Xem mẫu

  1. Là Ngà Công dụng: Đây là loài tre đa tác dụng. Măng tre để ăn, lá làm thức ăn gia súc, hạt tre khuy để chống đói, thân dùng xây dựng nhà cửa và làm các đồ gia dụng. Tre là ngà còn được trồng để chắn gió, chắn sóng, chống xói lở bờ nước. Trong xây dựng là ngà là loài tre được ưa chuộng nhất vì thân tre rất khoẻ và bền. Một số nơi thân còn được dùng làm bè mảng để chở gỗ theo đường thuỷ. Gần đây, là ngà được dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy. Thân non có phủ lớp sáp trắng dày (tới 0,25% trọng lượng thân). Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng để làm xi đánh giày, và sản xuất giấy carbon ở Ấn Độ. Lá tre được sử dụng làm thuốc ở nhiều nước. Một số đặc tính của thân tre: Kích thước sợi: chiều dài 1,73- 2,52mm; đường kính 16,34-22,0 µm; đường kính khoang 4,93-7,44 µm; chiều dày vách 5,37-8,0 µm. Tỉ trọng của thân tươi (độ ẩm 104,1%): 438kg/m3. Thành phần hoá học: holocellulose: 58- 67%; pentosan: 20%; hgnin: 22-30%; tro: 3-5%; silic: 3- 4%. Trong 100 gam măng (phần ăn được) có chứa: 87-88g nước; 3,9-4,4g protein; 0,5g chất béo; 5,5g hydrat
  2. cacbon; 1g chất sơ; 1g tro; 20-24mg Ca; 40-65mg P,O; 1-0,4 mg sắt, 76 IU vitamine A; 0,16mg vitamin B1; 0,05mg vitamine B2; 0,3-0,5mg vitamine C. Giá trị nhiệt lượng khoảng 185kj/100g. Tuy vậy, trong măng tươi còn chứa 0,03% HCN, là một chất độc, nhưng nó sẽ bị loại trừ sau khi luộc kỹ. Thành phần hoá học trong 100g lá khô: 19% protein; 24% chất xơ; 12% tro; 41% N tự do; 56mg Ca và 170mg P. Thành phần hoá học của hạt (quả dĩnh): 8g nước; 13,5g protein; 73g hydrat carbon; 1g chất xơ; 0,4g chất béo; 1,7g chất tro; 87mg Ca; 163mg P. Trọng lượng 1000 hạt tre là ngà nặng khoảng 11,6g. Do cây chịu được ngập lâu ngày nên là ngà được coi là loài tre chống xói lở ven sông, hồ tốt nhất, còn hơn cả loài tre gai (Bambusa blumeana). Gốc bụi tre là ngà luôn luôn có những cành mang gai cứng dày đặc bao phủ, nên tre là ngà cũng là cây tốt nhất khi trồng làm hàng rào để bảo vệ đặc biệt là chống thú rừng. Hình thái: Cây mọc thành bụi có gai dày đặc. Thân thẳng, cao tới 30m, đường kính 15- 18cm; vách rất dày; lóng dài 20-40cm, màu xanh nhạt; đốt hơi phồng, những đốt phía gốc có rễ khí sinh. Cành phát triền ngay từ gốc, các
  3. cành phía dưới vươn dài, có dạng gai và mang nhiều gai cong, tạo thành một búi tre dày đặc, không thể đi qua được; các cành phía trên mang lá, nằm ngang hay hơi chếch và có nhiều gai nhỏ hoặc không gai. Các gai thường tập hợp 3 cái một. Bẹ mo dài 15-35cm, rộng 18-30cm, chất da, đỉnh gấp nếp, có lông nâu khi non, nhẵn khi già, sớm rụng khi các cành xuất hiện; thìa lìa dính liền với đầu bẹ mo, cao 2mm, có lông mi xám; phiến mo lật ra ngoài, bền, ngắn hơn bẹ mo, hình tam giác, đáy men theo đầu bẹ mo và nhăn nheo, nối liền với tai mo. Chỉ phần nhăn nheo là có lông mềm màu nâu. Lá hình mác - hình đường, kích thước 6- 22 x 1-3cm, nhẵn, mặt dưới màu lục nhạt; thìa lìa ngắn, nguyên, tai lá nhỏ, mép có vài sợi lông mi cứng. Cụm hoa đầu tiên mọc ở ngọn các cành có lá, sau tập hợp thành các chùm nhỏ với nhiều bông nhỏ ở lóng các cành không mang lá. Bông nhỏ hình mác, dài khoảng 2cm, với 2 mày trồng, 3-7 hoa hữu thụ (những hoa ở gốc lưỡng tính, hoa phía trên là hoa đực) và 1-3 hoa bất thụ. Quả dĩnh hình bầu dục, dài 4-8mm. Phân bố: - Việt Nam: Tre là ngà phân bố từ Quảng Nam trở vào. Tập trung nhất là ở ven các sông vùng Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng) và Đông Nam Bộ, (Đồng Nai, Bình Long, Bình Phước), đặc biệt mọc dày đặc ở ven sông Đồng Nai và quanh các bàu nước của VQG Cát Tiên.
  4. Tại tỉnh Đồng Nai có con sông mang tên loài tre này, sông "Là ngà". Tre là ngà cũng đã được trồng ở Vườn tre thuộc Trung tâm thực nghiệm Cầu Hai (tỉnh Phú Thọ). - Thế giới: Cây phân bố phổ biến ở các nước vùng Nam và Đông Nam Á, tập trung nhất ở các nước Đông Dương, Thái Lan và miền Nam Trung Quốc. Đặc điểm sinh học: Đây là loài tre ưa sáng và ẩm, nên thường phân bố ven các sông suối và quanh các đầm hồ tự nhiên ở vùng nhiệt đới. Độ cao phân bố của cây không quá 800m, thích hợp nhất ở 50-400m so với mặt biển. Tre là ngà cũng không chịu được lạnh nên không gặp ở các tỉnh phía Bắc từ Thừa Thiên-Huế trở ra. Trong các kiểu rừng kín thường xanh không gặp loài này vì nó không chịu được bóng, nhưng cũng ít gặp trong rừng thưa rụng lá vì nó không chịu được khô hạn. Kiểu rừng thường gặp tre là ngà là rừng nửa rụng lá với loài bằng lăng ưu thế. Cũng như tre gai, tre là ngà chịu ngập nước trong một giai đoạn dài nên nó tồn tại được ở các vùng lũ và vùng bị ngập mưa. Các rặng tre là ngà ven sông Đồng Nai và quanh các bầu nước của VQG Cát Tiên thể hiện rõ đặc điểm chịu ngập của loài tre này. Đất phù sa và đất bồi tụ ven sông suối, dưới chân núi, với tầng đất sâu dày, độ ẩm cao rất thích hợp với
  5. loài tre là ngà. Cây có hiện tượng khuy, ra hoa, kết hạt và chết cả bụi cây. Năm 2001-2003, các rặng tre là ngà ven sông Đồng Nai bị khuy và chết hàng loạt. Chu kỳ khuy khoảng 30 năm (giao động từ 16-45 năm, tuỳ từng vùng). Sau khi khuy, nếu bảo vệ đất rừng tốt, không bị lửa rừng và không thay đổi mục đích sử dụng, rừng tre là ngà tái sinh từ hạt sẽ phục hồi nhanh chóng.
nguon tai.lieu . vn