Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NHIỀU TÁC GIẢ KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2019-2020 Huế, 2019
  2. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN | 12/2019 LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế đã đạt được những thành quả tốt đẹp và có tác dụng thiết thực. Hàng trăm đề tài nghiên cứu khoa học độc lập thuộc các lĩnh vực Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội - Nhân văn, Khoa học Giáo dục đã được triển khai và hoàn thành. Nhiều sinh viên đã đạt được giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu Khoa học các cấp. Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo. Năng lực của sinh viên được nâng lên đáng kể thông qua thực tiễn nghiên cứu. Nhiều ý tưởng sáng tạo của sinh viên đã được vận dụng trong dạy học và được xã hội hóa. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế tổ chức Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2019-2020, nhằm công bố các kết quả nghiên cứu thuộc các đề tài khoa học của sinh viên đã và đang triển khai. Hội nghị cũng là diễn đàn để tôn vinh những tấm gương nghiên cứu khoa học, động viên, thúc đẩy lòng say mê, tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo khoa học của sinh viên Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế. Đây cũng là một hoạt động để nhà trường đánh giá những thành công, tồn tại trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học năm học 2019-2020, bao gồm 32 báo cáo của sinh viên các Khoa Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Tâm lý - Giáo dục, Giáo dục Chính trị, Giáo dục Tiểu học, Giáo dục Mầm non, Sinh học, Hóa học và Vật lý. Các bài viết đăng trong kỷ yếu đã được các tác giả biên soạn trên cơ sở những nghiên cứu công phu từ nhiều nguồn tư liệu, từ khảo sát thực tế và những đúc kết sáng tạo của bản thân. Đây là những tư liệu tham khảo có giá trị trong việc học tập và nghiên cứu của sinh viên và những ai quan tâm. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến quý vị đại biểu, các bạn sinh viên Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2019-2020. Trong quá trình biên tập, chắc chắn khó tránh khỏi sai sót, Ban Biên tập kính mong sự lượng thứ và phản hồi của quý độc giả để kỷ yếu năm sau được tốt hơn. Trân trọng cám ơn. BAN BIÊN TẬP 1
  3. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN | 12/2019 DIỄN NGÔN LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT MƯA ĐỎ CỦA CHU LAI NHÌN TỪ NHÂN VẬT LỊCH SỬ PHẠM LÊ HUỲNH ANH*, LƯU BẢO NGỌC Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế * Email: phamlehuynhanh149@gmail.com Tóm tắt: Trong địa hạt văn chương, tiểu thuyết lịch sử bao giờ cũng đóng một vai trò thiết yếu, được định danh như một góc nhìn đa chiều của quá khứ. Với Chu Lai, những cuốn tiểu thuyết lịch sử ra đời là kết quả của một quá trình hoài thai đầy gian nan và cẩn trọng. Trên tinh thần đó, “Mưa đỏ” được đánh giá là sự phối kết hài hòa của những thành tố ở cả khía cạnh văn chương lẫn lịch sử mà nổi bật hơn hết vẫn nằm ở góc nhìn nhân vật lịch sử. Dưới đôi mắt của một người từng trải qua những trận mạc cam go, Chu Lai đã phân tách và giải mã hệ thống nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết “Mưa đỏ” dựa trên những biểu hiện tâm lí, tính cách, bản năng vốn có của con người. Thông qua các nhân vật này, Chu Lại đã kiến tạo diễn ngôn lịch sử trong văn học với cảm quan mới, ý niệm mới. Từ khóa: Diễn ngôn lịch sử, nhân vật lịch sử, Mưa đỏ, Chu Lai. 1. MỞ ĐẦU Diễn ngôn, diễn ngôn trong văn học là vấn đề phức tạp đã nhận được sự quan tâm từ sớm của các nhà nghiên cứu. Nhờ đó, khái niệm diễn ngôn nói chung, diễn ngôn về con người, văn hóa, chính trị, lịch sử, thân thể, tính dục... nói riêng đã được chú trọng tìm tòi, đào sâu, khai phá trong bối cảnh văn học hiện đại, là cơ hội để người cầm bút có điều kiện mở rộng tầm nhìn, khả năng tư duy, tiếp thu tinh hoa văn hóa/ văn học và lí luận nước ngoài để làm giàu trí tuệ và khai phóng sức sáng tạo của mình. Giữa muôn vàn lực hấp dẫn của các hệ hình diễn ngôn, vấn đề diễn ngôn lịch sử trong các tiểu thuyết lịch sử luôn hứa hẹn sẽ mở ra nhiều chiều kích lí giải và khám phá từ nhiều góc độ, đem đến cho độc giả những trải nghiệm lí thú. Đó cũng là phương thức tiếp cận văn học từ cách tiếp cận liên ngành, đi sâu vào việc khám phá những định tính của lịch sử, những định chế của thời đại được phản ánh qua tiếng nói văn chương. Mỗi cuốn tiểu thuyết lịch sử ra đời là mỗi sự nghiêm túc trong cách nhìn nhận về lịch sử, trong nhận thức muốn tìm ra các giá trị và chân lý của quá khứ một cách sâu sắc, toàn diện; để đem đến thế giới hiện tại những câu chuyện chân thực nhất, chính xác nhất; đồng thời mở hướng khai sáng cho tương lai. Nghiên cứu về diễn ngôn lịch sử trong thể loại tiểu thuyết không chỉ xuất phát từ yếu tố không - thời gian lịch sử, dưới góc độ biểu tượng hay điểm nhìn trần thuật, mà hệ thống nhân vật lịch sử với những bản năng nội tại, những tính cách tái sinh, những tâm lý biến đổi, những góc khuất số phận luôn là vấn đề bức thiết cho những ai quan tâm đến mảng đề tài này. Có thể thấy rằng, khái niệm diễn ngôn lịch sử ngày càng ưu ái nhận được những sự quan tâm, nghiên cứu của các học giả. Khác với mục đích tìm về bản nguyên vốn có của lịch sử, diễn ngôn lịch sử trong văn học là sự nhìn nhận và đánh giá lịch sử dựa trên yếu tố cảm quan con người. Trong bài viết “Những hình thái diễn ngôn mới trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau đổi mới”, Nguyễn Văn Hùng đã chỉ ra bản chất của nghiên cứu diễn ngôn lịch sử nhằm nhận thức được rằng: “Không có một thứ chân lí lịch sử duy nhất, không có một diễn ngôn thống trị, trung tâm, mà chỉ có lịch sử trong cảm nhận, hình dung chủ quan của cá nhân nhà văn, và sự tồn tại đa dạng, bình đẳng của các diễn ngôn về lịch sử. [...] Văn học đã đi đúng vào bản chất, khám phá lịch sử, văn hóa và con người ở tầng vỉa sâu của những bí ẩn, khuất lấp, ý thức và vô thức, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường” [1]. 3
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKH 2019 Quá trình nhìn nhận và đánh giá lịch sử dựa trên yếu tố cảm quan con người luôn đem lại những trải nghiệm mới lạ, những góc độ khác nhau, những chiều kích đa dạng cho độc giả tiếp nhận. Có lẽ vậy mà thể loại tiểu thuyết lịch sử ở địa hạt văn chương luôn chiếm lĩnh một vị trí độc tôn trong lòng khán giả. Giữa những sự sinh sôi nảy nở của thể loại tiểu thuyết này, Chu Lai hiện lên với dáng hình của người lính cầm bút. Bằng tất cả những chiêm nghiệm, suy ngẫm trong tâm thức của một người từng trải, Chu Lai đã “sinh” ra cho cuộc đời những “đứa con tiểu thuyết” thấm đẫm giá trị nhân sinh. Từ việc khám phá vấn đề diễn ngôn lịch sử trong “Mưa đỏ”, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu quá trình kiến tạo diễn ngôn lịch sử của Chu Lai đặt dưới góc nhìn hệ thống nhân vật. Để làm rõ vấn đề này, chúng tôi khảo sát và phân tích các kiểu nhân vật lịch sử mà nhà văn Chu Lai đã phác họa trên nhiều bình diện khác nhau: Nhân vật lịch sử với hoài bão lý tưởng, nhân vật lịch sử với sự chấn thương tâm lý, nhân vật lịch sử với sự chuyển biến tính cách, nhân vật lịch sử từ góc nhìn phản diện. 2. NỘI DUNG Văn học là hình thái ý thức xã hội đặc thù, là một loại hình nghệ thuật của sự tinh vi, thâm thúy nhằm thâm nhập và khám phá thế giới tâm hồn con người. Văn học có thể hiểu và cắt nghĩa những khía cạnh khác nhau của con người một cách duy lý – điều mà các bộ môn khoa học khác khó có thể giải thích được. Tìm hiểu và khám phá về con người trong văn học cũng là cách đào sâu khai thác những tính cách, số phận, cuộc đời của nhân vật. Trong công trình “Lý luận văn học”, tác giả Phương Lựu đã cho rằng: “Nhân vật văn học là con người được miêu tả trong tác phẩm. Chức năng của văn học là khái quát những quy luật của cuộc sống con người, thể hiện những hiểu biết, những ước ao và kỳ vọng về con người. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và thể hiện quan điểm về các cá nhân đó. Nói cách khác, nhân vật là phương tiện khái quát các tính cách, số phận con người và các quan điểm về chúng” [2; tr.277]. Trên cơ sở tìm hiểu các vấn đề xoay quanh nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết “Mưa đỏ”, chúng tôi sẽ tiến hành đi sâu vào phân tích các kiểu nhân vật dưới nhiều góc nhìn khác nhau, đó cũng là phương thức duy nhất truyền đạt nội dung tác phẩm, thể hiện thế giới tư tưởng, tình cảm và lý tưởng của nhà văn. “Mưa đỏ” là cuốn tiểu thuyết thoát thai từ những trải nghiệm chân thực, xúc động của nhà văn Chu Lai trong những năm tháng chiến tranh đau thương. Tác phẩm là sự phối kết hài hòa giữa các cung bậc cảm xúc của những người lính chiến đấu bảo vệ Thành Cổ. Bảy con người trong một tiểu đội là bảy tính cách, bảy số phận, bảy tâm trạng, bảy nỗi niềm, bảy điểm xuất phát cùng tụ hội về đây có nhiệm vụ trấn giữ một góc Thành Cổ. Họ là sinh viên, là kỹ sư, là thợ thuyền, là nông dân, là tiểu tư sản, người thơ ngây người dạn dầy, người mềm mại người trực tính, người dao động người can tràng, người mộng mơ người thực tế. Nhưng 81 ngày đêm khốc liệt đã gắn kết họ thành một gia đình, một pháo đài bất khả xâm phạm, để rồi đến ngày cuối cùng, từng người từng người một đã lặng lẽ ra đi vào lòng đất vĩnh hằng. 2.1. Nhân vật lịch sử với hoài bão lý tưởng Chiến tranh chưa bao giờ là một mỹ từ đối với nhân loại. Sự chết chóc, tang thương, đau đớn, thù hằn, man rợ... luôn là những sắc thái dễ thấy và dễ hiểu ở bất cứ một thể thức chiến đấu nào. Tuy nhiên, giữa những trận đồ bát quái của một cuộc đấu sức đầy cam go khốc liệt, đâu đó vẫn ẩn tàng những con người với ánh sáng lý tưởng huyền nhiệm. Mặc dù mục đích của mỗi người khi chạm chân vào vòng tuyến đẫm máu này là khác nhau, nhưng điều lớn lao nhất xuất phát từ bản ngã của họ vẫn là lý tưởng – những lý tưởng cao đẹp cả ở phía ta lẫn phía địch, cả phía bên này hay bên kia. Đã là con người thì ai cũng phải mang trong mình những khát khao, những ham muốn rực lửa giành lấy phần thắng lợi trong bất cứ một cuộc tranh tài nào. Và ở ranh giới của cuộc 4
  5. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN | 12/2019 chiến tranh, hiển nhiên niềm khao khát ấy sẽ được thổi phồng hơn nữa nhờ vào tinh thần tự tôn dân tộc, lòng quyết chiến quyết thắng để chiếm lĩnh thế thượng phong trong vòng vây chính trị. Với ý chí hào hùng ấy, bảy con người trong tiểu đội với những tính cách và nỗi niềm khác nhau đã tạo nên một khúc ca bi tráng cho bản hùng ca “Mưa đỏ”. Đó là tiểu đội trưởng Tạ, là chàng sinh viên học viện âm nhạc tên Cường, là tiểu đội phó Sen, là Bình vẩu, là Hải gù, là Tú và Tấn với tuổi đời vô cùng ngây ngô, non nớt. Những mảnh ghép số phận đã hòa lại làm một, đã cùng nhau vẽ nên một bức tranh với nhiều gam màu cảm xúc, lưu đọng những giá trị sâu sắc trong khoảng thời gian 81 ngày đêm Thành cổ Quảng Trị. Bức tranh ấy là hiện sinh của sự sống, của nhân chứng sống, của những lý tưởng sống vẫn còn tồn nguyên suốt bao nhiêu năm qua. Chu Lai đã phác họa nguyên mẫu tầm vóc lý tưởng cao đẹp từ hình ảnh nhân vật Tạ - “tiểu đội trưởng i nốc, tám năm không lên nổi một cấp, nông dân trăm phần dầu, văn hóa lèng phèng”. [3; tr.45] Chất mộc mạc, chân quê như thấm đẫm vào sâu trong tâm hồn của người tiểu đội trưởng bộc chẹt, bỗ bã. Tạ xung phong gia nhập chiến tuyến trong cái mong muốn khiến con mình phải tự hào vì bố nó là một người lính anh dũng. Ở Tạ có cái nét điềm nhiên, thẳng đuột làm thế giới tinh thần và những biến chuyển xung đột nội tâm của nhân vật này cũng nhẹ nhàng hơn. Vốn không phải là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, nhưng Tạ có sự kết dính các chuỗi nhân vật khác lại với nhau. Với vai trò là một người tiền bối, một người anh, thậm chí như một người cha luôn lo lắng quan tâm đến những góc khuất đời tư, những biến động tâm lý của các thành viên trong tiểu đội của mình, Tạ là hiện sinh của một người anh hùng lý tưởng – anh hùng trong những trận đánh gian lao, luôn cầm đầu và chỉ huy tiểu đội một cách tháo vát, biết nhận sai và sửa lỗi, “bất sỉ hạ vấn”; và còn anh hùng trong tính cách cương thường, trong cái chính trực mà một người lính cần phải có: “có lần tao đã cho thằng cha xã đội trưởng chỗ đóng quân một cái bạt tai vẹo mặt vì dám tòm tem với vợ của một cậu đi B, thế là đang thượng sĩ tụt xuống trung sĩ, tức nhưng không tiếc” [3; tr.170]. Xuyên suốt tác phẩm, chất lính uy hùng trong con người Tạ luôn trỗi dậy một cách mạnh mẽ, điều này không chỉ xuất phát từ lý tưởng to lớn mà bản thân Tạ đang theo đuổi, mà nó còn thể hiện ở tinh thần đồng đội, sự đồng cảm và thấu hiểu, sự san sẻ yêu thương lẫn nhau trong hoàn cảnh khốn cùng, trong lằn ranh mỏng manh giữa sự sống và cái chết nơi chiến trận ác liệt. Với chàng sinh viên học viện âm nhạc tên Cường, chất lý tưởng trong con người anh bừng sáng qua rất nhiều lần thử thách giữa cái tôi can đảm với cái tôi đớn hèn. Chấp nhận rời xa mẹ và bị người yêu từ bỏ bởi “anh gàn, anh chơi trội, anh thích biểu diễn lòng yêu nước, biểu diễn chí nam nhi” [3; tr.20,21]. Đứng giữa hai sự lựa chọn đầy khó khăn ấy, Cường vẫn kiên quyết ra đi bởi “cách sống của anh không phải do anh chọn mà hình như lịch sử nước mình, con người nước mình nó thế, có muốn làm khác cũng không được” [3; tr.21]. Anh nghe theo những thanh âm của Tổ Quốc vẫy gọi, anh gạt bỏ những vui buồn cá nhân để lo liệu cho đất nước trong những năm tháng cơ hàn. Lý tưởng làm nên người anh hùng, và anh hùng làm nên lịch sử đất nước. Cường đã sống và chiến đấu cùng với lý tưởng vĩ đại, với suy nghĩ và tiềm thức trong bản ngã của một anh hùng chân chính. Thậm chí, khi anh đã thực sự bước chân vào trận mạc sinh tử ấy, vị Tổng Tư lệnh vẫn cho anh một cơ hội từ bỏ, một con đường lùi về sau để không phải giao phó mạng sống của mình cho cái dạ dày “chiến tranh” lúc nào cũng đói khát. Tuy nhiên, tinh thần và ý chí của một người lính thực thụ đã không quật ngã được anh, không khiến anh mềm lòng bởi những sự ưu ái như vậy. Cường luôn tự nhận thức được giá trị chân thực của lý tưởng, điều đó khiến anh không dễ dàng thỏa hiệp với những yêu cầu mang tính chất “đê hèn”. Ít nhất trong cuộc chiến này, thứ mà Cường có được là khí chất của một người anh hùng thực thụ - cái khí chất sáng lòa khiến Quang không thôi nghĩ về. Ít nhất, Cường cũng đã sống và chết như ước nguyện của anh, như sự quả cảm cương thường mà không phải ai là lính cũng có thể có được. Hình ảnh của Cường là biểu tượng của những nguyên lý cao đẹp, là 5
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKH 2019 đại diện cho những con người xem nhẹ cái chết, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ giá trị toàn năng của tự do, hòa bình và hạnh phúc. Khác với Tạ hay Cường, khác với những người lính hào hùng trong trận chiến Thành Cổ, Quang là nhân vật đại diện cho phía bên kia – nơi được cho là nguồn cơn, là căn nguyên khơi mào cuộc chiến. “Con người khi sinh ra có ba điều không chọn được là mẹ, quê hương và chiến tuyến”, Quang đã sống và hết lòng phục vụ cho quyền năng của địch. Đó cũng là một loại lý tưởng, dù cho lý tưởng ấy được xuất phát từ những điều phi nghĩa trong quy luật cuộc đời. Không ai hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu trong chiến tranh, cũng không bên nào hoàn toàn thắng lợi hay thua cuộc sau khi kết thúc. Điều duy nhất chúng ta thấy được là lý tưởng nằm ở mỗi người – họ đã sống và cống hiến, thậm chí đã hy sinh như thế nào để bảo vệ những giá trị mà họ hằng theo đuổi. Tạo hình nhân vật Quang trong “Mưa đỏ” được Chu Lai chấm phá với những nét tính cách, bản năng và tâm lý của một con người lưỡng diện. Xuyên suốt tác phẩm, độc giả dễ dàng nhận thấy ý chí quyết tâm của Quang khi muốn giết sạch những người lính bảo vệ Thành Cổ. Quang là điển hình của những tên giặc khát máu, nuôi lý tưởng “cao đẹp” bằng cách xâm lăng và bành trướng để phục vụ cho cái mưu đồ chính trị thối nát kia. Tuy nhiên, đó chỉ là những sắc thái nằm trong phạm vi trận mạc. Bước ra khỏi phạm vi ấy, Quang gột rửa hình ảnh của một kẻ “man rợ”, trở về tâm thức của một con người có lòng thương, ít nhất là đối với người dân vô tội: “Tiên sư bọn Mẽo! Chúng mày lòi tròng hả? Đạn rơi hết vào đầu dân rồi! Chuyển làn sang phải đi!”[3; tr.56]. Thậm chí trong cơn say, Quang cũng tự hạ mình đem lòng ngưỡng mộ, khâm phục những “kẻ địch phía bên kia” – những con người với phong thái oai hùng, gan dạ đã khiến Quang không thể nào dứt bỏ suy nghĩ: “Cậu thấy cái đầu tôi kỳ cục không? Khi tôn vinh tôi là một sĩ quan hắc báo có tư tưởng chống Cộng khét tiếng nhưng họ đâu có biết rằng, ít nhất hai người phía bên kia đã khiến tôi ám ảnh, thậm chí cảm phục và ... yêu thương” [3; tr.178]. Ở Quang có một sự minh bạch trong lý tưởng, rạch ròi trong ý niệm. Không phải lúc nào đối phương cũng xứng đáng nhận lại những điều cực đoan và miệt thị, không phải lúc nào đồng đội mình cũng toàn những người cao đẹp. Quang đã sống và chiến đấu hết lòng cho lý tưởng mà mình mang theo, trong cái bản năng thích thử thách, thích chiến đấu, dám thể hiện bản thân mình trên trận chiến một mất một còn. Dù là phía ta hay phía địch, dù là bên này hay bên kia, khi đã lựa chọn cho mình một chiến tuyến nhất định thì các nhân vật luôn hết lòng phục vụ cho cái gọi là “lý tưởng”. Lý tưởng có thể sai trong mắt người này, nhưng là giá trị chân chính trong quan điểm của người khác. Suy cho cùng, Chu Lai đã cởi trói cho tâm thức người đọc, mở ra một cách nhìn hoàn toàn khác khi tiếp cận từng nhân vật trong tác phẩm. Ở “Mưa đỏ” không còn tồn tại lý tưởng tuyệt đối, mà điều còn lại sau tất cả là giá trị tuyệt đối của con người. Quá khứ hay hiện tại, lịch sử hay văn chương, dẫu ở bất cứ khía cạnh nào cũng luôn cần có ánh sáng lý tưởng, con người lý tưởng. Việc xây dựng kiểu nhân vật lý tưởng trong “Mưa đỏ” đã khắc họa sâu sắc những ý niệm của nhà văn Chu Lai trong quá trình phục dựng con người và lịch sử. Ở đó, Chu Lai đã nhìn nhận và tái tạo lịch sử bằng đôi mắt thẩm mỹ đa chiều của mình, đem đến cho độc giả một cảm quan mới trong hình dung về dáng vẻ anh hùng của người lính đi từ những trận chiến chân thực vào tác phẩm văn chương. Đồng thời, nhà văn cũng đã sâu kín gửi gắm vào tác phẩm cách nhìn nhận của riêng mình, tái hiện diễn ngôn lịch sử thông qua kiểu nhân vật lý tưởng từ góc nhìn của sự diễn giải, của số phận và mục đích của mỗi cá nhân. 2.2. Nhân vật lịch sử với sự chấn thương tâm lý Hầu hết các nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai đều là những nhân vật được tái hiện từ góc nhìn tâm lý. Nhà văn đi sâu vào khám phá, mổ xẻ những chiều kích tâm lý khác nhau nhằm 6
  7. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN | 12/2019 lý giải cho hành động của chính nhân vật đó. Và hiển nhiên, đời sống nội tâm của các nhân vật cũng được biến động không ngừng, tạo nên một thế giới bên trong con người đa chiều, đa sắc. Ở “Mưa đỏ”, Chu Lai không chỉ đào sâu vào góc khuất tâm lý của các nhân vật mà ông còn truy nguyên quá khứ, tìm ra cội nguồn làm nên những chấn thương tâm lý nghiêm trọng. Cuốn tiểu thuyết đã khiến cho bất cứ ai trong số chúng ta cũng có cảm giác “chưng đọng tâm hồn”. Sự tài tình trong cách miêu tả tâm lý nhân vật của Chu Lai đã chạm đáy nỗi đau của nhiều người, chạm đến những vấn đề nhạy cảm nhất nhưng chân thực nhất. Đó là khi người đọc tình cờ biết được thế giới nội tâm phức tạp của Bình vẩu hay Hải gù trong những đêm chiến tranh khó ngủ. Họ đem câu chuyện cuộc đời mình để tâm sự, họ thản nhiên trải dài những kí ức không mấy vui tươi vào màn đêm hoang lạnh, trong cái thời khắc mà họ thấy cô đơn nhất, nhung nhớ nhất và bất lực nhất. Quá khứ của mỗi nhân vật dần hiện ra, phần nào cởi bỏ những lớp xiêm y can trường, cứng nhắc của một người anh hùng trên mặt trận. Thực chất, họ cũng chỉ là nạn nhân của những nỗi đau tinh thần, của những ẩn ức tâm lý không thể nào xóa nhòa được. Mà có lẽ, nếu phải vùi mình vào chiến trận đến ngạt thở, những kí ức đó cũng khó có thể rời khỏi tâm can. Nỗi lòng khó nói của Hải gù được bộc lộ trong một lần tâm sự với Cường. Khi anh nhất quyết không chấp thuận yêu cầu của Trung đoàn điều lên Ban tác chiến. Với Hải, được ở lại cùng với anh em không chỉ bởi vì tinh thần đồng đội, mà sâu xa ngọn ngành lại xuất phát từ mong muốn “rửa lý lịch” – lý do duy nhất thúc đẩy anh bước vào vòng tuyến đẫm máu này. Trong cái khốn cùng của một gia đình có tất cả nhưng không có tấm bằng liệt sĩ, Hải chấp nhận ra đi, để tìm lấy một cái chết, một sự hy sinh trên danh nghĩa liệt sĩ nhằm cứu rỗi cơn an nguy của gia đình. Nhưng khi thực sự đối mặt với cái chết, anh lại cảm thấy những mục đích trước đây quá đỗi tầm thường: “Rửa lý lịch ư? Sao lại phải rửa? Mà có cần phải rửa chăng nữa thì trước hết là rửa danh dự, rửa lòng tự trọng trước thế lực thù địch, trước tà khí đang hiện diện trước mặt kia” [3; tr.322]. Có lẽ, chính những sự khắc nghiệt và hoang tàn trong chiến tranh, chính cái vòng tròn sinh tử cứ lặp đi lặp lại, chính những buồn vui mất mát đến tột cùng trong những ngày vừa qua đủ khiến Hải nhận ra cái gì mới thực sự thiêng liêng, ý nghĩa. Và trước thời khắc có được tấm bằng liệt sĩ đặt lên bàn thờ cho bằng với người ta, Hải cũng đã không còn quan trọng quá nhiều đến nó nữa. Anh đã sống và chiến đấu như một người lính đầy nghĩa khí. Đến lúc chết, người lính ấy, không phải rửa, mà đã “hóa” đi lý lịch, quá khứ buồn đau của mình bằng một ngọn lửa tự tôn, anh hùng như thế. Rẽ vào thế giới nội tâm của Bình, đó không chỉ là niềm đau, mà còn là một sự nhục nhã, khủng khiếp hằn sâu trong tâm thức của chàng thanh niên mười chín tuổi. Thời đó, cái nghèo đeo bám anh, khiến anh phải lún sâu vào con đường “tội lỗi”, trong mối quan hệ yêu đương trụy lạc cùng người đàn bà giàu có“hơn anh gần hai chục tuổi đã ly dị chồng nhưng còn đẹp, còn mỡ màng” [3; tr.164]. Dù thoát nghèo, nhưng dần dà anh trở nên sợ hãi. Và cũng từ những đêm truy hoan mang tính tra tấn ấy, Bình mất ngủ, tâm lý của anh ngày càng khủng hoảng và nặng nề hơn. Đỉnh điểm của sự chấn thương là khi anh nhận lại những câu nói táng tận lương tâm, độc địa và nhầy nhụa phun ra từ miệng của người đàn bà đã từng một thời ân ái. Trong sự nhục nhã đến vô tận, trong những vết thương tinh thần ngày càng lớn, Bình quyết định ra đi theo lệnh tổng động viên – ra đi như một kẻ trốn chạy quá khứ, như một sự cứu rỗi cuối cùng sau ngần ấy nỗi đau mà anh gánh chịu. Cả Bình vẩu và Hải gù là minh chứng hiện sinh cho một đời sống nội tâm dai dẳng nhưng phức tạp, bởi những tâm lý bị ảnh hưởng tiêu cực và chấn thương sâu sắc. Quá rõ ràng, Chu Lai đã mở ra trước mắt chúng ta những góc khuất của đời lính, đi từ thực tiễn đời sống vào văn chương. Những góc khuất ấy là khía cạnh thăm thẳm nhất, đau thương nhất, nhưng không kém phần chân thật nhất của một kiếp người. 7
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKH 2019 Phục dựng tâm lý con người với những nỗi đau và bi kịch vốn đã là một thử thách. Tuy nhiên, Chu Lai đã vượt ra khỏi ranh giới của thử thách ấy khi ông đã toàn vẹn gửi gắm tất cả những tâm tình, những góc khuất, đời tư và số phận của người lính từ hiện thực vào văn chương. Nhờ vào kiểu nhân vật với sự chấn thương tâm lý, độc giả bất giác nhận ra những hiện thực trái ngang, bất hạnh và vô vàn cảm xúc trong phạm vi chiến trận – điều mà hiếm khi thấy được rõ nét ở một ấn phẩm văn chương nào. Thông qua đó, Chu Lai đã góp phần kiến tạo diễn ngôn lịch sử đi từ góc nhìn của những chấn thương tâm lý và bi kịch, của số phận con người, của những nỗi đau đời lính mãi mãi còn nguyên vẹn. 2.3. Nhân vật lịch sử với sự chuyển biến tính cách Tính cách là một đặc thù riêng biệt của mỗi nhân vật được nhà văn ưu ái xây dựng và tạo lập một khoảng trống để phát triển. Nhân vật tính cách là “một kiểu nhân vật phức tạp được miêu tả trong tác phẩm như một nhân cách, một cá nhân có tính nổi bật” [4; tr.232]. Tuy nhiên với “Mưa đỏ”, nhân vật của Chu Lai không chỉ dừng lại ở một đặc điểm tính cách nhất định, mà nó còn là sự dịch chuyển tính cách đi từ tốt đẹp về xấu xa, từ nghĩa khí đến đê hèn. Cũng có trường hợp, Chu Lai mặc nhiên cho nhân vật của mình phát triển tính cách theo chiều hướng tự thân, nghĩa là sau quá trình chịu ảnh hưởng và tác động từ những yếu tố bên ngoài, nhân vật ấy ngày càng biến đổi, rời xa những bản năng vốn có để trở thành một con người hoàn hảo hơn trong lý tưởng, trưởng thành hơn trong tinh thần. Trước hết, sự chuyển biến tính cách mang nghĩa tiêu cực, đi từ phẩm chất tốt đẹp về cái đớn hèn được biểu lộ rõ nhất qua nhân vật Sen. Ở Sen bộc lộ rõ sự khờ dại, cùng với “khoảng tối sâu thẳm” của lòng tham còn rơi rớt trong tâm hồn người lính sau tất cả những vinh quang hay chiến công lẫy lừng. Chu Lai đã đi sâu khám phá những ngóc ngách sâu kín bên trong nhân vật, và như một sự tình cờ có chủ ý, nhà văn khiến người đọc dần nhận ra một bức tranh chiến trận với đầy đủ các gam màu đại diện cho tư chất của đời lính. Bên cạnh những gam màu tươi sáng là biểu tượng của khí chất hiên ngang, sự dũng mãnh trí cường. Đâu đó vẫn ẩn tàng những gam màu tối tăm – gam màu của bi kịch, của sự khốn khổ, của những nhân cách xấu xa vẫn còn tồn đọng trong con người. Hình ảnh của Sen là một gam màu tăm tối như vậy! Ngay từ đầu, độc giả biết đến Sen như là nguyên mẫu của một lý tưởng chân chính. Từ việc chăm lo, giáo huấn, tôi luyện công tác tư tưởng cho anh em trong đội, đến những cách thức tiến công, những phương pháp đánh trận cũng được Sen vận dụng một cách thuần thục, phát huy tối đa vai trò của một tiểu đội phó can trường, là bức tường thành vững chắc cho lòng tin của đồng đội. Sen trong mắt mọi người là một cán bộ thích lí luận, nhưng những lí luận của anh xuất phát từ sự nhạy bén trong cách quan sát, từ tình yêu thương và lòng cảm thông bởi những thiếu thốn, những khó khăn trong không gian chiến trận. Khi đề cập đến thực trạng hôi của, Sen có sự phản kháng một cách mạnh mẽ: “Trong chiến đấu, hôi của là một hành vi không thể tha thứ được, nó làm tổn thương nghiêm trọng đến phẩm chất và nhuệ khí chiến đấu của người lính” [3; tr.130]. Ở Sen là sự nhất quán, nghiêm khắc về tư tưởng, về tính chất chính nghĩa của một người lính thực thụ. Nhưng thật đáng buồn khi tư cách đẹp đẽ ấy lại không thể kéo dài xuyên suốt tác phẩm. Trải qua nhiều trận chiến đẫm máu, cam go và ác liệt, sự ngay thẳng và chính trực của Sen dần dà bị thao túng bởi hiện thực chiến tranh phũ phàng. Nhân cách của anh trở nên tha hóa, con người của anh như bị hủy hoại. Sen bỗng nhiên điên rồ trong giả tưởng. Anh dần đánh mất đi những bản nguyên tốt đẹp, những chân lý mẫu mực trước đây của mình. Và trong sự lợi dụng cái điên rồ ảo giác ấy, Sen lại trở thành một người lính hôi của thực thụ. Những lon hộp, tiền bạc ngụy, đồng hồ, nhẫn xuyến, dây chuyền,... hiện ra như cái kết của một sự thật bẽ bàng. Cái kết của sự tha hóa. Cái kết vô nghĩa của lòng tham, của những góc khuất tăm tối trong chiến tranh. Cái kết của một kiếp người không còn sức gánh chịu sự tù túng, bất lực, không còn can đảm làm theo những chân lí sống, những giá trị sống như trước đây. 8
  9. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN | 12/2019 Tạm rời khỏi những biến chuyển tính cách mang hơi hướng tiêu cực, bất giác ta vẫn thấy được tình yêu và khát vọng của các nhân vật trong tác phẩm – là điểm tựa duy nhất để cải tạo con người. Nhân vật Tú xuất hiện khiến người đọc có niềm tin hơn trong quá trình tôi luyện và hoàn thiện bản thân. Vốn là một cậu bé chỉ mười sáu tuổi, chấp nhận khai gian để có thể hòa mình vào không khí của chiến trận. Tú được ví như một tượng đài của người anh hùng trẻ tuổi. Ở độ tuổi còn chưa thể định nghĩa được khái niệm sống – chết trong chiến tranh ác liệt như thế nào, nhưng sự gan dạ, can tràng đã khiến Tú dám bước chân vào vòng tuyến sinh tử, dám hòa mình vào những trận đánh khốc liệt. Tuy nhiên, vì cái bản năng trẻ con vẫn còn hiện diện trong mình, nên khi đợt pháo đầu tiên xuất hiện, “Tú hai tay bưng chặt lấy đầu, mỗi tiếng rít lại khiến cậu co rúm lại, mỗi tiếng nổ lại làm toàn thân cậu giật nảy lên” [3; tr.92], rồi “đôi mắt trẻ thơ của Tú cũng kinh hãi dán vào đó, hai mắt bạc phếch như muốn lồi ra, toàn thân tê dại như nửa đêm phải đứng trước một cái xác sống kinh dị” [3; tr.96]. Tú trốn chạy về đằng sau – không phải vì hèn mà là vì sự thật của chiến tranh quá khác xa so với những gì cậu tưởng tượng. Bản chất ngây thơ của một cậu bé mới trưởng thành dường như không thể lí giải nổi cho những sự thật hoang tàn, tang tóc ngay trước mắt. Nhưng có lẽ nhờ vào những trải nghiệm đầu tiên mang tính chất thử thách ấy, Tú đã lột xác thành một người lính thực thụ, đã trưởng thành và đủ nhận thức được thế nào là chiến tranh. Quá trình lột xác ấy đã khiến Tú trở nên anh hùng lúc nào không hay – một anh hùng với trái tim non nớt, ngây thơ; một anh hùng có đôi mắt nhìn đời thật hồn nhiên, tích cực; và là một anh hùng sẵn sàng lao lên che đỡ luồng đạn cho người đồng đội thân thương của mình. Sự hy sinh của Tú giữa dòng sông sâu hoẳm, hoang lạnh là một biểu tượng bất diệt của lòng can đảm. Không chỉ trở thành người lính thực thụ, cậu bé Tú non nớt ngày nào còn là minh chứng hùng hồn cho lòng yêu nước, tinh thần đồng đội thiêng liêng, cho những chân lý vĩnh hằng không điều gì có thể thay đổi. Năm mười sáu tuổi, Tú đã mãi mãi ra đi, biến vào hư vô giữa dòng Thạch Hãn... Xét cho đến cùng, những sự chuyển biến tính cách của nhân vật trong “Mưa đỏ” phần nào đặc tả những góc khuất đa chiều của chiến tranh. Độc giả tiếp nhận tác phẩm trên một tinh thần sáng suốt và công minh nhất, bởi “Mưa đỏ” là sự tổng hòa của những mặt tốt – xấu, thiện – ác khác nhau. Cũng có thể nói, việc xây dựng hình tượng nhân vật hoàn thiện/ khuyết lấp nhân cách cũng là một phương diện thể hiện sâu sắc dụng ý nhà văn. Ở đó, mỗi nhân vật sẽ tự soi xét mình, khám phá bản thân, tự đem đến cho người đọc một thế giới tinh thần đa dạng, góp phần thế hiện tư tưởng nhân văn của tác phẩm. 2.4. Nhân vật lịch sử từ góc nhìn phản diện Nói về khái niệm nhân vật phản diện trong văn học, từ điển Bách khoa toàn thư đã nhận định: “Nhân vật phản diện là một hiện tượng lịch sử, hay còn gọi là nhân vật tiêu cực, nhằm nói đến những người mang phẩm chất xấu xa, trái với đạo lý và lý tưởng của con người, được nhà văn miêu tả trong tác phẩm với thái độ chế giễu, lên án, phủ định” [5]. Nhân vật phản diện không còn là một kiểu nhân vật xa lạ trong sự tiếp cận các tác phẩm văn chương từ xưa đến nay. Tuy nhiên theo thời gian, những tính chất và đặc điểm quy định một nhân vật phản diện cũng có sự thay đổi. Với “Mưa đỏ”, nhân vật phản diện không hẳn là những người mang lý tưởng chiến tranh phi nghĩa, cũng không phải kiểu người cầm súng tàn diệt mạng sống của đối phương. Bởi như chúng tôi đã đề cập ở trên, không một ai hoàn toàn tốt đẹp trong cuộc chiến và cũng chẳng có bên nào hoàn toàn xấu xa sau chiến tranh. Vậy nên, với quan điểm của người nghiên cứu, nhân vật phản diện xuất hiện trong tiểu thuyết “Mưa đỏ” là “kiểu người chuyên dùng những mưu mô, toan tính của bản thân để làm hại người khác, bất kể người đó có là địch hay đồng đội của mình”. Theo hướng khai thác trên, người đọc dễ dàng bắt gặp hình ảnh của Toán phó Thái trong vai trò là một nhân vật phản diện đầy mưu đồ thâm hiểm. 9
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKH 2019 Toán phó Thái xuất hiện với tư cách là một tên lính dưới quyền của Quang. Ở Thái có sự dã tâm tàn sát mạng sống con người, cùng với những tính cách man rợ của một gã “khát máu”. Dường như chính sự bạo tàn của con quỷ không có lòng thương đã khiến Thái luôn rơi vào trạng thái ganh ghét, phục thù người chỉ huy tên Quang của mình. Sự góp mặt của Thái trong “Mưa đỏ” như một dụng ý của Chu Lai nhằm khắc họa rõ nét những mảnh ghép của các kiểu người có thật trong thời đại chiến tranh. Ở không gian sục sôi máu lửa ấy, không phải ai là đồng đội cũng có thể hoàn toàn đặt niềm tin lẫn nhau. Không phải ai là lính cũng một lòng trung thành phục vụ vị tướng của mình. Thái là minh chứng cho những con người phản diện. Bởi ngay từ đầu, động cơ của Thái và Quang là hoàn toàn khác nhau. Nếu Quang gia nhập vào vòng tròn sinh tử chỉ vì bản tính muốn thử thách, thì Thái là đại diện những con người thích danh dự, quyền lực và sự giàu có trong chiến tranh. Người đọc dễ dàng nhận ra ở Thái có một sự thèm khát, háo thắng trong mọi trận đánh. Và hiển nhiên, những sự toan tính thâm độc và háo thắng luôn nhận lại kết cục xứng tầm. Nhân vật Phan Thái là điển hình cho sự phản bội. Chính sự phản bội ấy đã kết liễu cuộc đời của hai con người đại diện cho hai lý tưởng khác nhau. Nòng súng của Thái rung lên, hướng thẳng vào Quang và Cường. Đó cũng là nòng súng của kẻ bất nhân, của những sự dã tâm khắc nghiệt. Ở phạm vi cuộc chiến, “có một kẻ thù can đảm còn hơn có một thằng bạn thấp hèn”. Và có lẽ nhờ vào sự thấp hèn này, độc giả mới có thể hiểu hết được thế nào là những đa diện trong tính cách con người. Chiến tranh muôn màu, lòng dạ muôn vẻ. Khó có thể đi hết thế giới của những sự đố kị hay lòng tham. Và giá như, nếu có thể dùng tình yêu thương để cảm hóa, thì con người đã không còn gánh chịu nhiều điều đớn đau đến thế! Không có trận chiến nào là tốt đẹp, cũng chẳng có con người nào là hoàn toàn xấu xa. Với Chu Lai, cái ranh giới giữa thiện và ác, giữa cao quý và thấp hèn, giữa chính diện và phản diện dường như trải ra đồng đều cho tất cả các bên. Phải chăng nhờ thế mà độc giả mới có cơ hội cảm nhận hết được những mặt tốt/ xấu của các nhân vật, định hình rõ hơn những quan niệm có thiên hướng sai lệch của mình. Với kiểu nhân vật phản diện, Chu Lai đã thể hiện rõ ràng một quan niệm hoàn toàn mới trong việc kiến tạo diễn ngôn nhân vật lịch sử: Dù là phía bên này hay bên kia, dù lý tưởng có chính nghĩa hay phi nghĩa, tuy nhiên, những con người với tâm tính xấu, với mưu đồ phản hại đồng đội, với lòng vị kỉ thấp hèn luôn xứng đáng nhận lại những kết cục bi thảm, bởi nhân cách là thứ ánh sáng duy nhất có thể duy trì niềm tin trên con đường mà ta đã chọn. Chu Lai đã vẽ ra một bức tranh đa diện về lòng tham con người, chân thật ở chiến trận lịch sử bao nhiêu thì soi chiếu vào trong văn học cũng sắc nét bấy nhiêu như thế! 3. KẾT LUẬN Từ những hướng tiếp cận vấn đề diễn ngôn lịch sử thông qua hệ thống nhân vật mà chúng tôi đã phân tích ở trên, Chu Lai đã giúp người đọc tìm ra được những bản nguyên con người trong lịch sử; tái hiện các góc khuất, đời tư, suy nghĩ, tính cách, nỗi niềm... của từng nhân vật dưới nhiều góc độ khác nhau. Góp phần kiến tạo và làm hoàn thiện hơn nữa lý thuyết diễn ngôn khi đem đối sánh với phạm vi của một cuốn tiểu thuyết lịch sử. Khám phá thế giới nhân vật để đưa vào tác phẩm của mình, nhà văn đã thu nhỏ khoảng cách giữa khía cạnh lịch sử đến sự chi phối cách phê bình trong văn chương. Từ đó, nhà văn có thể tự tạo ra khoảng trống để người đọc có điều kiện chấp nhận cái nhìn đa nguyên, đa chiều về văn hóa và lịch sử. Nhờ việc nắm bắt tài tình cái vi mạch trong sự chuyển biến đa dạng các kiểu nhân vật lịch sử, Chu Lai đã mở ra trong thế giới người đọc những hướng tiếp cận khác nhau. Đồng thời, nhà văn đã ngầm khẳng định một nguyên lí bất di bất dịch trong quan niệm lý luận văn học hiện đại: Không có một chân lí lịch sử nào là hoàn toàn đúng, không có một hệ hình diễn ngôn lịch sử nào là hoàn toàn sai. Cái quan trọng đầu tiên và trước hết trong quan điểm tiếp nhận là phải xuất phát từ chủ 10
  11. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN | 12/2019 quan của con người. Diễn ngôn lịch sử cho phép độc giả sử dụng góc nhìn chủ quan, và chính góc nhìn đó sẽ tác động phần lớn đến quan điểm phê bình và luận giải tác phẩm. Các nhân vật trong tiểu thuyết “Mưa đỏ” đã dừng lại cuộc đời của họ, nhưng sự tiếp diễn trong tâm thức người đọc sẽ còn vang vọng mãi đến đời sau. Lịch sử vẫn còn, văn chương vẫn còn, và cái nhìn của độc giả đến mỗi nhân vật lịch sử sẽ mãi mãi nguyên vẹn như thế! TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Văn Hùng (2016). Những hình thái diễn ngôn mới trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau đổi mới, Tạp chí Sông Hương, số 326/4. [2] Phương Lựu (chủ biên) (2004). Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [3] Chu Lai (2018). Mưa đỏ, NXB Văn học, Hà Nội. [4] Tôn Phương Lan (2009). Nguyễn Minh Châu - Tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục, Hà Nội. [5] Bách khoa toàn thư mở (2017). Nhân vật phản diện, 24/05/2017, https://tudienwiki.com/nhan- vat-phan-dien/. 11
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKH 2019 YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỜI KHỔNG LỒ NGỦ QUÊN CỦA KAZUO ISHIGURO NHÌN TỪ BIỂU TƯỢNG NGUYỄN TỪ NHẬT GIANG Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế Email: nguyentunhatgiang@gmail.com Tóm tắt: Lấy nước Anh thời kì hậu Vua Arthur với những sinh vật huyền bí làm bối cảnh chính của truyện, lấy chuyến phiêu lưu của đôi vợ chồng già Axl và Beatrice để phục dựng kí ức cá nhân và hóa giải những tồn nghi lịch sử, Kazuo Ishiguro đã mang đến cho sự thưởng ngoạn thẩm mĩ của độc giả những hứng khoái thâm trầm về một tiểu thuyết đậm đặc yếu tố kì ảo. Bài viết này nghiên cứu về yếu tố kì ảo thông qua việc giải mã các biểu tượng, khai mở sự thẩm thấu về cái cần nhớ và mong muốn được quên đi, về sự tử vong như một kiểu tự ý thức,... từ đó gợi dẫn cho độc giả đường hướng tiếp nhận những giá trị đượm đầy mà văn chương của ông mang lại. Từ khóa: Biểu tượng, người khổng lồ, màn sương, cái chết, Kazuo Ishiguro. 1. MỞ ĐẦU Yếu tố kì ảo, một “khối tình lỡ” khởi từ văn hóa folklore, cho đến ngày nay mới thực sự được quan tâm và trở thành đối tượng hấp dẫn của giới nghiên cứu, phê bình ở Việt Nam. Các học giả đã tìm thấy trong thời viễn cổ những di chỉ của lĩnh vực lí luận đầy mời gọi này, từ đó khai phóng những vấn đề hiển lộ hay những vỉa quặng ngầm về bản chất phức tạp và ảnh hưởng mạnh mẽ của nó. Trong quá trình thụ hưởng những giá trị tinh hoa của yếu tố kì ảo được bảo lưu qua các thời kì, chúng tôi nhận thấy, một mặt khẳng định đặc trưng lưỡng lự của độc giả mang tâm trí văn minh khi được dẫn dắt vào mê lộ nghệ thuật của logic tưởng tượng ở cấp độ cao; mặt khác phản ánh sự phá vỡ, xâm lấn, vượt thoát khỏi đường biên trật tự cố định, quy tắc bất biến, quy luật tự nhiên. Giữa thế giới đa sắc khí, nhiều chiều kích của con sư tử văn chương, mảng tiểu thuyết giả tưởng huyền ảo là mảnh đất màu mỡ để các chủ thể sáng tạo quy chiếu những chiều sâu suy cảm về con người và thời cuộc. Chính vì thế, nghiên cứu về yếu tố kì ảo trong một cuốn tiểu thuyết giả tưởng huyền ảo là cách nhận thức sâu sắc, đồng điệu nhất khi sống trong một xã hội có thiên hướng lý giải những ẩn ức thông qua một thực thể người đang mải miết với hành trình đi tìm cái vong thân vong bản. Hướng nghiên cứu này cũng dấn nhập vào đời sống nghệ thuật sự nhạy bén trong kiến giải, sự đột phá trong kiến tạo, sự hăm hở trong thể nghiệm; giúp bung thoát khỏi những cây cao bóng cả trong quá khứ mang tinh thần duy khoa học, duy lí tính, từ đó tạo nên sự hòa thanh, hòa điệu, hợp nhất, hợp thể giữa con người - vũ trụ - thế lực siêu nhiên. Soi chiếu yếu tố kì ảo không chỉ dưới phương diện nhân vật, cốt truyện, không - thời gian nghệ thuật, mà chúng tôi còn thi triển vấn đề này qua việc giải mã hệ thống biểu tượng. Có những biểu tượng là mẫu gốc chung của nhân loại, lại có những biểu tượng được thoát thai từ tâm thức của cộng đồng diễn giải khi kiến tạo những giá trị của một tác phẩm văn học. Khắc sâu trong hoạt động tiến hóa toàn vẹn của con người, biểu tượng “làm phát lộ những bí ẩn của vô thức, của hành động, khai mở trí tuệ về cái chưa biết và cái vô tận” [1]. Trưởng thành trong cuộc hôn phối giữa hai nền văn hóa Đông và Tây, với Người khổng lồ ngủ quên, Kazuo Ishiguro đã tạo sinh những biểu tượng thấm đượm giá trị nhân sinh quấn quyện giữa chất Nhật và chất Anh, mang những nội hàm đầy bí ẩn và đầy ám gợi, khơi nguồn cho độc giả đường hướng tiếp nhận những giá trị lay động, thức tỉnh mà văn chương của ông đem lại. 12
  13. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN | 12/2019 2. NỘI DUNG Để giải mã biểu tượng trong tiểu thuyết Người khổng lồ ngủ quên của Kazuo Ishiguro, chúng tôi đi từ biểu tượng người khổng lồ kết hợp với biểu tượng màn sương, đến biểu tượng cái chết được thể nghiệm trong sự dung thân, đan cài của các biểu tượng con. 2.1. Biểu tượng người khổng lồ - gã quái nhân ngủ quên mang di sản kí ức phân mảnh về cõi nhân sinh rỗng rượi, rạn vỡ Biểu tượng người khổng lồ là xung năng cơ bản thúc đẩy mạch ngầm của cuốn tiểu thuyết Người khổng lồ ngủ quên. Mặc dù được đề cập với dung lượng khá khiêm tốn - tại thời điểm xuất phát chuyến phiêu lưu của đôi vợ chồng già, khi Beatrice dặn dò Axl về mô đất thực chất “là đoạn lối đi chạy qua chỗ chôn người khổng lồ” [4, tr.44], và tại thời điểm kết thúc chuyến hành trình tái khám phá thế giới, nhận thức lại thực tại của các nhân vật, “người khổng lồ từng bị chôn kín thì nay đã bắt đầu cựa quậy” [4, tr.417] - thế nhưng linh khí của biểu tượng này luôn ẩn mình và thường trực ám bủa toàn bộ môi sinh của tác phẩm. Là hình ảnh tầm thường “của sự phát triển thái quá về phía những bản năng xác thịt và thú tính”, sinh vật này ra đời với mục đích “nhóm lại những cuộc giao tranh của các Titan” [1, tr.488]. Cách thức để tiêu diệt nó nằm ở những đòn đánh phối kết của một vị thần và một phàm nhân. Sục sâu vào cuốn tiểu thuyết, về bản chất, biểu tượng này phúng dụ cho bi kịch của nhân loại: lòng hận thù trong tình yêu, trong chiến tranh tưởng chừng đã được vùi lấp. Quái nhân đang “ngủ quên” tại nơi mà nữ thần Đất sinh ra nó, nhưng dưới lòng sâu, gã vẫn âm ỉ máu nóng giận dữ, đến một thời điểm nào đó liền bật dậy, bùng phát với sức hủy diệt kinh hoàng, hệt những nhát dao mỏng đầy sắc lạnh về thế giới đang hiện tồn, nơi ngổng ngang bao thân kiếp đang hoang hoải đối mặt với một điều gì đó vừa hiện hữu, vừa mơ hồ, mong manh. Beatrice thận trọng nhắc nhở Axl, rằng “giẫm lên nấm mồ ấy sẽ chẳng mang lại chuyện gì tốt đẹp” [4, tr.45]. Cố nhiên, lòng hận thù luôn tồn tại những mầm bất ổn, sẽ là bất hạnh nếu con người bất cẩn chạm nhẹ hoặc đào xới nó. Để chôn lấp người khổng lồ, Kazuo Ishiguro đã sử dụng công cụ màn sương. Là nhà văn lưu vong luôn đau đáu bản sắc văn hóa của cố quốc, kỹ xảo kasumi trong hội họa emakimono (hình thức tranh cuộn) - kỹ xảo làm cho các sự vật trở nên mơ hồ và tạo ảo giác về chiều sâu của không gian bằng những nét vẽ sương mù nằm ngang hay thẳng đứng - đã tiếp tục sinh mệnh của nó khi được nhà văn tái tạo vào đứa con tòng thuộc Người khổng lồ ngủ quên. Với bản chất không xác định, màn sương là biểu trưng cho “một sự rối loạn trong diễn biến câu chuyện, một sự chuyển giai đoạn, một sự chuyển bước quái dị hoặc huyền diệu hơn trước” [1, tr.841]. Là biểu tượng ám ảnh xuyên trùm với tần suất cao trong cuốn tiểu thuyết, màn sương được tạc dựng ngay từ những dòng văn mở đầu gắn liền với hình ảnh thổ dân của vùng đất nước Anh – lũ quỷ ăn thịt người “khi mà hơi thở hổn hển của chúng vọng tới từ rất lâu, trước khi hình dáng quái dị của chúng hiện ra từ đám sương mù” [4, tr.7], “hoặc rằng thỉnh thoảng, một con quỷ có thể sẽ bắt đi một đứa trẻ rồi biến vào trong lớp sương mù” [4, tr.8], và nó có nguồn cơn từ lời nguyền vĩ đại của vị phù thủy thông thái Merlin phù chú lên hơi thở của con rồng cái Querig. Đi vào thế giới của Người khổng lồ ngủ quên, chính chi tiết vừa trích dẫn đã vang ngân dự báo về sự lấn lướt trắng trợn mà màn sương này mang lại: thứ vũ khí hủy diệt quá khứ; căn cốt của sự lãng quên; di sản kí ức mong manh - những mảnh ghép rời rạc, chắp nối về cõi nhân sinh rỗng rượi, rạn vỡ. Những mảnh ghép kí ức vợ - chồng: triệt tiêu sân hận, bất tận sân yêu Đôi vợ chồng già Axl và Beatrice đã sống một cuộc đời mơ hồ giữa làn sương mù không lúc nào khuất dạng. Cảm giác về một nỗi mất mát không tên cứ giày vò day dứt trong tim khi từng mảnh vụn kí ức đã trở về với Axl: khoảnh khắc nhỏ nhoi mà ông và đứa con trai cười vang 13
  14. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKH 2019 trong khu hầm ngầm. Và những sự kiện kì lạ cứ liên tiếp tràn đến trong tâm trí cũng như cuộc sống của Axl: người phụ nữ với mái tóc dài màu đỏ đóng vai trò trọng yếu trong làng, cô bé Marta nổi danh vì bạo dạn bị mất tích, cuộc tranh cãi nảy lửa về câu chuyện của hai người chăn cừu bắt gặp một con đại bàng đầu bạc, người lạ mặt ăn mặc tả tơi tăm tối. Mỗi một sự kiện đều xuất hiện “làn sương giá đang lan dần trên mặt đất” làm chứng nhân. Thế giới trong cuốn tiểu thuyết này vận hành bằng sự thống trị của căn bệnh lãng quên, và với cộng đồng người Briton, “không biết vì sao, quá khứ đã dần nhạt phai vào một đám sương mù dày như màn sương giăng trên các đầm lầy. Đơn giản là, dân làng không có nhu cầu nghĩ về quá khứ - kể cả quá khứ gần” [4, tr.12-13]. Nhưng chính niềm khắc khoải, trăn trở về những điều đã trôi qua là chất xúc tác mạnh mẽ để rồi Axl và Beatrice thực hiện chuyến hành trình đi tìm con trai. Đây đồng thời cũng là chuyến phiêu lưu kì lạ, dẫn dụ họ đến miền kí ức - người khổng lồ đã từ lâu bị chôn vùi. Trong cõi biên niên mập mờ của thời gian cuốn tiểu thuyết, màn sương phủ đã trở thành biểu tượng cho kí ức trong tình yêu bị lãng quên. Nó như tên trộm trong đêm tối, lẻn vào và đánh cắp tất thảy những cung bậc cảm xúc quý giá của cuộc sống hôn nhân. Cặp vợ chồng Axl và Beatrice tuy hai mà một, tưởng chừng luôn kết dính với nhau bởi chất keo của lòng tin và sự thủy chung, cho dù trí nhớ của họ đang bị thui chột bởi hơi thở của con rồng cái. Với Axl, ông luôn gọi vợ bằng cái tên trìu mến và nâng niu - công chúa của anh, và mối quan hệ của họ rất vững vàng, “tình yêu ấy bây giờ còn sâu sắc hơn cả khi chúng ta còn trẻ con ngốc nghếch”, “tình cảm trong trái tim anh dành cho em vẫn luôn luôn như một, nhớ hay quên cũng không thay đổi được gì” [4, tr.64]. Với Beatrice, khi cha Jonus hỏi về việc nếu phải đối mặt với những hồi ức không vui, bà hoan hỉ và rạng rỡ: “Tôi và Axl sẽ nhớ mãi cuộc sống bên nhau của chúng tôi, cho dù có thế nào, vì cuộc sống đó là tất cả những gì thân yêu nhất đối với chúng tôi”, và “Sẽ có cả những điều không hay trở lại với chúng tôi, có thể chúng sẽ khiến chúng tôi phải khóc hoặc run lên vì tức giận. Nhưng đó chính là cuộc sống chúng tôi đã chia sẻ với nhau còn gì?” [4, tr.219]. Trên chuyến phiêu lưu tái cấu trúc kí ức, lắp ghép những hồi cố loang chảy của đôi vợ chồng, độc giả sẽ nhận thấy sự tự tin đầy chắc chắn về tình, về đời, về những ý niệm bất biến dần trở mình thành mối nghi ngờ đầy sợ hãi. Nó khiến Beatrice lo lắng rằng chồng bà sẽ bỏ đi một lần nữa, “Axl ơi, đừng bỏ em ở lại đây. Đừng quên em” [4, tr.320], khiến Beatrice muốn “lùi lại và tránh xa” thay vì sánh bước cùng chồng, bởi bà đã nhớ lại cái đêm cô độc mà Axl“bỏ đi với một người trẻ hơn và xinh đẹp hơn mình” [4, tr.348]. Tại thời điểm kí ức đã sáng rõ, “thì ngoài những kỉ niệm đẹp có thể gắn kết con người, đồng thời cũng tồn tại những kỉ niệm đau đớn có thể chia cắt con người” [7]: đứa con trai đã qua đời, sự phản bội của Beatrice, góc nhỏ nhặt và đen tối trong trái tim của Axl luôn khát khao được trả thù vợ và con trai. Lúc này, những nhân vật phải sử dụng lí trí để lựa chọn, và họ đã nghiêng hẳn về phía triệt tiêu sân hận, bất tận sân yêu. Với họ, chính nhờ màn sương ấy mà vết thương cũ đã lành trở lại, “Chúa sẽ hiểu cách một cặp vợ chồng lớn tuổi yêu thương nhau trong tình cảm lâu dài và hiểu rằng những cái bóng âm u cũng đã góp phần làm nên tình yêu ấy” [4, tr.440]. Thiết nghĩ, kết thúc mở bằng chi tiết vượt trùng khơi qua đảo, dẫu cho nhân vật phải để người bạn đời độc bước sang sông trước mình, nhưng đó cũng là lời khẳng định sự thắng thế của tình yêu đích thực trước gã quái nhân hận thù để bắt đầu cuộc sống mới. Có thể nói, những nhân vật trong tác phẩm là những hữu thể bé mọn, vô danh, không có căn cước, nguồn gốc, và với họ, quá khứ rỗng toác, hiện tại đứt gãy, tương lai tăm tối. Hình trình lần tìm bản nguyên kí ức, cũng là hành trình đánh thức gã quái thú hận thù. Biểu tượng người khổng lồ còn mang ẩn ngữ “là một lời kêu gọi chủ nghĩa anh hùng của con người. Chúng thể hiện tất cả mọi cái mà con người cần phải chiến thắng để giải phóng và phát triển nhân cách của mình” [1, tr.488]. Chuyến phiêu lưu của đôi vợ chồng già là hành trình của lựa chọn hiện sinh - một khúc hoan ca để nhân vật biết rằng bản thân không phải là một nhân vị què quặt 14
  15. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN | 12/2019 trong cuộc đời đầy bất toàn này. Khi đang loay hoay, chới với, quay cuồng giữa nhớ và quên, tiếng vọng về bản thể âm vang hơn bao giờ hết, đôi vợ chồng già quyết tâm ra đi, như một hình thức nổi loạn, dấn thân. Khi đang trong tình trạng sống tách biệt ngoài rìa cộng đồng, ít tương thích, thiếu hòa hợp, nhiều ruồng rẫy, đôi vợ chồng già quyết tâm ra đi, như một hình thức đến với sự tự do. Bản thân Kazuo Ishiguro cũng là hiện thân của quá trình dịch chỗ, bật gốc, bứng khỏi địa dư và cội rễ Nhật Bản. “Lý lịch của Kazuo thuộc về một kiểu chân dung mà thời đại toàn cầu hóa thường lấy đó làm điều suy tư, bàn luận: rốt cuộc, căn cước của mỗi cá nhân là gì, nằm ở đâu, giữa một bên là quê nhà nguồn cội với một bên là trú xứ xa lạ?” [6]. Trong cuốn tiểu thuyết, những nhân vật ráo riết truy tìm bản thể, cũng hệt như người cha bú mớm cho nó, luôn ráo riết tra vấn về chất phương Đông và phương Tây, về quá khứ và hiện tại, về lãng quên, mất mát của sắc dân thiểu số và của các cá nhân đơn lẻ trước sức mạnh “phẳng hóa” đến mọi ngóc ngách. Nếu có cái nhìn trung thực về hiện cảnh của nhân loại, về những con người của kỉ nguyên hậu hiện đại, sẽ phơi bày được những trắc diện tâm lí của hiện thể. Đây chính là động thái thiết lập sự giao tế bền chặt giữa nhà văn và độc giả. Những mảnh ghép kí ức Briton - Saxon: bất tận sân hận, triệt tiêu sân yêu Quá khứ luôn ở trong hiện tại, theo cách này hay cách khác, nhưng để cho nó lấn át, chi phối hiện tại lại là một điều đáng bàn luận. Chuyến hành trình của đôi vợ chồng già Axl và Beatrice không chỉ chạm đến miền sâu, khuất, người nhất của cá nhân họ, mà đồng thời cũng lật trở những tồn nghi của lịch sử. Gã khổng lồ hận thù trong cuộc giao chiến đẫm máu giữa Briton và Saxon đang say ngủ, màn sương đã che phủ kí ức về sự mất mát và sự tang tóc, về nỗi đau thể xác và nỗi quặn thắt tâm hồn, về máu cuộn trong tim và lệ trào khóe mắt của cư dân hai tộc người, khiến Vua Arthur vĩ đại hàn gắn được những vết sẹo trong cương thổ mà ngài trị vì, “một người lữ hành đi qua đây hầu như không còn thấy một dấu tích gì hay một bóng đen ám ảnh nào còn sót lại nữa” [4, tr.154]. Hình ảnh người hiệp sĩ Gawain cưỡi con ngựa chiến Horace xuất hiện như một “già làng hát rong của cộng đồng” đang dẫn dắt câu chuyện lịch sử. Ông bảo vệ con rồng cái Querig đang quần thảo trong vùng, gián tiếp trợ lực cho màn sương thực hiện nhiệm vụ lu mờ trí nhớ con người. Bởi hơn ai hết, ông là phần tử chinh phạt bước ra từ cuộc thanh trừng tanh tưởi, ông biết rõ những thằng bé người Saxon “chẳng mấy chốc sẽ lớn lên thành những chiến binh, trong lòng cháy bỏng mong muốn được trả thù cho cha anh chúng đã ngã xuống hôm nay. Những bé gái kia sẽ sớm có mang rồi lại sinh ra nhiều đứa trẻ khác nữa, và cái vòng chém giết này sẽ không bao giờ kết thúc” [4, tr.297]. Ông muốn chấm dứt, dập tắt triệt để cái vòng xoáy xấu xa ấy. Trong tác phẩm, Wistan là nhân vật đặc biệt, vì dường như người chiến binh dũng cảm và thiện nghệ này không bị ảnh hưởng bởi làn sương mù khuất lấp kí ức. Và Wistan cũng là nhân vật duy nhất được Kazuo Ishiguro trao cho nguồn gốc xuất thân: đám lính người Briton bắt đi khỏi làng khi còn nhỏ, ngày đêm được huấn luyện kỹ năng để trở thành chiến binh trong quân đội, vì sự tác động hèn hạ của chúa đất Brennus mà bị những người anh em thân thiết quay lưng. Hàng loạt mũi tên của lòng hận thù khổng lồ được mài giũa từ tấm bé đã thành nét, thành ảnh khắc vào trong đáy sâu tâm thức của anh chàng chiến binh, để rồi Wistan trao truyền nó đến thế hệ hậu duệ - Edwin: “Hãy hứa với anh em sẽ căm thù dân Briton cho đến tận ngày em ngã xuống vì những vết thương trên mình hoặc vì những tháng năm tuổi tác đè nặng trên vai”, “sẽ nuôi dưỡng mối hận thù này trong tim. Và nếu em có cảm giác ngọn lửa thù hằng đang lập lòe muốn tắt lịm, hãy để ý che cho tới khi lửa lại bùng lên” [4, tr.339]. Anh cũng là người cương quyết giết chết con rồng cái sau khi chất nghi một câu hỏi đầy suy ngẫm: “Làm sao những vết thương cũ có thể lành lại trong khi lũ dòi bọ vẫn đang bám đầy xung quanh? Làm sao hòa bình dựa trên giết chóc và ngón bịp của thầy phù thủy có thể trường tồn cho thấu?” [4, tr.401]. Lòng căm phẫn đang bó bột, nay từng mảng thạch cao nứt vỡ, tung tóe, trào máu. Anh lựa chọn phe của bạo lực, bất tận sân hận, triệt tiêu sân yêu. Không 15
  16. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKH 2019 tỏ chút lòng khoan nhượng, bằng một nhát kiếm chí mạng, anh kết liễu Querig, làm sống dậy gã quái nhân tàn ác, đồng nghĩa với công cuộc báo thù được thực thi, mở đường cho dã tâm chinh phục sắp tới, như một lẽ tất yếu. Khi kí ức được phục dựng, màn sương ấy mở ra một thế giới lưỡng phân, thế giới lai, thế giới mà bản chất của nó là sự song hành, chồng quyện, xâm thực của thái cực này và thái cực khác: chiến tranh thì ngạo mạn tự đắc, hòa bình lại rúm ró nhàu nhĩ. Hòa bình chỉ là giả tạo, hiệp sĩ truyền bá đạo luật đình chiến chỉ là kẻ khờ mơ mộng hão huyền. Tiểu thuyết Người khổng lồ ngủ quên không phải là một lời tự sự lịch sử với những tư liệu thực chứng, cuộc chiến giữa Briton và Saxon được đặt ra không phải nhằm giải thiêng hay bôi đen hiện thực. Qua những biểu tượng, Kazuo Ishiguro đã giúp độc giả thiết lập mối tương thông với những vấn đề mang tính thời sự của thế giới đương đại, mà sự kiện “bài Do Thái” là một minh chứng điển hình. Lớn lên sau giai đoạn nước Đức Quốc xã dưới trướng nhà độc tài Adofl Hitler, thế hệ thứ hai đang dựng vành móng ngựa để phán xét, “vạch mặt” tội lỗi cha anh chính mình. Huyền thoại đổ vỡ nhân tính của “lò thiêu người ngày đêm tỏa nóng” Holocaust không bao giờ hoàn kết, đóng kín, nó ở đó như một chứng tích nhắc nhở chúng ta không được phép ngừng suy tưởng về cuộc sống, như một ngôi sao sáu cánh nhân tạo được ném lên bầu trời đêm để soi rọi vào cõi u minh. Cũng như thế, các cuộc chiến tranh nổ ra không phải khơi gợi hay nhân bản hận thù, mà nhằm mục đích để lịch sử không được phép tái diễn vòng lặp. Trong công cuộc gìn giữ kí ức cho thế hệ tương lai, mỗi quốc gia sẽ luôn tự cật vấn chính mình: Chiến tranh hay hòa bình? Nhớ hay quên? Bạn hay thù? Buông tay hay tiếp tục? Kháng cự hay tự giải thoát? Mặc cảm nhược tiểu hay tự tôn giống nòi? Dường như Kazuo Ishiguro đã cất tiếng lương tri về sự đấu tranh ở bình diện xã hội với mong muốn vươn đến thế giới đại đồng. “Kazuo Ishiguro là người đặc biệt quan tâm đến cách hiểu về quá khứ, nhưng ông không phải là một nhà văn kiểu Proust, ông ta không muốn chuộc lại quá khứ, ông ta đang khám phá điều mà bạn đã lãng quên để hồi sinh ngay tại thời điểm đầu tiên” [2]. Chính vậy, bằng nội lực của một người cầm bút “chân phương, tiết chế, thận trọng và trang nghiêm” (Independent), Kazuo Ishiguro đã đặt ra vấn đề về phương cách chúng ta đối diện, thấu hiểu và giải quyết quá khứ. Như những mảnh vỡ và như những phiến đoạn chia cắt, biểu tượng người khổng lồ và biểu tượng màn sương đã bóc phơi những man trá, bịa đặt, những sáo rỗng, nhàm nhảm, những vô nghĩa lí, mê lú,... của cõi người. Chúng ta đang sống trong thời đại “mất chúa”, trong sự thất thoát niềm tin vào các hệ thống chính trị, trong trạng huống hoài nghi cái ngã của mình, sẽ có vô vàn những người như Axl và những người như Beatrice, những kẻ như Wistan và những kẻ như Gawain, bởi lý tưởng và mưu cầu của họ rất đa dạng. Nếu muốn hạnh phúc và yên hòa đích thực, thì không thể lấp liếm, đậy điệm gã quái nhân hận thù bằng dối trá và tạm bợ. Thay vào đó, phải dõng dạc nhìn thẳng và nhìn thấu vào chân xác sự thật, có những lựa chọn sáng suốt và minh mẫn phối kết giữa cái lý và cái tình, từ đó giúp hiện tại ứng xử chính xác và nhân văn hơn với quá khứ. 2.2. Biểu tượng cái chết - sự hủy diệt, tiêu vong trong danh dự, lý tưởng và sự thắng thế các thế lực huyền bí, đen tối Từ thoạt kỳ thủy, nhân loại luôn bị ám ảnh bởi cái chết. “Vẫn là chủ đề lo âu, buồn thảm” [3], cái chết được xem là sự tử vong không thể tránh khỏi, là sự khủng hoảng tối quan trọng và cuối cùng của đời sống. Trầm mình vào Người khổng lồ ngủ quên, ta thấy rặt những cái chết đau đáu cứa vào lòng, những cái chết trượt dài qua chuyến phiêu lưu của đôi vợ chồng già Axl và Beatrice. Trong cuốn tiểu thuyết, biểu tượng cái chết được thể hiện bằng việc đan cài các biểu tượng con mang hình thức phi lý, ghê rợn, đậm màu sắc kì ảo theo tư duy phương Tây, nhưng sâu xa vẫn là niềm bi cảm mono no aware gắn với mĩ học xứ Phù Tang, theo đó các nhân 16
  17. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN | 12/2019 vật đón nhận cái chết bằng tâm thế an yên như một đóa anh đào sẵn sàng rụng rơi theo gió mà vẫn huy hoàng đến phút cuối, rèn giũa ý thức dâng hiến cuộc đời cho cái chết, mang tinh thần võ sĩ đạo samourai với nhất tâm tư tưởng “chết trong lòng”. Mỗi một sự đứt gãy tinh thần và thể xác trong tác phẩm đều mang đến một kiến giải riêng, bật nổi sự đa vỉa tầng của biểu tượng này: cái chết của người kỵ sĩ làm nhiệm vụ canh gác trên chiếc cầu là sự ngã xuống vì danh dự của kẻ cúc cung phục tùng mệnh lệnh; cái chết của vị hiệp sĩ già Gawain là sự mãn nguyện khi thực thi sứ mạng cao cả và lý tưởng thiêng liêng của mình; cái chết của con rồng cái Querig đã khẳng định sự thắng thế của con người trước các thế lực siêu nhiên và huyền bí,... Đoàn phiêu lưu bốn người đến gần chiếc cầu nơi người kỵ sĩ tóc hoa râm đang luân phiên làm nhiệm vụ theo lệnh của chúa đất Brennus. Khi đối mặt với Wistan - chàng chiến binh cừ khôi, lão luyện, mặc dù hoảng sợ, khẩn khoản cầu xin sự giúp đỡ của Gawain, nhưng người lính này không chấp thuận đầu hàng: “Có thể rồi ra sẽ phải trả giá cho tính tự cao tự đại của mình. Nhưng ta sẽ không bỏ kiếm xuống như một kẻ hèn mạt” [4, tr.166]. Và chỉ với một đường lia đơn giản của Wistan, anh ta đã ngã sấp xuống đất, gương mặt hầu như không biến sắc, rồi một con rắn “trườn ra từ phía dưới thi thể anh ta. Thân người sẫm màu của con vật ấy có các chấm trắng và vàng lốm đốm, và sau khi thoát được ra, nó lao nhanh trên mặt đất. Axl ngửi thấy mùi hôi thối nặng nề của nội tạng người”, sinh vật này “tách ra làm đôi quanh một bụi cây kế, như cách một dòng nước rẽ đôi quanh một hòn đá, trước khi nhập lại làm một và tiếp tục tới gần hơn nữa” [4, tr.170-171]. Sự miêu tả về hình dáng của loài bò sát này được chúng tôi xác lập là giống rắn vipe. Rắn vipe là biểu tượng cho cuộc hóa thân đưa dẫn những người quá cố thực hiện chuyến hành trình đi từ những hình thái cuộc sống thế tục, phàm trần sang những hình thái cuộc sống tái sinh, đóng vai trò là nồi chưng cất, là “nơi chốn hay là lò luyện của những chuyển đổi” [1, tr.773]. Biểu tượng rắn đã thần thánh hóa cái chết của người lính tóc hoa râm. Sự lìa xa cõi đời của anh ta không vô nghĩa lí, không nhạt nhòa. Dẫu biết bản thân không phải là đối thủ mạnh trong cuộc đọ sức, nhưng bổn phận không cho phép anh hành động khác, anh chỉ là kẻ bề tôi đang làm tròn nghĩa vụ phụng sự kẻ bề trên, anh tận tâm tận lực với trọng trách được giao phó, anh giữ sạch thanh danh, tự tôn và uy tín của một người cầm kiếm. Bấy nhiêu đó cũng đủ để độc giả trân trọng và nể phục người kỵ sĩ không tên này, bởi anh là hiện thân đầy đủ nhất cho cốt cách người chiến binh. Vậy nên, cái chết của anh là sự “khải huyền và nhập môn”, và mọi cuộc thụ pháp đều phải trải qua một giai đoạn tử vong trước khi khai thông lối đi vào cuộc đời mới, chết ở cấp độ này chỉ như một sự tái sinh ở cấp độ khác. Đóng đinh trên bức tranh nhuốm màu u hoài của tác phẩm còn là cái chết của vị hiệp sĩ già Gawain. Như đã đề cập, cái chết, “ẩn đằng sau cái mặt nạ gớm ghiếc của nó là một mạch nguồn tinh khiết” [3] với sự tự ý thức về cái vô thường theo mẫu hình văn hóa Nhật Bản. Là người trung thành với nhà vua vĩ đại, ông đã hân hưởng đối mặt với quỷ dữ ăn thịt người, lũ yêu tinh cũng như những ý đồ đen tối nhất của giống loài mình kể cả khi nỗi run sợ thấm sâu vào tận xương tủy. Trong trận quyết chiến của ông và Wistan - cuộc tỉ thí của kí ức đấu chọi với lãng quên, đã khiến “hai lưỡi kiếm, có lẽ là vì lực va chạm kinh hồn mà giờ đã kết hợp thành một thực thể duy nhất” [4, tr.407]. Với sự nỗ lực gần như kiệt sức, hai lưỡi kiếm cũng chùn lại và tách nhau ra. “Trong khi ấy, có một đốm gì đó thẫm màu - có thể chính là thứ chất ngay từ đầu đã khiến hai thanh kiếm dính chặt vào nhau - bắn tung lên trong khoảng không giữa hai người. Với nét mặt nhẹ nhõm sửng sốt, Gawain lảo đảo xoay nửa vòng rồi khuỵu một bên gối xuống đất” [4, tr.408]. Thanh kiếm là biểu tượng của nghề nhà binh, của quyền lực, của chiến tranh. Là “ánh sáng và tia chớp”, lưỡi kiếm thiêng tiêu hủy “sự bất công, sự độc ác, sự ngu tối” [1, tr.489], đồng thời nó cũng xây dựng, kiến lập, duy trì hòa bình và công lý. Sự hợp thể hai lưỡi kiếm cũng là sự hợp thể hai tâm hồn hiệp sĩ chân chính. Gawain đã đón nhận cái chết với nét mặt “như mang một vẻ hài lòng” [4, tr.408]. Khi Thần Chết sờ soạng ông, không 17
  18. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKH 2019 có máu tung xối, chảy tóe, mà chỉ là sự xuất hiện của thứ chất lỏng “thẫm màu” mơ hồ, vô định. Có thể nói, cái chết của Gawain là cảm giác mãn nguyện bởi đã hết mình với lý tưởng chiến đấu của bản thân, đã hết lòng mang vác sức nặng lịch sử cho đến khi bộ áo giáp bị gỉ sét và con ngựa chiến dần già nua. Qua đó, cái chết của ông cũng là sự tiên báo cho cuộc huyết chiến sắp xảy đến của hai tộc người Saxon và Briton, bởi công cụ chiến đấu trên bàn cờ trận mạc này đã xé rách màn sương mờ ảo, đào xới gã khổng lồ lãng quên bị vùi chôn, dập tắt tình hữu nghị mà bấy lâu ông luôn ra sức bảo vệ và vun vén. Cái chết của con rồng cái Querig cũng gắn với biểu tượng thanh kiếm. Thanh kiếm thiêng của người Nhật được tạo tác từ đuôi của con rồng. Đến địa hạt xứ Trung, thanh kiếm thiêng tự gieo mình xuống nước và biến thành những con rồng sáng loáng. Hay huyền thoại về thanh gươm được rút ra khỏi đá bởi Arthur - giọt máu rồng duy nhất của Vua Uther Pendragon. Với mối quan hệ mật thiết, thanh kiếm đã quay trở về hành quyết con rồng cái. Khi đến gần nơi sinh sống của Querig, cỏ xung quanh miệng hang động “đã bị đen lại hoặc cháy rụi” [4, tr.397]. Cỏ mang khả năng sinh sản và tái lập sự sống. Thế nhưng, hình ảnh với đầy vẻ điêu tàn, đổ nát ấy dường báo hiệu nét đau thương của một sinh vật hốc hác, gầy mòn, yếu ớt không còn sức chống trả – một sinh vật khốn khổ phải thấu chịu lời nguyền ma thuật lên hơi thở của mình, khiến ta có cảm giác mối đe dọa của Querig đến từ sự hiện diện dai dẳng của nó nhiều hơn là từ những hành động của nó. Cái chết của Querig không phải là kết quả của trận đụng độ ác liệt, mà rất nhẹ nhàng, “thanh kiếm đã vẽ một đường vòng cung thấp”. Trong truyện kể Mabinogi về Lludd và Llewelys, rồng trắng là biểu tượng của những kẻ Saxon xâm lược. Rồng hiện ra với “cái ác và những xu hướng quỷ dữ” [1, tr.780]. Motif rồng - hiệp sĩ diệt rồng trở đi trở lại trong văn học phương Tây như ám gợi mong ước chinh phục các lực lượng trong tự nhiên của con người tự ngàn xưa. Sự tiêu vong của con rồng cái Querig cũng chính là sự tử nạn của nguồn cơn lãng quên và là sự thắng thế của thực thể bé nhỏ trước các thế lực hắc ám, ma quái. 3. KẾT LUẬN Trong cái thời hồn người dễ nhàu bởi những bất an, dễ ngầu bởi những rung chấn từ đời sống, thì đọc cuốn tiểu thuyết gợi“một cái nhìn sâu sắc về ký ức và mặc cảm tội lỗi, về cách chúng ta hồi tưởng lại mọi thương tổn trong quá khứ” (Alex Preston, The Guardian) sẽ giúp mỗi cá nhân chiêm nghiệm về cõi nhân sinh tưởng chừng đang nứt toác, rạn vỡ này. Với hệ thống biểu tượng mà nổi bật là người khổng lồ và cái chết, Kazuo Ishiguro đã kiến tạo nên bản sắc riêng biệt của mình. Việc lựa chọn giữa triệt tiêu sân hận/sân yêu hay bất tận sân hận/ yêu là một thách thức lớn đối với mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng. Ông nhìn thế giới bằng đôi mắt của kẻ mang cảm thức lưu vong, vậy nên đã chuyển tải được những ẩn ý sâu xa về những trạng huống phổ biến của con người mang tư duy mảnh vỡ, soi chiếu được những vấn đề thời sự nhức bỏng của xã hội hiện tồn. Và mặc dù được xem là một trong những nhà văn Anh xuất sắc nhất còn sống - một sự pha trộn giữa Kafka và Chekhov thời hiện đại, thế nhưng mạch ngầm mĩ học phương Đông vẫn chảy trôi trong sáng tác của ông, thức tỉnh vẻ đẹp của những cái chết như một kiểu tự ý thức và sẵn sàng đón nhận phần tất yếu này, đồng thời phục dựng tham vọng cổ sơ của loài người từ trong các câu chuyện thần thoại phương Tây. Qua biểu tượng trong trang văn của Kazuo Ishiguro, có thể hình dung rằng những cảm hứng triết luận vẫn còn quá nhiều ẩn số lớn chưa được giải trình. Các biểu tượng này không phải là thứ rượu đang rót mà là thứ men đang lên, thành công của Kazuo Ishiguro chính là “gọi đến sự tự do của người đọc” (Sartre). Với yếu tố kì ảo trong một cuốn tiểu thuyết giả tưởng - huyền ảo, Kazuo Ishiguro đã tự gắn mình vào công cuộc thực thi quyền lực của nghệ thuật, trong sứ mệnh giảm trừ cái ác, soi sáng thế giới sự sống và bảo vệ chúng ta chống lại sự lãng quên con người. Qua đó, nhà văn khắc tên mình lên tấm bản đồ tinh thần của thời đại. 18
nguon tai.lieu . vn