- Trang Chủ
- Lịch sử - Văn hoá
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của sự kiện Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước: Phần 2
Xem mẫu
- ĐƯỜNG KÁCH MỆNH ‐ TÁC PHẨM MANG SỨ MỆNH
QUAN TRỌNG SAU HÀNH TRÌNH 15 NĂM TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH
TS. BÙI THỊ NGỌC TRANG
Phó Giám đốc Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 5/6/1911, từ Cảng Sài Gòn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ấy với tên
gọi Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình ra nước ngoài tìm đường cứu
nước. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử đấu tranh vì sự
sinh tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. 15 năm sau, Nguyễn Tất Thành
Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức 3 lớp huấn luyện chính trị cho 75 thanh niên ưu tú
của Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của
Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông đã tập hợp những bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc thành cuốn sách với tên gọi Đường Kách mệnh và bí mật
chuyển về trong nước. Tác phẩm Đường Kách mệnh đánh dấu một bước ngoặt
trong hành trình tư tưởng của Nguyễn Tất Thành Nguyễn Ái Quốc đến với chủ
nghĩa MácLênin là minh chứng của sự giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa,
sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc. Đường Kách
mệnh được xem là tác phẩm đầu tiên truyền bá chủ nghĩa MácLênin vào Việt
Nam và mãi là “cuốn sách giáo khoa về chủ nghĩa cộng sản đối với những người
cách mạng Việt Nam” từ đầu thế kỷ XX cho đến mai sau.
Ngày 1/10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1426/QĐTTg
phê duyệt công nhận 5 tác phẩm của Hồ Chí Minh nằm trong danh mục 30 Bảo
vật quốc gia1, trong đó có Đường Kách mệnh.
Về hình thức, tác phẩm được kết cấu khác biệt: Không đánh số trang từ đầu
cho đến hết tác phẩm mà đánh số trang theo từng phần; tác phẩm được phân
theo vấn đề, có tất cả 15 vấn đề: (1) Tư cách một người cách mệnh; (2) Vì sao
phải viết sách này?; (3) Cách mệnh; (4) Lịch sử cách mệnh Mỹ; (5) Cách mệnh
Pháp; (6) Lịch sử cách mệnh Nga; (7) Quốc tế; (8) Phụ nữ quốc tế; (9) Công
__________
1. 05 tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công nhận là Bảo vật quốc gia: Đường Kách
mệnh, Nhật ký trong tù, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước,
Di chúc.
444
- nhân quốc tế; (10) Cộng sản thanh niên quốc tế; (11) Quốc tế giúp đỡ; (12)
Quốc tế cứu tế đỏ; (13) Cách tổ chức công hội; (14) Tổ chức dân cày; (15) Hợp
tác xã.
Nội dung tác phẩm bao hàm ba vấn đề cơ bản: Những vấn đề lý luận chung
về cách mạng xã hội; Các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới với những kết
quả và bài học rút ra cho cách mạng Việt Nam; Phương pháp tổ chức và hoạt
động cách mạng.
1. Đường Kách mệnh là một đáp án vĩ đại cho đề bài mà vận mệnh dân tộc
đã đặt ra cho Nguyễn Ái Quốc khi Người khởi hành ra nước ngoài: “Sau khi
xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”1. Những “ẩn số”
quan trọng đã được Người “giải mã”.
Tác phẩm Đường Kách mệnh đã được Người nghiên cứu, đúc kết từ lịch
sử và tình hình thực tiễn xã hội của các nước đế quốc và thuộc địa của các
nước đế quốc mà Người đã có dịp đi qua trong hành trình 15 năm, từ
năm1911 đến năm 1925.
Nguyễn Ái Quốc đã dày công nghiên cứu và giới thiệu để người đọc trong
nước biết trên thế giới lúc bấy giờ có nhiều điều mà “An Nam chưa có”, cụ thể:
“Ngày nay nước nào cũng có thanh niên cộng sản. Chỉ An Nam là chưa”2.
Người chỉ ra những việc cần thiết nhiều nước đã làm và những việc cách
mạng Việt Nam nên làm: “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia
mới thành công, mà nữ giới An Nam muốn cách mệnh thì phải theo Phụ nữ
Quốc tế chỉ bảo”3; “nếu thợ thuyền An Nam biết tổ chức thì chắc Quốc tế đỏ sẽ
hết lòng giúp cho mà làm cách mệnh. Nhưng muốn người ta giúp cho, thì trước
mình phải tự giúp lấy mình đã”4.
Cùng với đó, Người cũng chỉ ra nguyên nhân vì sao nhân dân Việt Nam
vẫn chưa biết đến những điều bổ ích trên thế giới lúc bấy giờ. Bằng những từ
ngữ mộc mạc, chân phương nhưng đanh thép và đầy động lực, Người đã thức
tỉnh nhân dân: “Lý luận và lịch sử cách mệnh có nhiều sách lắm. Pháp nó sợ,
nên cấm chúng ta học, cấm chúng ta xem”.”Pháp sợ Quốc tế làm cho dân ta biết
cách thân ái và liên hợp của vô sản giai cấp trong thế giới; Nó sợ tuyên truyền
cách mệnh cho nên nó hết sức giấu dân ta không cho biết rằng trong thế giới có
một hội như thế và ngăn trở Quốc tế ấy lọt vào đến An Nam. Cái gì Pháp ghét,
tất là có ích cho An Nam”5.
Với tư duy khoa học, sự cẩn trọng đối với một việc “to tát”, Nguyễn Ái
Quốc đã khảo sát thực tiễn, so sánh, đánh giá để đưa ra kết luận cho mục đích
__________
1. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 1, tr. 28.
2. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 64.
3. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 55.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 320.
5. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 68.
445
- nghiên cứu của mình tìm hướng đi đúng cho dân tộc. Người viết: “Mỹ tuy rằng
cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ,
vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư
bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”1.
“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà
nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi
vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”2.
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành
công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng
thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại
ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh
để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”3.
Với tinh thần nghiêm túc, Nguyễn Ái Quốc xem xét sự việc một cách biện
chứng khách quan và thực hành lời dạy của ông cha: “Thất bại là mẹ thành
công”, từ thất bại của các cuộc cách mạng trên thế giới, Người đã chỉ ra những
bài học kinh nghiệm quí báu cho cách mạng Việt Nam: “Cách mệnh Pháp dạy
cho chúng ta: 1. Dân chúng công nông là gốc cách mệnh. 2. Cách mệnh thì phải
có tổ chức rất vững bền mới thành công. 3. Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc
cách mệnh được nhiều. 4. Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng
không chống lại. 5. Cách mệnh Pháp hy sinh rất nhiều người mà không sợ; ta
muốn làm cách mệnh thì cũng không nên sợ phải hy sinh”4.
“Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công
thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền
gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lênin”. “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những
đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa
(như Đệ tam quốc tế)5.
2. Đường Kách mệnh là cẩm nang soi đường dẫn lối cho con thuyền cách
mạng của dân tộc Việt Nam thoát khỏi “đêm trường đen tối”; Là ánh sáng
giác ngộ, thức tỉnh nhân dân Việt Nam thoát khỏi u mê; Là sự chuẩn bị về tư
tưởng cho sự ra đời của một Đảng cách mệnh ở Việt Nam sau này vào mùa
xuân năm 1930.
__________
1. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 23.
2. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 30.
3. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 40.
4. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 30.
5. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 41.
446
- Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc đã vẽ ra đường đi đúng đắn và dẫn dắt cả dân
tộc cùng đi từng bước, từng bước một, thật cẩn thận, tỉ mỉ. Người chỉ ra nguyên
nhân cho biết rõ vì sao dân tộc Việt Nam chìm trong “đêm trường nô lệ”: “Tụi
tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy tôn giáo và văn hóa làm cho dân ngu, lấy
phép luật buộc dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân
tham. Nó làm cho dân nghe đến 2 chữ cách mệnh thì sợ rùng mình. Dân khổ quá
hay làm bạo động, … không có chủ nghĩa, không có kế hoạch, đến nỗi thất bại
mãi. Dân vì không hiểu tình thế trong thế giới, không biết so sánh, không có
mưu chước, chưa nên làm đã làm, khi nên làm lại không làm. Dân thường chia
rẽ phái này bọn kia… nên nỗi yếu sức đi, như đũa mỗi chiếc mỗi nơi”1.
Từ đó, Người vạch ra đường đi, nước bước cho cách mạng Việt Nam:
“cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ… phải giảng giải lý luận và chủ
nghĩa cho dân hiểu… phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho
dân… sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh”2.
Các cụm từ “Đảng cách mệnh”, “theo chủ nghĩa chân chính” được Nguyễn
Ái Quốc nhấn mạnh vì đó chính là “cẩm nang” là “trí khôn” mà người cách
mệnh cần phải có để cùng nhau đứng vững trên con thuyền cách mệnh: “Trước
hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”3.
Thêm vào đó, Nguyễn Ái Quốc ví sự nghiệp cách mạng Việt Nam như con
thuyền lớn đang đi giữa sóng to gió cả mà Đảng cách mạng được giao trách
nhiệm là người cầm lái. Do đó, muốn đưa con thuyền cách mạng của dân tộc đi
đến bến bờ độc lập, tự do thì Đảng cách mạng cần có “chủ nghĩa chân chính”
làm “la bàn” định hướng và tất cả mọi người trên con thuyền đó phải tin và đi
theo hướng kim chỉ nam đã định hình trên la bàn: “Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có
bàn chỉ nam”4.
Trong hành trình gần 15 năm tìm kiếm học hỏi, Nguyễn Ái Quốc đã tận
mắt chứng kiến thực tiễn đời sống khổ cực, bần cùng của những người nô lệ ở
các thuộc địa và những người dân lao động ở các nước tư bản như: nước Pháp,
Mỹ… Do đó, khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, sau quá trình khảo
sát, tìm tòi Nguyễn Ái Quốc đã quyết định lựa chọn học thuyết của chủ nghĩa
MácLênin cho cách mạng Việt Nam: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
__________
1. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 1920.
2. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 1920.
3. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 40.
4. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 20.
447
- nghĩa Lênin”1 . Để rồi hơn 100 năm qua, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
chứng minh sự lựa chọn của Người là hoàn toàn đúng đắn.
3. Đường Kách mệnh là pho sách quí về đạo đức cách mạng, khẳng định
vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng đối với sự nghiệp cách mạng của dân
tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; sức mạnh của đạo đức cách
mạng đối với người cách mạng, là nội lực quan trọng cho mỗi cán bộ, đảng viên.
Nguyễn Ái Quốc xác định: “Cách mạng là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá
cái xấu đổi ra cái tốt”2. Mặc dù, đơn giản, ngắn gọn chỉ bằng một câu nhưng
hàm ý lại rất sâu sắc, đó là: chỉ có người thật sự đức hạnh mới có đủ năng lực
phá bỏ cái cũ xấu xa, mới có đủ khả năng để làm cho cái mới tốt đẹp nảy sinh,
tồn tại, phát triển.
Do vậy, mở đầu cuốn sách bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên cho cách mạng
Việt Nam theo học thuyết MácLênin, Nguyễn Ái Quốc xác định chuẩn mực đạo
đức của những người tham gia trực tiếp vào sự nghiệp đầy gian khổ, hy sinh,
nhưng vẻ vang của dân tộc, về “Tư cách một người cách mệnh”:
“Tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn
thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem
xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ
chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật. Đối người
phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ
cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét
hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”3.
23 tiêu chuẩn, quy tụ trong ba mối quan hệ cơ bản của mỗi cá nhân được
Nguyễn Ái Quốc xác định là “tư cách một người cách mệnh” đã tạo thành giá trị
về nhân cách của một người làm cách mạng chân chính một hình mẫu người
cách mạng cao quý hiện diện trong phong trào cách mạng của dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng và ngày càng cần xuất hiện nhiều hơn thông qua việc tiếp tục
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây
được xem là căn cốt quan trọng để người cách mệnh hoàn thành mục tiêu. Hay
nói cách khác, với Nguyễn Ái Quốc, người cán bộ cách mạng trước hết phải có
cái đức mới làm được việc, nhất là làm việc đại sự như là làm cách mạng thì
trước hết càng phải rèn cái đức. Vì vậy, Người cho rằng giáo dục đạo đức là một
trong những vấn đề sống còn của cách mạng; không phải ngẫu nhiên mà giáo
dục đạo đức cách mạng là việc Người làm đầu tiên, làm thường xuyên và trước
lúc đi xa, Người cũng không quên nhắn nhủ trong bản Di chúc của mình.
Những giá trị đạo đức của người cách mạng “Tư cách một người cách
__________
1. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 20.
2. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 13.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 280281.
448
- mệnh” là sự đúc kết từ giá trị của đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
với những đức tính cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được tôi luyện trên
hành trình đi tìm đường cứu nước.
“Cần kiệm, Nhẫn nại (chịu khó)” là các phẩm chất cao đẹp của nhân cách
Hồ Chí Minh. Đồng thời, cũng là tiêu chuẩn hàng đầu mà Người yêu cầu “người
cách mệnh” nhất quyết phải có. Cùng với lòng yêu nước, những phẩm chất ấy
cũng là hành trang quý giá mà Người đã mang theo khi rời bến cảng Sài Gòn.
Hành trang Người mang theo chỉ là hai bàn tay trắng và khối óc cùng trái tim
tràn đầy nhiệt huyết. Đến đâu, Người cũng làm việc để kiếm sống và hoạt động
cách mạng, không nề hà bất cứ việc gì: phụ bếp, đốt lò, cào tuyết, làm bánh,…
“Hòa mà không tư”là chuẩn mực đạo đức được Nguyễn Ái Quốc xếp ở
vị trí thứ hai trong 14 chuẩn mực của mỗi người cách mạng. Người đã sớm
nhìn ra sự nguy hại của câu chuyện vì lợi ích riêng tư không trong sáng mà
người ta có thể kết lại với nhau mà dẫn đến vướng mắc lợi ích vào nhau; khi
không còn tỉnh táo để phân định “riêng chung” thì con người ta sẽ sa vào
“lợi ích nhóm” “hòa để tư”.
“Hay hỏi”, “Hay nghiên cứu, xem xét”, đây là sự thể hiện tính cách khiêm
tốn của Nguyễn Ái Quốc theo truyền thống cha ông “đi một ngày đàng học một
sàng khôn”. Trên hành trình tìm kiếm con đường cách mạng đúng đắn cho dân
tộc Việt Nam, Người luôn miệt mài nghiên cứu, xem xét, khiêm tốn học hỏi:
“Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem phong trào
thế giới nói cho đồng bào ta rõ”1. Theo quan điểm của Người, người cách mạng
không nên giấu dốt, một dân tộc không chịu học hỏi, không chịu tiến bộ sẽ mãi
là dân tộc không có đủ sức mạnh: “Tây nó áp bức ta vì ta không thương yêu
nhau, vì ta ngu dốt”2.
“Dũng cảm”,đây là đức tính của người Việt Nam đã được hun đúc từ hàng
ngàn năm bằng lòng yêu nước nồng nàn, sự gan dạ. Nguyễn Ái Quốc khẳng
định tinh thần dũng cảm có sức mạnh vô địch: “một người cách mệnh có gan,
hơn một ngàn người vô chí”3.
“Hy sinh”, Nguyễn Ái Quốc dạy phải vì chính nghĩa mà hy sinh, chấp
nhận hy sinh, không hy sinh uổng phí:”Cách mệnh Pháp hy sinh rất nhiều
người mà không sợ; ta muốn làm cách mệnh thì cũng không nên sợ phải hy
sinh”4; “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong
tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới
__________
1. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 11.
2. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 89.
3. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 27.
4. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 30.
449
- được hạnh phúc”1, “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh
thành công… phải bền gan, phải hy sinh,…”2.
Càng đọc càng thấm thía giá trị “Tư cách một người cách mệnh” mà
Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh đã xác định. “Tư cách một người cách mệnh”
với 23 tiêu chuẩn được Người nêu ra cách đây gần 100 năm đã thể hiện một
quan niệm trở thành triết lý nhân sinh về lý luận cách mạng, hàm chứa các giá trị
nhân văn cao cả của lý luận cách mạng. Đây là một thành tố của văn hóa Đảng.
Người cách mạng, theo Đảng cách mạng cần phải có nhân cách, đạo đức thì mới
tiếp thu được tinh thần của lý luận, mới vượt qua được gian truân để gánh vác sự
nghiệp cách mạng hào hùng, oanh liệt, vẻ vang của dân tộc.
4. Tác phẩm Đường Kách mệnh từ đầu cho đến cuối đã thể hiện rõ quan
điểm của Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của liên
minh công nông, của đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đây là vấn đề mang
tính chiến lược để tập hợp lực lượng cách mạng và là một trong các nhân tố
quyết định sự thành công của cách mạng.
Ngay từ đầu, nêu mục đích viết Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã xác
định việc cách mạng cần phảichung lòng, chung sức, phải làm cho đồng bào biết “Vì
sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”3.
Cùng với đó, Người nêu bài học kinh nghiệm của cách mạng các nước:
“Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải
dân chúng (công nông) làm gốc,… phải thống nhất”4.
Người cũng phân tích và chỉ ra vai trò to lớn của đoàn kết: “Tây nó áp bức
ta vì ta không thương yêu nhau”; “làm việc to tát như việc giải phóng gông cùm
nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại, nếu không hết sức thì làm sao được”… Việc
gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều
người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi”5.
Bên cạnh đó, Người thẳng thắn trình bày: “Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn
năm làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực
mà làm thì chắc làm được, thế thì không khó”6.
Đặc biệt, Người dành một nửa nội dung của tác phẩm để chỉ ra thực lực của
cách mạng đang tiềm tàng trong các giai cấp, tầng lớp trong nước và thế giới;
Người chỉ ra cho nhân dân thấy lợi ích của việc hợp lực bằng các hình thức tổ
chức: “công hội”, “dân cày”, “hợp tác”; lợi ích của vấn đề liên lạc giữa cách
mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: “Cách mệnh An Nam cũng
__________
1. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 24.
2. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 41.
3. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 11.
4. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 41.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 282.
6. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 19.
450
- là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là
đồng chí của dân An Nam cả. Đã là đồng chí, thì sung sướng cực khổ phải có
nhau. Huống gì, dân An Nam là đương lúc tranh đấu với đế quốc chủ nghĩa
Pháp, chắc là về sau sẽ có nhiều người cách mệnh phải hy sinh, phải khốn khổ,
phải cần anh em trong thế giới giúp giùm”1.
5. Đường Kách mệnh là biểu hiện sinh động của phong cách Hồ Chí Minh
về tư duy khoa học, tự chủ; diễn đạt bình dân, gần gũi để dễ hiểu, dễ nhớ.
Đường Kách mệnh là tác phẩm bàn về một vấn đề to tát nhưng lại được viết
bởi từ những ngôn từ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ, không hàn lâm, bác học.
Bởi theo Nguyễn Ái Quốc, mục đích chủ yếu của tác phẩm là: “Sách này chỉ
ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng
lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”; “Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu,
dễ nhớ... Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 lần 2 là
4, không tô vẽ trang hoàng gì cả”2.
Chính sự chân thật, dung dị trong tâm tư của Nguyễn Ái Quốc: “Thì giờ
đâu rảnh mà vẽ vời trau chuốt” càng làm cho tác phẩm lôi cuốn người đọc.
Trong bối cảnh đồng bào ta lúc bấy giờ “đối với hai chữ cách mệnh còn lờ
mờ” nhưng để hiểu “Cách mệnh là gì?”,Người diễn giải bằng một câu ngắn gọn:
“Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”3.
Ngoài ra, Người cũng giải thích cho đồng bào lúc ấy biết “Cách mệnh khó
hay là dễ?”bằng cách dẫn dắt từng vấn đề: “Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm
làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà
làm thì chắc làm được, thế thì không khó. Khó dễ cũng tại mình, mình quyết chí
làm thì làm được”4. Lời giải thích của Người cũng chính là lời thuyết phục, động
viên đồng bào tin tưởng và sẵn lòng tham gia cách mạng.
Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ cho người làm cách mạng phương pháp tuyên
truyền, vận động và thuyết phục nhân dân bằng cách, nói và viết phải tạo được
cảm giác gần gũi với dân, cuốn hút dân, khiến nhân dân đã đọc thì không muốn
dừng, càng đọc càng suy ngẫm mà thấm thía: “Muốn đồng tâm hiệp lực, muốn
bền gan thì trước hết ai ai cũng phải hiểu rõ vì sao mà phải làm, vì sao mà không
làm không được, vì sao mà ai ai cũng phải gánh một vai, vì sao phải làm ngay
không nên người này ngồi chờ người khác. Có như thế mục đích mới đồng; mục
đích có đồng, chí mới đồng;chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải
biết cách làm thì làm mới chóng”5.
Năm tháng đã trôi qua, nhưng tác phẩm Đường Kách mệnh của Nguyễn
__________
1. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 72.
2. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 11
3. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 13.
4. Nguyễn Ái Quốc, Đường Cách mệnh, Sđd, tr. 19.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 282.
451
- Ái QuốcHồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị lịch sử và thời đại; mãi là nền
tảng lý luận cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Việc tiếp tục giới thiệu và tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân
tác phẩm Đường Kách mệnh của Người chính là góp phần gìn giữ và phát huy
giá trị to lớn của tác phẩm Bảo vật quốc gia; Đồng thời, góp phần thiết thực
đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong
cách Hồ Chí Minh./.
452
- NGUYỄN TẤT THÀNH ‐ NGUYỄN ÁI QUỐC
HÀNH TRÌNH 30 NĂM TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC (1911‐1941)
ThS. LƯU THỊ TUYẾT TRINH
Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh -
Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh
110 năm Một chặng đường lịch sử đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam
nhưng biết bao khó khăn thử thách, luôn gắn liền với tên tuổi Hồ Chí Minh
Người đã hy sinh cả cuộc đời để lãnh đạo nhân dân Việt Nam đánh thắng hai
cường quốc thực dân đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập cho Tổ quốc,
tự do cho nhân dân. Trong 110 năm ấy, có hơn 30 năm Người phải bôn ba khắp
các châu lục, làm đủ mọi nghề để kiếm sống và tìm con đường cứu nước cứu
dân. Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911
5/6/2021), chúng ta cùng tìm hiểu và làm sáng tỏ thêm ý chí quyết tâm cứu nước,
cứu dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sinh động qua việc ra đi tìm đường
cứu nước của Người.
1. Chí lớn ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân của chàng trai xứ Nghệ -
Nguyễn Tất Thành
Sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà Nho yêu nước, trên vùng đất “địa linh
nhân kiệt”, giàu truyền thống cách mạng đã hun đúc nên nhân cách một con
người vĩ đại Hồ Chí Minh.
Với trí thông minh và trí tuệ thiên tài, ngay từ nhỏ Nguyễn Tất Thành
Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra cảnh đất nước lầm than, các nhà cách mạng tiền
bối chưa tìm ra được hướng đi đúng đắn để đưa đất nước thoát khỏi sự xâm lược
của thực dân Pháp và phong kiến tay sai.
Không như những người bạn cùng lứa tuổi thiếu niên “ăn không no, lo
chưa tới”, khi được bê trà hầu cha và các bạn của đàm đạo việc nước, Nguyễn
Tất Thành đã có những suy nghĩ khác biệt với bậc cha chú đương thời về con
đường cứu nước. Người sớm nhận ra những hạn chế trong con đường của các vị
ấy… xác định mục tiêu, đối tượng, nhiệm vụ cách mạng; về phương thức,
phương pháp đấu tranh; về nhận thức “bạn thù” của cuộc cách mạng dân tộc,
453
- dân chủ ở Việt Nam. Người nhận định “Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho
rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”1.
Ngay từ lúc này, ý chí quyết định đi ra nước ngoài tự mình tìm con đường
cứu nước, cứu dân đã hình thành trong tư tưởng người thiếu niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành. Có thể nói là rất sớm đối với một thiếu niên đang tuổi
trưởng thành. Đi đâu? Đến nước nào để tìm con đường cứu nước, cứu dân? Đây
có thể là câu hỏi lúc nào cũng đau đáu trong suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành.
Và Người đã tìm được câu trả lời từ chính trong cuộc sống xã hội mà Người đã
trải qua.
Năm 1905, Nguyễn Tất Thành được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo
học lớp dự bị (préparatoire) tại Trường Tiểu học Pháp bản xứ ở thành phố
Vinh. Tại trường này, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu
hiệu TỰ DO BÌNH ĐẲNG BÁC ÁI, được tiếp xúc văn hóa Pháp, Người
nhận thấy sức hấp dẫn của những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái… mà người Pháp
đã tuyên truyền, Người muốn tìm hiểu xem cái gì ẩn giấu đằng sau những từ ngữ
mỹ miều ấy… Nguyễn Tất Thành thấy, cần phải ra nước ngoài xem cho rõ.
Người đã nung nấu ý chí ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác làm
ăn ra sao, nhất là xem họ tổ chức và cai trị như thế nào rồi sẽ về giúp dân, giúp
nước. Độc lập cho Tổ quốc, tự do, dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân, đó là
mục đích, “ham muốn tột bậc” của Người. Với mục đích và ý chí đó, Người đã
rời Sài Gòn đi ra nước ngoài vào ngày 5/6/1911.
2. Hành trình Nguyễn Tất Thành tìm kiếm con đường đi tới “tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành lên tàu Amiral Latouche Trévillerời
Việt Nam thực hiện ý chí ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác làm
ăn ra sao, rồi trở về giúp dân, giúp nước.
Người đã đi nhiều nước, đến nhiều nơi, tiếp xúc nhiều nền văn hóa, chính
trị và đã dần hiểu rõ thực chất của nền văn minh tư sản, nền dân chủ tư sản dưới
các hình thức khác nhau của nó. Đi đến đâu, Người cũng hòa mình vào với
phong trào của quần chúng lao động, luôn tìm hiểu đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội những nơi mình đã đi qua. Người đã chứng kiến cảnh những người nô lệ bị
bóc lột, bị hành hình. Thực tế qua những chuyến đi vòng quanh thế giới, Người
đã hiểu rõ hơn về bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân. Từ đó,
Người đã nhận thức được đâu là bạn, đâu là thù. Và Người đã trở lại Pháp, chọn
Paris làm nơi hoạt động vào cuối năm 1917.
Câu hỏi được đặt ra: Tại sao Nguyễn Tất Thành lại chọn nước Pháp để bắt
__________
1. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 20.
454
- đầu cuộc đấu tranh trực diện chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp? Với trí thông
minh thiên tài, Người nhận thức rõ nước Pháp chính là nơi sản sinh ra chủ nghĩa
thực dân Pháp, sẽ không có nơi nào tốt hơn cho việc tìm hiểu cặn kẽ kẻ thù của
dân tộc bằng ngay tại nơi sản sinh ra chúng. Lúc bấy giờ, Paris là trung tâm
quan trọng nhất của các sự kiện chính trị thế giới, nơi diễn ra hội nghị của các
nước đế quốc thắng trận. Đây là điều kiện, là cơ hội tốt cho ý định đấu tranh của
Người. Nước Pháp cũng là nơi có phong trào công nhân phát triển mạnh, có khá
đông đồng bào Việt Nam đang sinh sống, họ có mối liên hệ thường xuyên với
Tổ quốc, sẽ có sự đồng cảm lớn với Người.
Tại Paris, Nguyễn Tất Thành gia nhập “Hội những người Việt Nam yêu
nước ở Pháp”, tích cực tham gia các hoạt động trong các chức tổ chức, hòa mình
vào phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động Pháp, tích cực đọc
và học ở các thư viện, tham gia thường xuyên vào các buổi diễn thuyết của Đảng
Xã hội Pháp và câu lạc bộ Faubourg. Qua đó giúp Nguyễn Tất Thành trưởng
thành dần về nhận thức và đã gặp, làm bạn với những người bạn Pháp như
Marcel Cachin, Paul Vaillant Couturier, Jacques Duclos… Người thường tranh
luận về vấn đề dân tộc, dân chủ, tự do… Khi ở với Phan Văn Trường và Phan
Châu Trinh, Nguyễn Tất Thành thường tranh luận (có lúc gay gắt) với hai người
về con đường cứu nước.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng xã hội Pháp. Khi được
hỏi vì sao vào Đảng, Anh trả lời: “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh
vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng
Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái”1. Vào tháng 6/1919, Người đã thay mặt cho
nhóm người Việt Nam yêu nước cùng thảo ra bản Yêu sách gồm tám điểm gửi
đến Hội nghị Versailles và ký tên bên dưới là Nguyễn Ái Quốc đề nghị Chính
phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận nguyên tắc của quyền dân tộc tự
quyết. Tuy không được các nước thừa nhận, bản Yêu sách như “một quả bom,
chúng tôi gọi đó là tiếng sấm, tiếng sét. Tiếng sấm mùa xuân đã xua tan màn
sương mù... Bây giờ, ở ngay tại thủ đô nước Pháp, ở ngay giữa các hội nghị
“cường quốc”, có một người Việt Nam ngang nhiên đứng ra đòi quyền lợi cho
cả dân tộc mình, dư luận thế giới xôn xao lên bàn tán rầm rầm. Ai mà không
kính, không phục. Độ ấy, người mình ở Pháp gặp nhau đều nói độc lập, tự quyết,
đều nói đến Nguyễn Ái Quốc. Chính cái tên Nguyễn Ái Quốc bản thân nó có sức
hút rất lạ”2. Sự thờ ơ của các nước tham dự hội nghị và việc thực dân Pháp
không chấp nhận bản Yêu sách, dù là những đòi hỏi “rất ôn hòa cả về nội dung
và hình thức” khiến Nguyễn Ái Quốc càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế
__________
1. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 1, tr. 47.
2. Épghênhi Cabêlép, Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1985, t. 1, tr. 7475.
455
- quốc. Sau này, Người viết: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”1 và
“Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy
vào lực lượng của bản thân mình”2.
Phân tích cách mạng tư sản Mỹ (1776) và cách mạng tư sản Pháp (1789),
Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: Không thể đi theo con đường cách mạng tư
sản vì con đường đó không giải phóng dân tộc thuộc địa, không giải phóng nhân
dân lao động bị áp bức, bóc lột; những cuộc cách mạng kiểu đó, sớm muộn thì
nhân dân phải làm cách mạng một lần nữa mới xong.
Tháng 7/1920, đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’Humanité (Pháp),
Nguyễn Ái Quốc lập tức bị cuốn hút vì tính chất cách mạng triệt để của Luận
cương, vì Luận cương đã giải đáp thỏa đáng những điều mà bấy lâu nay Người
hằng mong ước, đợi chờ. Người đã đọc đi, đọc lại nhiều lần. Qua lăng kính chủ
nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải
phóng đất nước khỏi ách đô hộ của thực dân. Sau này khi nhớ lại thời điểm đọc
Luận cương Lênin, Nguyễn Ái Quốc có viết: “… Luận cương của Lênin làm cho
tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”3.
Tin theo Lênin, từ lập trường của một người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc
chuyển sang lập trường của một người cộng sản. Sau này, Người kể lại rằng:
“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã
đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lý luận MácLênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi
hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”4.
Đây là sự kiện mang tính chất bước ngoặt đối với Nguyễn Ái Quốc, là mốc
Người tìm được con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Nhu cầu
đang đặt ra của lịch sử lúc bấy giờ là xác định một con đường đúng đắn cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam nói riêng và các dân tộc thuộc địa
nói chung. Nguyễn Ái Quốc chính là người đảm nhận nhiệm vụ lịch sử đó. Đây
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật , Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 441.
2. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1975, tr. 33.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 562.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 563.
456
- cũng chính là cơ sở để Người truyền bá chủ nghĩa MácLênin vào Việt Nam,
gieo hạt giống cộng sản và trực tiếp chuẩn bị những điều kiện cần thiết bảo đảm
cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận
cương của Lênin, cùng với những hoạt động sát cánh với các tầng lớp công nhân,
trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa là tiền đề có tính quyết định việc Người
bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và tham gia thành
lập Đảng Cộng sản Pháp. Sau khi bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, Rose
(đồng chí ghi biên bản tốc ký Đại hội) đã hỏi Nguyễn Ái Quốc tại sao lại ủng hộ
cho Quốc tế III? Người trả lời: “Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là
chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác! Nhưng tôi hiểu rõ một điều:
Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa... Tự do cho đồng bào tôi,
độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những
điều tôi hiểu”1. Qua đây chúng ta thấy, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định rõ ràng
con đường mà Người đã lựa chọn và sẽ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi theo con
đường ấy. Đó là con đường cách mạng vô sản và chỉ có con đường ấy mới mang
lại”tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch
sử, đã vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sỹ phu và các nhà hoạt động
cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với chủ nghĩa Mác
Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản… Người nói: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách
mạng vô sản”2.
Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang nước Nga, trực tiếp nhìn thấy những
thành quả to lớn của Cách mạng Tháng Mười đem lại cho giai cấp công nhân,
nông dân và các tầng lớp lao động khác, Người càng quyết tâm theo con đường
đã chọn. Tại đây, Người hoạt động trong Quốc tế Cộng sản và trực tiếp quan sát,
nghiên cứu việc xây dựng nền dân chủ mới dân chủ vô sản. Nguyễn Ái Quốc
không chỉ nghiên cứu lịch sử cách mạng, con đường, phương pháp và những
kinh nghiệm cách mạng trong giai đoạn “giành chính quyền” mà Người còn rất
chú ý tìm hiểu cách thức, kinh nghiệm tổ chức xây dựng chế độ dân chủ mới
dưới ánh sáng khoa học của học thuyết dân chủ cách mạng MácLênin. Những
thành công “đến nơi” của cách mạng Nga, những ưu việt thực chất của nền dân
chủ mới ở Nga đã trở thành mẫu hình quan trọng đầy tính gợi mở để Nguyễn Ái
Quốc từng bước xây dựng mô hình dân chủ cho cách mạng Việt Nam.
Hơn một năm sống và làm việc trên đất nước Xôviết, Người đã thực sự trở
thành một chiến sĩ kiên cường, một lãnh tụ của phong trào cộng sản quốc tế,
__________
1. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 1, tr. 86.
2. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 33.
457
- hoạch định một đường lối chiến lược cho cách mạng Việt Nam, chuẩn bị về tư
tưởng, tổ chức cho việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 11/1924,
Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu tổ chức lớp huấn luyện chính trị cho những
thanh niên Việt Nam yêu nước, nhằm xây dựng lực lượng hạt nhân nòng cốt cho
cách mạng Việt Nam và sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tiến tới
thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam Đảng Cộng sản
Việt Nam (1930). Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời có Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ đã đáp ứng kịp thời bức thiết nhất của phong trào cách mạng Việt Nam.
Là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam và
cách mạng Việt Nam, chứng tỏ rằng giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Từ nước ngoài, Người thường xuyên theo dõi rất sát tình hình trong
nước, thường xuyên viết báo cáo, thư ca ngợi tinh thần quật cường của quần
chúng cách mạng Việt Nam, kịp thời gửi cho Trung ương Đảng những ý kiến
chỉ đạo đúng đắn về đường lối, chiến lược, về vai trò lãnh đạo của Đảng trong
các thời kì cách mạng; kêu gọi Quốc tế Cộng sản và các tổ chức Đảng Cộng
sản quốc tế ủng hộ, giúp đỡ Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nhận thấy nguy cơ
cuộc chiến tranh đế quốc trên quy mô toàn thế giới đã đến gần, đe dọa các
dân tộc cả châu Âu và châu Á, trong đó có Đông Dương, vận mệnh của Tổ
quốc đang lâm nguy, Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng trở về và triệu tập
cuộc họp với tất cả các đảng viên cộng sản tại Côn Minh (Trung Quốc).
Người nhận định: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách
mạng Việt Nam, ta phải tìm mọi cách để trở về nước ngay, tranh thủ mọi thời
cơ, chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”1.
Với kinh nghiệm hoạt động quốc tế phong phú, trên cơ sở phân tích, đánh
giá chính xác tình hình thế giới, mưu đồ của chủ nghĩa phát xít, Người quyết
định thành lập Việt Nam đồng minh hội ngay trên đất Trung Quốc, để hợp pháp
hóa về mặt tổ chức, có điều kiện về nước một cách công khai; còn về lâu dài, để
có tổ chức liên lạc với quốc tế. Những quyết định trên thể hiện tầm nhìn xa trông
rộng, sự mẫn cảm chính trị đầy trách nhiệm của Nguyễn Ái Quốc trước vận
mệnh của dân tộc, định hướng cho thành công của Cách mạng Tháng Tám.
Người tích cực triển khai các hoạt động quốc tế dồn dập: trực tiếp gặp đại diện
Đảng Cộng sản Trung Quốc, gửi thư cho Quốc tế Cộng sản yêu cầu giúp đỡ…
Người quyết định mở lớp huấn luyện chính trị và quân sự cấp tốc đưa về nước
tuyên truyền, tổ chức các đoàn thể cứu quốc, chọn Cao Bằng làm căn cứ địa
cách mạng… Những quyết định sáng suốt và kịp thời của Người trong việc
__________
1. Vũ Anh, Những ngày gần Bác (in trong cuốn Đầu nguồn), Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975,
tr. 234.
458
- tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, chuẩn bị thực lực bên trong là bước chuẩn bị cần
thiết cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Giữa lúc bão táp cách mạng
đang nổ ra dồn dập, mùa xuân năm 1941, Người đã chỉ thị: “Trung ương Đảng
phải chuyển về trong nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào”1. Sau 30 năm bôn
ba, ngày 28/01/1941, Người về đến Cao Bằng, trực tiếp chỉ đạo phong trào cách
mạng Việt Nam.
Về nước được hơn 3 tháng, với danh nghĩa là đại biểu Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám từ ngày
10 đến ngày 19/5/1941, Hội nghị quyết định giương cao hơn nữa ngọn cờ giải
phóng dân tộc, xác định rõ: “Cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại
là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”2. Đó chính là sự phát triển hoàn
chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng do Hội nghị
Trung ương lần thứ 6 (tháng 11/1939) và lần thứ 7 (tháng 11/1940) của Đảng
đề ra. Chủ trương đó đã thể hiện tư duy chiến lược, nhãn quan chính trị nhạy
bén của Nguyễn Ái Quốc, đồng thời phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng của
các tầng lớp nhân dân là thoát khỏi ách áp bức “một cổ hai tròng” của đế quốc
và phong kiến tay sai. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ động xây dựng lực
lượng cách mạng hùng hậu đủ sức tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền
thắng lợi. Người vạch ra đường lối cách mạng trước thời cơ mới: “Sẽ thành lập
một Chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy lá cờ đỏ ngôi
sao vàng năm cánh làm lá cờ Tổ quốc” (Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ VIII, Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 51941). Hội nghị đã mở ra một
trang sử mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, quyết định thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám, đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận về cách
mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám, Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh tiếp
tục lãnh cách mạng Việt Nam thực hiện Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền về tay nhân dân lao động, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(1945) Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; Huy động sức mạnh
đoàn kết toàn dân giành thắng lợi to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống sự
xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc nền độc lập cho
nước nhà.
Với ý chí kiên cường, nghị lực phi thường, sau hơn ba mươi năm bôn ba
vất vả, Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh đã tìm được con đường cứu nước, cứu
dân. Người trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam liên
__________
1. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 2, tr. 65.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.
7, tr. 119.
459
- tiếp đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ một nước thuộc địa, nửa thuộc địa
không có tên trên bản đồ thế giới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã đánh thắng hai cường quốc
thực dân đế quốc, xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, độc lập và tự chủ,
nhân dân Việt Nam thật sự làm chủ đất nước.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã chứng tỏ con
đường cách mạng vô sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn và dẫn dắt dân
tộc Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, đó là kim chỉ nam soi sáng dẫn dắt cho mọi
hoạt động của cách mạng Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Chúng
ta nguyện sẽ mãi mãi đi theo con đường Người đã chọn và quyết tâm học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người./.
460
- GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG TÁC PHẨM
ĐƯỜNG KÁCH MỆNH ‐ KIM CHỈ NAM CHO THẮNG LỢI
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TRẦN HOÀI VŨ
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Đường Kách mệnh là tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc đã
giảng tại lớp Huấn luyện chính trị trong những năm 19251927. Trong bối cảnh
Việt Nam đang khủng hoảng trầm trọng về đường lối cách mạng, về phương
pháp cách mạng và đặc biệt hơn là sự khủng hoảng về tổ chức cách mạng thì
những nội dung quan trọng của Đường Kách mệnh đã góp phần trang bị cho
nhân dân tư tưởng mới của thời đại, đưa cách mạng Việt Nam hòa nhập cùng
dòng chảy chung của cách mạng thế giới. Ở giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu
và vận dụng những giá trị của tác phẩm Đường Kách mệnh vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước vẫn còn nguyên
giá trị và có ý nghĩa hết sức quan trọng.
1. Những giá trị lí luận của tác phẩm Đường Kách mệnh
Đường Kách mệnh là sự kết tinh có chọn lọc của Nguyễn Ái Quốc đối với
những gì tiếp thu được trong quá trình tìm đường cứu nước. Người đã tìm hiểu
và nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới, đặc biệt Người đã tiếp thu và
vận dụng chủ nghĩa MácLênin một cách sáng tạo vào tình hình cách mạng Việt
Nam để tạo ra những giá trị lí luận sâu sắc cho tác phẩm.
1.1. Vấn đề tư cách người cách mạng
Với một quan niệm mới, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao vai trò, vị trí của
đạo đức, coi đạo đức là cái gốc của người cán bộ, là yếu tố quyết định thành bại
của cách mạng. Nội dung đạo đức cách mạng không chỉ bao hàm những phẩm
chất cá nhân mà cả những vấn đề cơ bản về nhân sinh quan, thế giới quan cách
mạng, về ý thức và phương pháp tư tưởng của giai cấp công nhân. Người đã coi
việc giáo dục đạo đức cách mạng là một trong những nguyên tắc cơ bản, nhằm
461
- xây dựng những con người cách mạng chân chính, để tiến tới xây dựng một
đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây cũng là một
bài học quan trọng hàng đầu đối với tổ chức tiền thân của Đảng Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên. Có thể nói, việc lấy tiêu chuẩn đạo đức làm một trong
hai tiêu chuẩn (đức và tài) của người cán bộ cách mạng, người đảng viên cộng
sản, ngay từ khi chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam là một sáng tạo độc đáo, mang đậm dấu ấn Hồ Chí
Minh. Ngày nay, tiêu chuẩn này vẫn còn nguyên giá trị trong việc lựa chọn cán
bộ cho công cuộc đổi mới đất nước.
1.2. Xác định con đường cách mạng Việt Nam
Trong Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu, phân tích những
cuộc cách mạng điển hình trên thế giới: Từ cách mạng tư sản Mỹ 1776; cách
mạng tư sản Pháp 1789; đến Cách mạng Tháng Mười Nga 1917. Sau khi so sánh
cách mạng tư sản với cách mạng vô sản, Người khẳng định: “Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi,
tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn
phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”1.
Người chỉ ra: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa
Pháp khoe khoang bên An Nam”2. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”3. Theo Người, cách mạng Việt Nam phải đi theo con
đường cách mạng vô sản, chỉ có cách mạng vô sản mới là cách mạng triệt để
nhất và cũng chỉ có nó mới vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.
Đây là điểm xuất phát, đồng thời là điểm khác nhau cơ bản giữa con đường
cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu nước trước đó.
1.3. Tính chất và mục tiêu của cách mạng Việt Nam
Đường Kách mệnh đưa ra một cách khái quát những quan điểm cốt lõi của
chủ nghĩa MácLênin vận dụng vào cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội và chia thành hai giai đoạn trên một nền tảng chung,
đó là “dân tộc cách mệnh” và “thế giới cách mệnh”. “Cách mạng thuộc địa trước
hết là một cuộc cách mạng dân tộc đánh đổ đế quốc giành độc lập tự do”. Muốn
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 296.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 304.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 30.
462
- xóa bỏ chế độ bóc lột, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thật sự thì phải đánh
đuổi đế quốc giành được độc lập.
Tư tưởng về đường lối chiến lược cách mạng ở thuộc địa là tiến hành giải
phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song, trước hết phải giải
phóng dân tộc, đánh đuổi bọn đế quốc, giành lấy độc lập tự do, Nguyễn Ái Quốc
đã sớm xác định một cách đúng đắn tính chất của cách mạng ở các nước thuộc
địa là “dân tộc cách mạng”: Nước đã mất thì dân cũng mất cả quyền lợi về kinh
tế chính trị, mất cả tự do độc lập, “bọn cường quyền này bắt dân tộc kia làm nô
lệ... đến khi dân nô lệ ấy không chịu nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng
thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức
mình đi; ấy là dân tộc cách mệnh”1. Người cho rằng cần phải nhận thức và xác
định đúng các vấn đề về kẻ thù, về nhiệm vụ cách mạng... Ở các nước thuộc địa,
bọn đế quốc và phong kiến phản động thường cấu kết với nhau, áp bức bóc lột
nhân dân lao động và dân bản xứ, vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng ở
thuộc địa là phải tập trung lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược và
thống trị, giương cao ngọn cờ chống đế quốc, giành độc lập tự do và sau khi
thắng lợi sẽ phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.4. Xác định lực lượng cách mạng
Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng giải phóng dân
tộc là đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, nên
Nguyễn Ái Quốc đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
dân tộc, chủ trương tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, Người nhấn mạnh:
“Công nông là người chủ cách mệnh, là gốc cách mệnh”; “còn học trò, nhà buôn
nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3
hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”2. Rõ ràng đó là một nhận
thức sáng suốt, một chủ trương đúng đắn, không phải người mácxít nào thời đó
cũng có quan điểm rõ ràng như vậy. Theo Mác và Ăngghen: Trong thời đại hiện
nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là
lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Nông dân là lực lượng đông đảo
nhất ở thuộc địa, bị đế quốc và phong kiến bóc lột nặng nề, phải đi với giai cấp
công nhân, thì mới có thể giải phóng được. Ngược lại, giai cấp công nhân muốn
giành được quyền lãnh đạo thì phải liên minh với nông dân.
1.5. Xác định phương pháp cách mạng
Xuất phát từ nhận thức việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho
nhân loại là công việc “to tát”, cho nên phải “dùng hết sức”, phải “quyết tâm
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 286.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 288.
463
nguon tai.lieu . vn