Xem mẫu
- KỸ NĂNG QUAN HỆ XÃ HỘI CỦA MỘT TRẺ TỰ KỶ Ở THÀNH PHỐ HUẾ
LÊ THỊ KHÁNH LINH – TRẦN THỊ HỒNG
Khoa Tâm lý – Giáo dục
Tóm tắt: Tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển được đặc trưng bởi sự suy
yếu của quan hệ xã hội, giao tiếp, hành vi định hình và lặp đi lặp lại. Trong
đó, khiếm khuyết về quan hệ xã hội là khiếm khuyết đặc trưng của hội chứng
tự kỷ, dẫn đến rất nhiều khó khăn cho trẻ trong hoà nhập cộng đồng. Hiện
nay, trên địa bàn thành phố Huế có rất ít đề tài nghiên cứu về trẻ tự kỷ, đặc
biệt là nghiên cứu trên từng trường hợp. Bài viết này, chúng tôi trình bày kết
quả nghiên cứu về kỹ năng quan hệ của một trẻ tự kỷ ở thành phố Huế, từ đó
đưa ra một số gợi ý để phát triển kỹ năng quan hệ xã hội cho trẻ.
Từ khóa: Tự kỷ, trẻ tự kỷ, quan hệ xã hội của trẻ tự kỷ
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chứng tự kỷ có lẽ đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng nó chỉ mới được công nhận vào năm
1943, do bác sĩ tâm thần Leo Kanner, người Mỹ gốc Áo phát hiện và mô tả lần đầu tiên
về hội chứng tự kỷ trong một bài báo cáo với nhan đề “Autism Disturbances Of
Affective Contact” [5]. Kể từ đó, hội chứng tự kỷ đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều
nhà nghiên cứu.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về tự kỷ. Theo S tay Thống kê và Ch n đoán
các ối loạn Sức khoẻ Tâm thần của Hiệp hội Tâm thần học Hoa K (DSM V), các tiêu
chu n để ch n đoán tự kỷ như sau: Suy yếu kéo dài trong giao tiếp xã hội và tương tác
xã hội trong nhiều hoàn cảnh; Các hành vi, sở thích hoặc hoạt động lặp lại và bị giới
hạn; Các triệu chứng phải xuất hiện trong các giai đoạn phát triển sớm; Các triệu
chứng gây suy yếu đáng kể về mặt lâm sàng trong các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp,
hoặc các lĩnh vực quan trọng khác của chức năng hiện tại; Các rối loạn này không
được giải thích rõ hơn bởi khuyết tật trí tuệ hay chậm phát triển toàn thể [1]. Cho đến
nay người ta vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chính dẫn đến tự kỷ và vẫn chưa có một loại
thuốc hay một phương pháp đơn lẻ mà có thể chữa trị cho trẻ tự kỷ trở lại bình thường
[4]. Tuy nhiên, việc được hỗ trợ ch n đoán và can thiệp sớm có thể giúp trẻ giảm thiểu
được các triệu chứng của tự kỷ để có thể phát triển và hòa nhập vào cuộc sống xã hội.
Khiếm khuyết về quan hệ xã hội là một trong ba khiếm khuyết đặc trưng của hội chứng tự
kỷ. Khiếm khuyết về quan hệ xã hội được thể hiện ở các khía cạnh như: Suy yếu trao đ i
mang tính cảm xúc-xã hội, từ mức độ nhẹ đến nặng; suy yếu trong các hành vi giao tiếp phi
ngôn ngữ được sử dụng cho tương tác xã hội, từ mức độ nhẹ đến nặng; suy yếu trong việc
phát triển (bắt đầu), duy trì, và sự hiểu biết các mối quan hệ, từ mức độ nhẹ đến nặng [1].
Một t chức chuyên nghiên cứu về biện pháp can thiệp giúp cải thiện khả năng nhận thức
ở trẻ tự kỷ đã ghi nhận hiệu quả của các phương pháp can thiệp về quan hệ xã hội đối với
các trẻ tự kỷ [7]. Đối với những trẻ mắc chứng tự kỷ thì sự can thiệp sớm của cộng đồng
có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của não bộ và hành vi của trẻ [6].
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2016-2017
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2016: tr. 170-175
- KỸ NĂNG QUAN HỆ XÃ HỘI CỦA MỘT TRẺ TỰ KỶ Ở THÀNH PHỐ HUẾ 171
Trong những năm trở lại đây số lượng trẻ ở Việt Nam mắc chứng tự kỷ gia tăng đáng kể
và trở thành một vấn đề rất đáng quan tâm của xã hội. Tuy nhiên, việc ch n đoán và can
thiệp cho trẻ tự kỷ đang gặp nhiều khó khăn dẫn đến việc can thiệp và hỗ trợ cho trẻ gặp
nhiều bất cập. Ngoài những đặc điểm, đặc trưng chung của hội chứng tự kỷ thì ở mỗi trẻ
lại có những đặc điểm, biểu hiện khác nhau. Vì thế, việc tìm hiểu đặc điểm riêng cho
từng trẻ nhằm đưa ra hướng hỗ trợ, can thiệp và điều trị phù hợp có ý nghĩa rất quan
trọng và cần thiết không chỉ đối với mỗi trẻ mà còn là cơ sở giúp cho các bậc phụ huynh
có con bị tự kỷ.
Hiện nay số lượng trẻ tự kỷ được ghi nhận ở các cơ sở trên địa bàn thành phố Huế là khá
nhiều. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hội chứng này ở các em ở nhiều góc độ khác
nhau. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu về kỹ năng quan hệ xã hội ở một trẻ tự kỷ
cụ thể, là một phần của đề tài nghiên cứu về kỹ năng quan hệ xã hội của trẻ tự kỷ ở các cơ
sở giáo dục ở thành phố Huế. Đề tài mong muốn thông qua đó đưa ra những gợi ý về biện
pháp hỗ trợ và can thiệp cho trẻ giúp trẻ có điều kiện hòa nhập với cuộc sống.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để tiến hành tìm hiểu về kỹ năng quan hệ xã hội của trường hợp nghiên cứu, đề tài sử
dụng các phương pháp chủ yếu sau:
2.1. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Chúng tôi đã tìm hiểu và lựa chọn một trường hợp trẻ tự kỷ ở một cơ sở giáo dục trên
địa bàn thành phố Huế làm đối tượng nghiên cứu cụ thể để đi sâu tìm hiểu và đưa ra
những biện pháp phù hợp với trẻ. Đề tài chỉ chọn những học sinh được nhà trường xác
nhận là tự kỷ ở trong độ tu i đi học.
2.2. Phương pháp trắc nghiệm
Để tìm hiểu về kỹ năng quan hệ xã hội của trường hợp nghiên cứu, chúng tôi dùng thang
đo Vineland 1. Thang đo hành vi thích ứng Vineland là thang đo dùng để đánh giá hành
vi thích ứng của trẻ bình thường và trẻ khuyết tật, trong đó ph biến là trẻ khuyết tật trí
tuệ và trẻ có rối loạn tự kỷ. Thang đo Vineland đánh giá hành vi ở bốn lĩnh vực bao gồm
giao tiếp, kỹ năng sinh hoạt hằng ngày, xã hội hóa và vận động. Mỗi items được đo bằng
tần suất xuất hiện của kỹ năng: (0) không bao giờ, (1) thỉnh thoảng, (2) thường xuyên.
Trong nghiên cứu này chúng tôi quan tâm và đánh giá ở lĩnh vực xã hội hóa.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng thang đo CA S để đánh giá mức độ tự kỷ và tìm
hiểu kỹ hơn về kỹ năng này ở trẻ. CA S là công cụ được chu n hóa và được sử dụng
nhiều nhất trong khuôn kh tiến trình lượng giác gắn liền với việc ch n đoán hội chứng
tự kỷ. CA S không những cho phép xác định trẻ có tự kỷ hay không mà còn đánh giá
sự trầm trọng của hội chứng này tùy theo “điểm” đạt được. Giáo viên trực tiếp dạy trẻ
được hướng dẫn về cách sử dụng và trực tiếp điền vào phiếu. Chúng tôi tiếp tục phỏng
vấn giáo viên kết hợp với quan sát trẻ để thu thêm thông tin cần thiết. Phiếu thu được
được tính điểm theo yêu cầu của thang đo.
- 172 LÊ THỊ KHÁNH LINH – TRẦN THỊ HỒNG
2.3. Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu bằng cách tri giác
trực tiếp đối tượng và các nhân tố khác có lien quan đến đối tượng[3]. Đề tài tiến hành
quan sát trên một trẻ tự kỷ cụ thể trong những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau nhằm thu
thập thêm thông tin để có thể tìm hiểu, ch n đoán và đánh giá kỹ năng quan hệ xã hội
của trẻ tự kỷ nói riêng và mức độ tự kỷ của trẻ được chính xác hơn.
2.4. Phương pháp phỏng vấn
Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu những giáo viên trực tiếp dạy trẻ để có những ch n đoán
và cách đánh giá kỹ năng quan hệ xã hội của trẻ tự kỷ được tốt hơn và chính xác hơn.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ KỸ NĂNG QUAN HỆ XÃ HỘI CỦA MỘT T Ẻ TỰ
KỶ Ở THÀNH PHỐ HUẾ
3.1. Vài nét về tiểu sử của trẻ
Nguyễn Văn P. Là một bé trai, sinh ngày 16/01/2007. Em sinh ra trong một gia đình trí
thức ở Huế, bố là giảng viên đại học, mẹ là ca sĩ thuộc vào gia đình có điều kiện kinh tế
cao. P. là con út trong gia đình có 2 con, trước P. là một chị gái hoàn toàn bình thường.
P được bố mẹ quan tâm, chăm. Khi .P. được 3 tu i gia đình mới phát hiện là P. có
những dấu hiệu bất thường: không biết gì, hoàn toàn vô cảm với thế giới xung quanh,
không bập bẹ, không phản ứng khi có tiếng gọi, không nhìn vào mắt người đối diện,
không có những hành vi như trẻ bình thường... Gia đình đã đưa P. đến trung tâm để
được chu n đoán và can thiệp. P. bắt đầu học tại trung tâm can thiệp và hỗ trợ trẻ
khuyết tật vào năm 2010. Đến nay đã được 6 năm, tình trạng của P. đã dần cải thiện và
tiến bộ hơn. Tiền sử, P. đã từng bị động kinh nặng (ngày 4-5 lần) nhưng đã giảm bớt sau
khi dùng thuốc.
3.2. Kỹ năng quan hệ xã hội của trường hợp nghiên cứu
3.2.1. Đánh giá chung
Kết quả điều tra bằng phương pháp trắc nghiệm sử dụng thang đo hành vi thích ứng
Vineland I cho thấy kỹ năng quan hệ xã hội của P. chỉ đạt 12 điểm thô tương ứng với
điểm chu n là 22. Như vậy, kỹ năng quan hệ xã hội của P. ở mức độ thiếu hụt nặng -
mức thấp thứ 2 trong thang đo Vineland I. Sử dụng thang đo CARS chúng tôi nhận thấy
mức độ tự kỷ của P là 44,5 điểm tương ứng với mức độ tự kỷ nặng. Trong đó, có 6/15
mục P. có biểu hiện bất thường trung bình và 8/15 mục P có biểu hiện bất thường nặng.
Do đó, đây là đối tượng mà giáo viên cũng như cha mẹ cần chú ý quan tâm để có thể
giúp đỡ trẻ một cách tốt nhất.
3.2.2. Các tiểu lĩnh vực của kỹ năng quan hệ xã hội
Căn cứ vào kết quả điều tra bằng thang đo hành vi thích ứng Vineland I, ở cả ba tiểu
lĩnh vực tương tác xã hội, vui chơi, giải trí, P. đều ở mức độ thấp. Cụ thể như sau:
- KỸ NĂNG QUAN HỆ XÃ HỘI CỦA MỘT TRẺ TỰ KỶ Ở THÀNH PHỐ HUẾ 173
3.2.2.1. Tương tác xã hội
Trong 28 items P. chỉ đạt 8 điểm tương đương với mức độ thấp của xếp loại các tiểu
lĩnh vực. Trong đó, chỉ có 2 items đạt 2 điểm (có, thường xuyên nhìn) là vào mặt người
chăm sóc và thể hiện yêu mến với người thân. Có 4 items đạt 1 điểm (đôi khi hoặc làm
được một phần) là phân biệt được người chăm sóc và những người khác; thể hiện nét
mặt từ hai cảm xúc dễ nhận biết trở lên; thích thú khi được người chăm sóc bế lên; với
theo người thân. Ví dụ như: khi cô giáo gọi “P” thì trẻ sẽ quay lại nhìn cô giáo nhưng
khi một người lạ đến và cũng gọi “P” thì P. lại không có phản ứng gì hoặc nếu có thì
cũng chỉ quay lại rồi sau đó lại tiếp tục các hoạt động của mình. P. rất hay có các biểu
hiện như khi đang cười một mình thì chuyển sang khóc mà không có sự tác động từ bên
ngoài, rồi cũng tự nín mà không cần ai dỗ dành. Thỉnh thoảng, trẻ cười rất sảng khoái
hoặc khóc thét mà không rõ nguyên nhân.
Ở hầu hết các items (22/28), P. đều đạt 0 điểm. Điều đó cho thấy, khả năng thực hiện các
yếu tố trong tiểu lĩnh vực quan hệ xã hội của P rất kém hoặc không thể thực hiện. P.
không thể đáp lại giọng nói của người chăm sóc hoặc người khác; không quan tâm đến
giáo viên hay bạn bè cùng tu i mà chỉ thích 1 mình; không có khả năng bắt chước âm
thanh hay cử chỉ ngay cả khi được người lớn thúc đ y hay được giúp đỡ. Chẳng hạn, giờ
giải lao P. không chơi với các bạn trong lớp mà chỉ thích chơi một mình bằng trò chơi đi
lùi vài bước rồi xoay vòng, vỗ tay, véo tai, cười và miệng phát ra những âm thanh như
“ậm - ựm”. P. cũng thích nằm nghiêng một bên trên bàn ngay cả khi trên bàn cô giáo
đang để đồ dùng học tập P. cũng nằm lên mà không cảm thấy vướng hay đau, chỉ khi bị
cô giáo mắng P. mới ngồi dậy. Đến giờ vào tiết học mới, khi được giáo viên yêu cầu “P.
con hãy ngồi vào chỗ của mình đi” thì P. không làm theo mà chỉ khi cô đến dắt tay P. lại
vị trí và bảo P. ngồi xuống thì P. sẽ ngồi nhưng hoàn toàn không quan tâm đến cô giáo,
các bạn trong lớp, các hoạt động đang diễn ra hay bất cứ đồ vật gì cô đặt trước mặt P. P.
cũng không có khả năng diễn tả cảm xúc bằng lời nói, không vui khi được cô giáo khen
thưởng, không buồn khi bị cô mắng hay không giận dữ khi bị bạn cấu vào mặt.
Như vậy, ở lĩnh vực tương tác xã hội khả năng thực hiện của P. rất kém, khả năng thực
hiện của trẻ chỉ ở mức độ thấp, tương đương với trẻ dưới 1 tu i trong khi đó tu i hiện
tại của P. là 9 tu i.
3.2.2.2. Vui chơi, giải trí
Tiểu lĩnh vực này bao gồm 20 items nhưng chỉ có 1 items trẻ làm được thường xuyên
đó là chú ý với đồ vật mới và người lạ. P. thích cầm một đồ vật trong tay và bóp đồ vật
đó đến khi cô giáo bảo P. bỏ nó xuống P. không làm theo lời cô giáo mà chỉ khi cô giáo
lấy đi đồ vật P. mới dừng hoạt động đó lại và thực hiện một hoạt khác. Đôi lúc P. còn
đưa những đồ vật trên tay bỏ vào miệng.
Có 17/20 items P. không hoặc chưa bao giờ làm được. P. chỉ thích chơi một mình mà
không quan tâm đến bạn cùng lớp, nhiều khi bạn đang chơi xếp hình P. có thể đi qua và
làm đ nó mà không ý thức được, không nhìn lại và cũng không tỏ ra có lỗi hay xin lỗi
bạn. P. không có ngôn ngữ, miệng thường phát ra những âm thanh vô nghĩa và kéo dài,
- 174 LÊ THỊ KHÁNH LINH – TRẦN THỊ HỒNG
P. hầu như không thể tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí như: xem ti vi, nghe
radio, chơi thể thao... hay chơi những trò chơi đòi hỏi kỹ năng ra quyết định. Khả năng
vận động và xúc giác của P. còn kém vì thế nên giáo viên thường xuyên cho P. chơi
những trò vận động tay như: lăp hộp, lăn bàn tay trên bàn mát xa, cầm nắm và cảm nhận
đồ vật... Trong đó, P. chỉ chơi lâu được với trò chơi cầm nắm và cảm nhận đồ vật còn
với những trò chơi khác P. chỉ chơi khi có giáo viên ngồi bên hướng dẫn và nhắc nhở.
Như vậy ở lĩnh vực chơi, giải trí P. làm được rất ít các yếu tố và hầu như không làm
được các yếu tố, mức độ thực hiện các yếu tố ở lĩnh vực này của P chỉ ở mức độ thấp.
Vì vậy rất cần đến sự hỗ trợ và can thiệp của giáo viên và phụ huynh.
3.2.2.3. Xử trí
P. hoàn toàn không và chưa bao giờ thực hiện được yếu tố nào của lĩnh vực này cả. P.
không tuân theo nội quy của lớp học hay trường học mà chỉ làm theo mong muốn của
bản thân. Trong giờ học P. thường xuyên đi lung tung mà không xin phép cô giáo,
thường xuyên nằm trên bàn học của các bạn. P. hầu như không quan tâm đến tiếng động
xung quanh, chỉ khi giáo viên gọi lớn P. và tác động trực tiếp và P. thì P. có quay lại
nhìn nhưng chỉ trong chốc lát và quên đi sự có mặt của những người xung quanh.
Không có khả năng xử trí trong bất cứ trường hợp nào. P. chưa bao giờ tham gia hay t
chức một bữa tiệc nào. Không có sự tương tác với những người xung quanh (trừ bố mẹ,
một số người thân và cô giáo). Vì những hạn chế trong giao tiếp, hoạt động, ứng xử nên
bố mẹ P. chưa bao giờ cho P đi đâu một mình hay tham gia vào các hoạt động ngoài trời
nào như: đi dã ngoại, đi dự tiệc...
3.2.3. Một số đặc điểm khác
Chúng tôi sử dụng thang đo CA S để tìm hiểu tìm hiểu thêm về các kỹ năng của trẻ nói
chung và kỹ năng quan hệ xã hội của trẻ nói riêng nhằm đưa ra những đánh giá đúng
hơn về trẻ và có những gợi ý đưa ra biện pháp phù hợp với nhu cầu của trẻ.
Khi thay đ i một công việc hay hoạt động P. đang làm P. có thể tiếp tục làm hoạt động
đó hoặc chuyển sang một hoạt động khác với sự hướng dẫn của giáo viên mà không
cảm thấy khó chịu, cáu gắt hay không phản ứng gì cả. Về đáp ứng nhu cầu thị giác, P.
rất ít khi chú tâm nhìn vào một cái gì đó mà thường xuyên nhìn vào khoảng không vì
thế để giúp P. phát triển thị giác giáo viên thường xuyên phải nhắc nhở P. nhìn vào
những gì P. đang làm, nhưng cũng chỉ được một lúc rồi sau đó P. lại tiếp tục làm lơ và
không quan tâm nữa. Khả năng cảm nhận một số âm thanh của P. khá tốt, với một số
âm thanh nhỏ như tiếng kêu của đồng hồ hay tiếng gọi của giáo viên thì P. phản ứng khá
nhanh nhưng với những âm thanh khác P. hoàn toàn không quan tâm, kể cả tiếng kêu
gọi “P” nhưng của một người lạ. P.quan tâm đến việc ngửi đồ vật nhiều hơn là khám
phá và sử dụng đồ vật, ví dụ như P. thích ngủi mùi của chai sữa tắm và thường lấy sữa
tắm để vào miệng chứ không biết sữa tắm là dùng để tắm. Việc ăn uống của P. cũng rất
thất thường, đôi lúc rất dễ ăn nhưng đôi khi cũng khó, không ghét hay thích đặc biệt
một món ăn nào cụ thể nhưng thích ăn đồ ăn vặt như bánh, kẹo,.. hơn ăn cơm. P. hoàn
- KỸ NĂNG QUAN HỆ XÃ HỘI CỦA MỘT TRẺ TỰ KỶ Ở THÀNH PHỐ HUẾ 175
toàn vô cảm với một sự thay đ i, không sợ sệt, không lo âu về bất cứ cái gì xung quanh,
kể cả việc để cho trẻ đứng một mình trong phòng.
4. KẾT LUẬN
Hội chứng tự kỷ đã và đang là thách thức lớn đối với các nhà nghiên cứu. Dù hiện nay
đã có những tiến bộ đáng kể trong việc ch n đoán và can thiệp cho trẻ tự kỷ song còn
nhiều điều cần được tìm hiểu và khám phá. Tự kỷ là một hội chứng không thể chữa
được nhưng có thể làm giảm bớt các triệu chứng nơi trẻ. Từ đó, có thể tạo điều kiện cho
trẻ có cơ hội được hòa nhập với xã hội.
Đối với trường hợp trẻ đang được nghiên cứu của đề tài, chúng tôi nhận thấy có nhiều
dấu hiệu để khẳng định rằng trẻ mắc chứng tự kỷ ở mức độ nặng. Kỹ năng quan hệ xã
hội của trẻ ở mức độ thiếu hụt nặng. Ở tất cả các tiểu lĩnh vực P. đều được đánh giá ở
mức độ thấp. P. bị thiếu hụt ở hầu hết tất cả các yếu tố ở tất cả các lĩnh vực trong quan
hệ xã hội, vui chơi giải trí, xử trí. Đặc biệt, trong tiểu lĩnh vực xử trí trẻ không thực hiện
được một yếu tố nào cả. Vì thế, các giáo viên và người hỗ trợ trẻ cần đặc biệt quan tâm
đến nhu cầu của trẻ từ đó giúp trẻ có những định hướng can thiệp và hướng phát triển
tốt. Cần xây dựng cho trẻ một chương trình can thiệp phù hợp nhằm giúp trẻ phát triển
các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống để hòa nhập với xã hội.
Từ những kết quả thu được, chúng tôi xin đưa ra những gợi ý về biện pháp hỗ trợ và can
thiệp cho trẻ giúp trẻ có điều kiện hòa nhập với cuộc sống như: giáo viên, người chăm sóc
trẻ thường xuyên nói chuyện, giao tiếp với trẻ; hình thành kỹ năng bắt chước cho trẻ bằng
cách yêu cầu trẻ làm theo giáo viên một số hoạt động như: giơ tay lên, bỏ tay xuống, vỗ
tay theo nhịp; cho trẻ chơi cùng bạn với những đồ chơi trẻ thích; gia đình và người chăm
sóc trẻ cần yêu thương, vuốt ve, âu yếm, thường xuyên trò chuyện với trẻ;…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Văn Công (2012). Rối loạn phổ tự kỷ (dịch từ DSM-V), truy cập 10/2016
https://congvtran.wordpress.com/2014/03/17/roi-loan-pho-tu-ky-dich-tu-dsm-v/
[2] Trần Văn Công (2012). Tự kỷ/ rối loạn phổ tự kỷ, truy cập 10/2016
https://docs.google.com/viewer?a=v&pid=sites&srcid=ZGVmYXVsdGRvbWFpbnx0
cmFudmFuY29uZ3xneDoyZjcyNGJlY2E4NWE4MTFl
[3] Phạm Viết Lượng (1995). Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, Hà Nội 1995.
[4] Lê khanh. Tự kỷ là hội chứng không phải là bệnh hay nghiệp, truy cập 10/2016
https://tamlytreem.com/q-bnh-t-kq-la-bnh-chng-hay-la-nghip/.
[5] Nguyễn Văn Thành (2006). Trẻ em tự kỷ phương thức giáo dục, NXB Tôn Giáo, Hà Nội.
[6] Phạm Toàn (chủ biên) (2014). Thấu hiểu và hỗ trợ trẻ tự kỷ, NXB Trẻ.
[7] Thi Trân (2016). Can thiệp xã hội sớm giúp trẻ tự kỷ cải thiện nhận thức, truy cập 10/2016,
http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/can-thiep-xa-hoi-som-giup-tre-tu-ky.
LÊ THỊ KHÁNH LINH - TRẦN THỊ HỒNG
SV lớp TL-GD 3, khoa Tâm lý – Giáo dục, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
ĐT: 0164 522 5493, Email: Linhqb1996@gmail.com
nguon tai.lieu . vn