, từ ngày 1/7 tới, Vietinbank áp chính sách lãi suất cho vay ngắn h ạn b ằng VND tối đa là 12,5%/năm đối với các doanh nghiệp thuộc 3 nhóm đối tượng: là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, doanh nghi ệp xuất khẩu Trước đó, từ đầu tháng 4/2010, theo tài liệu Ngân hàng Nhà n ước công b ố, m ức lãi suất cho vay VND đối với doanh nghiệp Vietinbank áp dụng t ối đa là 14%/năm, riêng với tín dụng nông nghiệp và xuất khẩu áp tối đa là 13,5%/năm. Như vậy, đây là trường hợp đầu tiên công bố hạ “trần” lãi su ất cho vay đ ối v ới m ột số nhóm đối tượng sau khi các ngân hàng lớn đạt được đồng thu ận vào cu ộc h ọp cu ối tuần qua. Tiếp tục hẹp sản xuất thu cho vay phi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho rằng, với chủ trương gi ảm tốc độ và tỷ trọng cho vay ở lĩnh vực phi sản xuất, nhất là bất động sản và chứng khoán, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng một kịch bản rõ ràng. Theo đó, trong th ời gian t ừ nay đến thời điểm 30/6/2011, các ngân hàng có cơ cấu tỷ trọng cho vay ở lĩnh v ực phi sản xuất chiếm trên 26% tổng dư nợ (24 ngân hàng) phải giảm xuống còn khoảng
  8. 22% và đến cuối năm 2011, tỷ trọng cho vay ở lĩnh vực phi sản xu ất c ủa toàn ngành phải giảm xuống ngân hàng còn 16%. Như vậy, các cá nhân có nhu cầu vay chứng khoán, bất động sản trả góp cũng như cần vốn khi có nhu cầu tiêu dùng khó có thể gõ được cửa các ngân hàng, dù lãi vay ở lĩnh vực sản xuất hiện từ đến phi khá cao, 19,5 22%/năm. Theo số liệu của NHNN chính thức công bố tình hình ti ền tệ, tín d ụng trong tháng 5/2011 được đưa ra ngày (6/6), lãi suất cho vay VND bình quân thực tế kho ảng 18,3%/năm, tăng 3%/năm với cuối năm 2010 .Trong đó, lãi suất cho vay của nhóm NHTM nhà n ước kho ảng 17,3%/năm (cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu khoảng 16,6%/năm, cho vay sản xu ất - kinh doanh khác khoảng 18,5%/năm) Còn lãi suất cho vay tại nhóm NHTM cổ phần 19,7%/năm (cho vay nông nghi ệp, nông thôn và xuất khẩu khoảng 18,7%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh khác kho ảng tình hình mới.tháng 4/2011. Hiện lãi suất cho vay qua đêm ở m ức 13%/năm, lãi su ất cho vay 1 tuần ở mức 15%/năm, lãi suất cho vay 2 tuần - 1 tháng ở mức 18%/năm Ngân hàng (NH) tăng lãi suất đầu vào lên 18% -19%/năm khiến lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh cán mức 21% - 23%/năm làm nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy c ơ đóng cửa. Thị trường 19,2%/năm); chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy đ ộng VND bình quân là 2,9%/năm. Ngày 26/8/2011, NHNN có cuộc họp với lãnh đạo 12 ngân hàng lớn tại Hà Nội về chủ đề giảm lãi suất. Tại cuộc họp này các ngân hàng đã có sự đồng thuận trong việc giảm lãi suất cho vay đối với lĩnh vực sản xuất thông thường xuống còn 17- 19%/năm. Để thực hiện được điều này, NHNN đã ban Thông tư số 22/2011/TT-NHNN trong đó hủy bỏ quy định về tỷ lệ huy động vốn thị trường liên ngân hàng theo Thông tư 13 và 19 năm 2010 Trong thông báo mới đây, NHNN đề cập đến giải pháp cung tiền để đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng nhằm giải lãi suất. Như vậy, có thể thấy bằng cách này hay cách khác NHNN sẽ đưa ra các giải pháp nhằm hạ lãi suất của thị trường. kể từ 12/9/2011, Các NHTM đã đưa ra mức lãi suất 14%/năm đối với sản phẩm “tiền gửi linh hoạt ngày”, áp dụng cho tất cả khách hàng cá nhân lẫn doanh nghiệp với kỳ hạn từ 1-2-3-4-5-6 ngày. Theo đó, sản phẩm này không chỉ giúp khách hàng nhận được mức lãi suất cao và hấp
  9. dẫn mà còn giúp khách hàng linh hoạt trong việc sử dụng nguồn vốn của mình. Mặc dù ngân hàng này cho rằng, đây là sản phẩm đặc thù chỉ có duy nhất trong hệ thống và lần đầu tiên được triển khai, nhưng thực tế, rất nhiều ngân hàng khác đã duy trì mức lãi suất 14%/năm đối với cả tiền gửi thanh toán. Trong khi, tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ lưu lại bất chợt trong hệ thống ngân hàng, thậm chí với thời gian mấy tiếng đồng hồ. Xét về bản chất, mức lãi suất này đã vi phạm chỉ đạo trần lãi suất tiền gửi 14%/năm của Ngân hàng Nhà nước Cụ thể, 14%/năm là lãi suất của năm, nếu quản lý theo dòng tiền “lãi đẻ ra lãi” thì lãi suất của sản phẩm trên đã vượt trần quy định, thậm chí còn lên tới 15% - 16%/năm. Và đó là tiểu xảo để lách trần lãi suất. Điều này đã vi phạm vào nguyên tắc đường cong lãi suất với mức lãi suất này thì việc gửi theo kỳ hạn hay không điều được hưởng các mức lãi suất tương tự nhau. Điều này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến các NHTM lớn gây sức ép lên việc huy động vốn từ các ngân hang này. 4.Lãi suất tiền gửi USD Tiền gửi ở loại hình này cũng không khác gì so với tiền gửi VNĐ các loại hình lãi suất đang tiến lại gần nhau làm cho đường cong lãi suất đang bị kéo thành đường thẳng Việc liên tục ép hạ trần lãi suất tiền gửi USD trong mấy tháng đầu năm đã phát huy tác dụng, rất nhiều người dân đã chuyển tiết kiệm từ USD sang VND để hưởng lãi suất cao hơn. Một số ngân hàng thương mại đã giảm mạnh lãi suất huy động USD (có ngân hàng giảm chỉ còn 0,5%/năm). Tuy nhiên, đến cuối tháng 6, đầu tháng 7, tình hình đã thay đổi. Rất nhiều ngân hàng thương mại kéo thẳng đường cong lãi suất tiền gửi USD từ kỳ hạn 1 tháng đến 13 tháng về cùng mức 2%/năm. Một số ngân hàng thương mại tung ra các chương trình khuyến mãi (tặng quà) để thu hút khách hàng. Hiện tượng lách trần lãi suất huy động USD lại xuất hiện. Bảng niêm yết vẫn đề 2%/năm, nhưng nhân viên trao đổi miệng thì cho biết sẽ trả cho khách từ 3 – 3,5%/năm tuỳ số lượng USD gửi. Diễn biến cho thấy cung – cầu vốn ngoại tệ của các ngân hàng thương mại đang bắt đầu có vấn đề. 5.Lãi suất chợ đen Hiện nay, song song tồn tại cùng với kênh chính thống c ủa các ngân hàng còn có hình thức tín dụng "chợ đen" . Tín dụng đen này tồn tại d ưới nhi ều hình th ức, nh ưng ph ổ
  10. biến hơn cả là kiểu cho vay thế chấp và c ầm c ố đồ đạc v ới vi ệc cá nhân có ti ền nhàn rỗi và chủ các tiệm cầm đồ tiến hành cho vay. Lãi suất giữa ng cho vay và ng đi vay được thỏa thuận ngầm nhưng ph ổ bi ến trong giai đoạn các ngân hàng chạy đua lãi suất tiền lãi cho 1 triêu đồng mỗi ngày là từ 5000- 6000 tức là khoảng từ 180%- 220%. Trên thực tế, dù lãi cao gấp nhiều lần ngân hàng, hình thức này vẫn thu hút một số đối tượng khách hàng nhờ ưu điểm hơn về mặt thủ tục và thời gian so với vay chính thống. Còn trong ngân hàng, lãi suất cho vay tiêu dùng phổ biến 22-25% một năm, vay sản xuất có khi 27%. Thủ tục gắt gao, thẩm định, xét duyệt kỹ càng chính là các yếu tố khiến cho người cần vốn rất khó vay từ nhà băng dù mức lãi suất thấp hơn rất nhiều so với bên ngoài. Đặc biệt là các doanh nghiệp cần vốn để thực hiện hợp đồng hoắc duy trì sản xuất. Họ sẵn sàng trả mức lãi suất cao mặc dù biết rằng lãi ko đủ trả lãi suất nhưng vẫn phải đi vay để không bị nộp phạt hợp đồng. II.NGUYÊN NHÂN KHIẾN LÃI SUẤT CAO Ở VIỆT NAM “Tiền” ngoài giá trị sử dụng (trung gian trao đổi) còn có một giá trị đặc biệt thể hiện qua lãi suất của đồng tiền. Nói một cách dễ hiểu “tiền” chính là một loại hàng hóa còn lãi suất là giá cả của tiền. Cũng như giá bao hàng hóa khác, lãi suất cao hay thấp phụ thuộc vào cung - cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Để can thiệp vào lãi suất thị trường, các ngân hàng trung ương thường tác động về phía cung tiền thông qua các công cụ như thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở hoặc thay đổi lãi suất tái chiết khấu. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, hầu hết ngân hàng trung ương trên thế giới đều hạ lãi suất chiết khấu xuống mức rất thấp, đồng thời mua các giấy tờ có giá để cung tiền ra thị trường nhằm cứu các nền kinh tế khỏi suy giảm và hệ thống tài chính khỏi sụp đổ. Tại Việt Nam vào năm 2009, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng thực hiện các chính sách tương tự. Tiền được bơm vào nền kinh tế thông qua các gói hỗ trợ lãi suất, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và giảm lãi suất tái chiết khấu. Nhờ chính sách này mà lãi suất năm 2009 đã giảm xuống mức khá thấp và kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng khá ấn tượng. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ nới lỏng này đã làm cho tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên đến 37.74% và 2010 lên đến 29.89%. Mức tăng quá cao cùng với sự hấp thụ kém của nền kinh tế là nguyên nhân chính làm cho lạm phát bùng nổ trong thời gian qua. Lạm phát leo thang buộc NNHN phải thực hiện hàng loạt các giải pháp thắt chặt chính sách tiền tệ, điều này đã đẩy lãi suất lên mức rất cao. Lãi suất huy động phổ biến trên thị trường lên tới trên 17%, vượt xa mức trần 14% theo quy định của NHNN. Cùng với lãi suất huy động cao, lãi suất cho vay cũng lên tới trên 20%, thậm chí có những khoản cho vay tiêu dùng lên tới trên 25%. Những diễn biến lãi suất đó không nằm ngoài quy luật cung - cầu tiền trong nền kinh tế. Về phía cung, NHNN siết lại việc bơm tiền vào nền kinh tế, còn nguồn
  11. vốn huy động của các ngân hàng sụt giảm mạnh do lạm phát quá cao. Hiện nay, lãi suất tái chiết khấu đang ở mức 13%, còn lãi suất tái cấp vốn và lãi suất OMO ở mức 14%. Tính đến 20/07/2011, huy động toàn vốn của các ngân hàng chỉ tăng 3.96%. Đây là mức rất thấp, so với tăng trưởng tín dụng và mức tăng của những khoảng thời gian trước đó dù cho lãi suất huy động vượt xa mức trần. Nhìn về phía cầu ta thấy, với một tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế luôn ở mức trên 40% so với GDP làm cho phía cầu tiền trong nền kinh tế Việt Nam luôn duy trì ở mức rất cao. Nguồn vốn, tích lũy được thông qua tiết kiệm khá thấp khiến cho các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào vốn vay. Tín dụng tính từ đầu năm đến ngày 20/7/2011 tăng 7.57%, vượt xa tăng trưởng huy động. Nguồn vốn khan hiếm và lãi suất cao khiến nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn và đứng trước nguy cơ phá sản. Cùng với đó nợ xấu của ngân hàng cũng có chiều hướng tăng lên do không thu hồi được nợ. Tóm lại, nguyên nhân khiến lãi suất tại Việt Nam đang ở mức quá cao chính là do cầu tiền lớn. Đây là yếu tố có tính lịch sử và cơ cấu khi mà tỷ lệ đầu tư luôn duy trì ở mức rất cao (thường trên 40% so với GDP). Trong khi đó những tháng vừa qua NHNN đã hạn chế bơm tiền ra nền kinh tế thông qua việc tăng các lãi suất chính sách; tiền gửi từ các tổ chức dân cư cũng sụt giảm do lạm phát quá cao khiến cho việc gửi tiền vào ngân hàng không còn hấp dẫn. Sở dĩ lãi suất tại Việt Nam cao hơn phần lớn các nước khác và kéo dài là do cơ cấu kém hiệu quả của nền kinh tế. So sánh một cách hình tượng, xem nền kinh tế như một cỗ máy thì tiền chính là nguyên liệu để vận hành nền kinh tế đó. Cỗ máy kinh tế Việt Nam do tồn tại nhiều chi tiết chưa hoàn hảo và không đồng bộ dẫn đến việc tiêu thụ quá nhiều nhiên liệu trong khi hiệu suất không cao khiến tạo ra chất thải là lãi suất quá cao. III.ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT ĐẾN NỀN KINH TẾ Lãi suất biến động liên tục trong thời gian qua,đã tác động vào mọi mặt của nền kinh tế đặc biệt là đối với các doanh nghiệp và thị trường chứng khoán…. 1.Đối với các doanh nghiệp Mối bận tâm thường trực đối với doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng là vốn. dù tiếp cận vốn từ ngân hàng rất khó khăn, song đây vẫn là kênh chính khi có đến 74,47% doanh nghiệp hướng tới, trong khi các kênh khác chưa được sử dụng hiệu quả. Theo VCCI, không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ cho rằng, lý do chính khiến họ khó tiếp cận vốn là do thủ tục ngân hàng đặt ra là “quá sức” đối với họ. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có 1/3 doanh nghiệp hiện không tiếp cận được vốn ngân hàng. Hiện tại, mức lãi suất trần huy động vốn của Ngân hàng Nhà nước quy định đối với các ngân hàng thương mại là 14%/năm, lãi suất cho vay trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh xê dịch khoảng 17-18%/năm. Song, vì phải chạy đua cạnh tranh huy động vốn,
  12. nên các ngân hàng thương mại đã "phá rào", đẩy lãi suất huy động vốn lên từ 15 -19%/năm, tuỳ vào thời điểm và số lượng tiền gửi. Điều này đồng nghĩa với việc lãi suất cho vay ra từ các ngân hàng có thể bị đẩy lên 20 - 22%. Một số ngân hàng còn tự đặt ra nhiều loại phí, khiến mức lãi suất thật mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải vay có thể lên tới 27%. Dẫn tới không ít doanh nghiệp không dám vay vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Tổng giám đốc một doanh nghiệp mây tre (Hà Tây) cho biết: "Chưa ở nước nào mà các doanh nghiệp lại phải chịu đựng một mức lãi suất cao khủng khiếp như ở Việt Nam. Tỷ suất lợi nhuận thì cố định, nếu cứ nhắm mắt vay để kinh doanh mà có lãi là điều vô lý". Ông Nguyễn Hải Sơn - Tổng Giám đốc Doanh nghiệp Ông già KIA, một thương hi ệu đang có tiếng trên thị trường hiện nay, chuyên sản xuất chế biến hàng thực phẩm cho biết: Tình trạng khó tiếp cận vốn không chỉ rơi vào những doanh nghiệp không có tài sản thế chấp, nợ quá hạn chưa trả hết, tình hình tài chính thiếu minh bạch… mà ngay cả những doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ tiêu chí vẫn khó vay vì ngân hàng viện lý do bị khống chế tăng trưởng tín dụng. Giám đốc một doanh nghiệp sản xuất xi măng có tiếng tại Hải Phòng cho hay: Từ đầu tháng đến nay ngân hàng đang gọi đến để giải ngân khoản vay 45 tỷ đồng để phát triển sản xuất với lãi suất 20% (trong đó có 2,5% được hưởng hỗ trợ lãi suất) nhưng doanh nghiệp không dám vay vì trong tình trạng các công ty xây dựng, san nền đều đang khó khăn về vốn nên không mở rộng sản xuất. "Nếu vay tiền nhiều, sản xuất ra xi măng không bán được thì lấy đâu tiền để trả lãi" - vị giám đốc này cho biết. Xoay quanh vấn đề lãi suất cho vay hiện đang rất cao, vượt xa sức chịu đựng của doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành nhấn mạnh: Việc hạ lãi suất là một việc làm cấp thiết nhất thời điểm này để giảm bớt áp lực cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản suất. Ngân hàng Nhà nước với "quyền năng" của mình, phải đặt mục tiêu hạ lãi suất cho ngân hàng thương mại vay thì mới giúp lãi suất trên thị trường giảm xuống được. 2.Đối với thị trường chứng khoán Biến động của lãi suất trên thị trường tiền tệ tuy có tác động gián ti ếp nhưng rất nhạy cảm đến thị trường chứng khoán. Lãi suất tăng sẽ thu hút nhu c ầu gửi ti ền vào h ệ thống ngân hàng vì mức sinh lời khi gửi tiền tăng, khiến cho dòng ti ền đ ổ vào th ị trường chứng khoán bị ảnh hưởng. Lãi suất tăng cũng khiến cho lợi suất kỳ vọng trên thị trường chứng khoán phải tăng (nhà đầu tư đòi hỏi lợi suất đầu tư ch ứng khoán cao hơn). Trong bối cảnh này, giá thị trường của trái phiếu sẽ bị sụt giảm. Mặt khác, lãi suất trong nước tăng cũng có tác dụng thu hút lu ồng ngo ại t ệ đ ổ vào, gián tiếp giúp đồng nội tệ tăng giá và do v ậy tác đ ộng làm gi ảm t ỷ giá h ối đoái.
  13. Các doanh nghiệp xuất khẩu trong bối cảnh này sẽ gặp phải khó khăn do hàng hóa xuất khẩu bị đắt lên, đồng thời trước đó đã chịu thêm chi phí vốn vay do lãi su ất tăng. Hệ quả là doanh thu của các doanh nghiệp này bị ảnh hưởng, dẫn đến kỳ vọng vào lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp bị ảnh hưởng, làm giá c ổ phiếu doanh nghi ệp trên thị trường sa sút. Tuy nhiên, đối với nhóm doanh nghiệp phải nhập khẩu phần l ớn nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất kinh doanh, thì bối cảnh trên lại là lợi thế cho họ. Tuy nhiên do ảnh hưởng của chi phí vốn vay tăng lên, phần lợi thế này có nguy cơ bị triệt tiêu. Trên cơ sở phân tích tác động của các loại lãi suất đối với nền kinh tế nói chung và với các nhóm doanh nghiệp nói riêng, nhà phân tích sẽ xác đ ịnh đ ược b ối c ảnh tích cực hay tiêu cực cho môi trường đầu tư cũng như khả năng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết. IV.TÍNH BỀN VỮNG CỦA VIỆC GIẢM LÃI SUẤT HIỆN NAY Theo cách nhìn nhận của TS. Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia.Nó phụ thuộc vào 4 yếu tố. Thứ nhất là đầu ra, tức nguồn vốn đó có vào đúng chỗ không, sự thống nhất và mức độ của ngân hàng có giống nhau không, sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước số tiền đó có vào đúng chỗ không. Ví dụ ngân hàng thương mại tuyên bố cho vay mức này mức kia nhưng lại “nèo” câu đằng sau là ưu tiên cho khách hàng tốt, nhưng ưu tiên này là cho khách hàng ruột, khách hàng có nhiều lợi ích gắn bó với nhau, ăn cánh với nhau thì số ấy có thể sẽ có nhưng có thể sẽ không vào đúng chỗ. Số lượng đưa ra thế nhưng ngân hàng lại nói doanh nghiệp không đủ tiêu chuẩn, không đủ thủ tục, không đủ điều kiện, mà những thủ tục, điều kiện với ngân hàng thì không ai kiểm soát nổi. Vì thế ngân hàng phải coi đây là trách nhiệm phải làm thì mới hy vọng đưa đúng, đưa đủ. Thứ hai là đầu vào 14% phải làm kiên quyết. Chứ ngân hàng không có vốn cứ phải cộng thêm, hôm nay lãi suất ngày 14%, mai lãi suất 16% thì sẽ vượt 14% thôi. Nên cái 14% là phải có tiêu chí rõ ràng. Ngoài ra, nếu khả năng thanh toán của một số ngân hàng không được tiếp sức mà gạt một mặt bằng huy động như nhau thì phần không huy động được rơi toàn bộ vào ngân hàng nhỏ. Thì ngân hàng nhỏ càng chết. Lúc đó ngân hàng này lại ra thị trường đi đêm đi hôm các kiểu. Thứ ba là có quản lý được tỷ lệ cho vay vào nông nghiệp, nông thông, cho doanh nghiệp nhỏ, cho xuất khẩu là bao nhiêu. Nếu chỉ tuyên bố 17 - 18% là cho ba đối tượng này, còn các đối tượng khác là tự do, vẫn là thỏa thuận, thì khoản 17 - 19% phải quản lý chặt chẽ ngay từ đầu. Thứ tư, hiện có nhiều ngân hàng đã vay lãi suất quá cao trước rồi, 20 - 21% huy động, mà bây giờ cắt ngang cái thì lại là vấn đề nữa. Ngược lại, những khoản cho vay cao
  14. trước đó này cũng phải tính điều chỉnh theo xu hướng thị trường chứ. Lãi suất đầu vào giờ xuống thấp thì anh phải giảm cho tôi, phải sòng phẳng, minh bạch thì mới được. V.DỰ BÁO TÌNH HÌNH LÃI SUẤT CÁC THÁNG CUỐI NĂM Lãi suất cuối năm sẽ vẫn duy trì ở mức cao Với khả năng nới lỏng cung tiền do dư địa tín dụng còn lớn, mặt bằng lãi suất có khả năng sẽ giảm. Vấn đề đặt ra là tăng trưởng tín dụng sẽ ở mức nào và lãi suất có giảm sâu trong nửa cuối năm 2011? Lãi suất hiện là chủ đề nóng và được sự quan tâm của các doanh nghiệp, giới đầu tư chứng khoán… bởi những tác động tiêu cực của nó trong những tháng đầu năm 2011. Sự giảm tốc ấn tượng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 trong cả nước đã đem lại hy vọng lớn về sự hạ nhiệt của lãi suất trong những tháng cuối năm 2011. Hiện đang có hai luồng ý kiến trái chiều về kỳ vọng lãi suất những tháng cuối năm 2011. Theo một số chuyên gia kinh tế, xu hướng giảm của chỉ số giá tiêu dùng cùng với khả năng nới lỏng của chính sách tiền tệ do dư địa tín dụng còn khá lớn sẽ hạ nhiệt mặt bằng lãi suất. Tuy nhiên, theo ông Ayumi Konishi – Giám đốc Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại Việt Nam, lãi suất ngân hàng sẽ khó có khả năng hạ trong năm nay. Những lý do được đưa ra là lạm phát tuy có xu hướng giảm nhưng chưa ổn định, lạm phát kỳ vọng còn cao và đặc biệt là bài học năm 2010 cho việc đánh đổi giữa lãi suất và lạm phát vẫn còn nguyên giá trị. Theo lý thuyết, lãi suất được xác định tại mỗi thời điểm dựa trên sự cân bằng giữa cung và cầu tiền thực. Như vậy, với khả năng nới lỏng cung tiền do dư địa tín dụng còn lớn, mặt bằng lãi suất có khả năng sẽ giảm. Vấn đề đặt ra ở đây là tăng trưởng tín dụng sẽ ở mức nào và lãi suất có giảm sâu trong nửa cuối năm 2011? Thời gian gần đây đã xuất hiện một số dấu hiệu tích cực về sự hạ nhiệt của mặt bằng lãi suất. Lãi suất liên ngân hàng trong những tuần qua ổn định ở mức trên 13% đối với các kỳ hạn 2 tuần, 3 tháng, 12 tháng và giảm mạnh xuống mức 11% đối với những khoản vay qua đêm. Bên cạnh đó, lãi suất trái phiếu chính phủ (TPCP) trong tháng 6 đã liên tục hạ nhiệt sau khi đạt đến mức cao 13.3%/năm vào cuối tháng 5 và lãi suất TPCP kỳ hạn 1 năm hiện đang ở mức 12%. Một điểm đáng chú ý nữa là lãi suất cho vay VND bình quân thực tế chỉ còn khoảng 18.74%/năm, thay vì 20-21.5%/năm như trước. Tuy nhiên, thị trường tiền tệ hiện vẫn tồn tại những dấu hiệu tiêu cực. Tính đến 10/6, tốc độ tăng trưởng huy động vốn chỉ tăng 2.37%, trong đó huy động bằng VND tăng 1.15% so với cuối năm 2010, vẫn thấp hơn tăng trưởng tín dụng ở mức 7.05% Thêm vào đó, tăng trưởng tín dụng những tháng cuối năm có thể tiếp tục bị hạn chế để phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát. Điều này được rút ra từ bài học năm 2010.
  15. So với cuối năm 2009, khi NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách tăng trưởng tín dụng từ 10.5% ở tháng 6/2010 lên đến gần 30% vào cuối năm 2010, và kết quả là CPI tháng 12/2010 đã tăng lên mức 11.75% từ con số 4.78% ở tháng 6. Thực tế, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu cũng cho biết chính sách tiền tệ sẽ được điều hành linh hoạt để góp phần giảm lãi suất khi lạm phát hạ nhiệt. Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát vẫn được kiên trì thực hiện và không để xảy ra tình trạng nới lỏng chính sách tiền tệ như những tháng cuối năm 2010. Có thể dự báo mặt bằng lãi suất sẽ hạ nhiệt nhưng không mạnh và vẫn duy trì ở mức cao trong nửa cuối năm 2011. Việc hạ lãi suất này cũng chưa phải là một yếu tố có tính chất bền vững vì những rủi ro khác trong nền kinh tế vẫn còn đó
nguon tai.lieu . vn