Xem mẫu

  1. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 633 KINH TẾ TƯ NHÅN - ĐỘNG LỰC QUAN TRỌNG TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở HÂI PHÒNG TS. Phạm Thị Huyền Trưởng Khoa Lý luận Chính trị Trường Đại học Hải Phòng Tóm tắt:Thời gian vừa qua, kinh tế Hải Phòng tăng trưởng cao, các mặt của đời sống xã hội phát triển, Thành phố đã dần khẳng định được vị thế quan trọng trong sự phát triển chung của cả nước. Đạt được kết quả đó là có phần đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Trong thời gian tới, Hải Phòng cần có nhiều giải pháp phát triển khu vực kinh tế này để nó thực sự trở thành “động lực quan trọng” thúc đẩy sự phát triển của Thành phố. Từ khóa: kinh tế tư nhân Hải Phòng, tăng trưởng kinh tế ở Hải Phòng PERSONAL ECONOMY – IMPORTANT EFFORT TO INCREASE THE ECONOMY IN HAI PHONG Abstract: In the last time, Hai Phong’s economy has strongly increased, social life has improved, the city has confirmed its important role in the general developement of the country. Hai Phong has reached that result thanks to the huge contribution of the personal economy. In the future time, Hai Phong has to have many solution to develop the personal economy so that it will become the important effort to motivate the development of the city. Key words: the personal economy in Hai Phong, increase the economy in Hai Phong 1. ĐẶT VÇN ĐỀ Hơn 33 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trong đấy có phần đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân ở Hải Phòng cũng đã có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Khu vực kinh tế này đã tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, kinh tế tư nhân ở Hải Phòng cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp cả về phía chính quyền Thành phố và phía các doanh nghiệp để khu vực kinh tế này hoạt động hiệu quả hơn, thực sự trở thành “động lực quan trọng” cho sự tăng trưởng, phát triển của Hải Phòng.
  2. 634 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP 2. NỘI DUNG 2.1. Vai trò của kinh tế tư nhân trong tăng trưởng kinh tế ở Hải Phòng 2.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể, tiểu chủ là khu vực kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Trong đó kinh tế cá thể có nguồn thu nhập dựa hoàn toàn vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, còn kinh tế tiểu chủ có thuê lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình. Nó tồn tại dưới hình thức các hộ kinh doanh cá thể. Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên cơ sở chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất và thuê lao động làm thuê. Nó tồn tại dưới hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần… 33 năm đổi mới, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến quan trọng, ngày càng tích cực hơn. Từ đổi mới tư duy lý luận – thực tiễn của Đảng ta về kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế này đã phát triển mạnh mẽ, liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên 43%GDP (so với khu vực kinh tế nhà nước 28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI là 18% GDP). Kinh tế tư nhân đã thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. 2.1.2. Tăng trưởng kinh tế ở Hải Phòng giai đoạn 2003 – 2018 Hải Phòng là đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia, có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của vùng Bắc Bộ và cả nước; là thành phố cảng, cửa chính ra biển của quốc gia, là đầu mối giao thông quan trọng vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, là trung tâm kinh tế - khoa học - kỹ thuật tổng hợp của vùng ven biển Bắc Bộ và là trung tâm phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 05/8/2003 của Bộ Chính trị Khóa IX về xây dựng, phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong 15 năm qua, nhất là từ khi Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 72-KL/TW ngày 10/10/2013, mặc dù, kinh tế Hải Phòng phát triển chưa tương xứng với vị trí, tiềm năng, lợi thế và còn tồn tại những khó khăn, thách thức song Thành phố đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, từng bước phát huy vai trò một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía bắc. Giai đoạn 2003 - 2018, kinh tế Hải Phòng tăng trưởng cao, bình quân gấp 1,68 lần mức tăng trưởng chung của cả nước, cao hơn 1,5 lần giai đoạn trước khi có Nghị quyết 32-NQ/TW.
  3. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 635 Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Hải Phòng so với tăng trưởng kinh tế chung cả nước giai đoạn 2003 – 2018 Nguồn: Tác giả tổng hợp Tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố (GRDP) theo giá so sánh 2010, năm 2018 đạt 154.712,7 tỷ đồng, tăng 16,27% so với cùng kỳ năm trước, vượt kế hoạch năm 2018 (kế hoạch tăng 15%), là mức tăng cao nhất từ trước đến nay, đứng vị trí thứ hai của cả nước. Quy mô kinh tế gấp 4,27 lần so với năm 2003; giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người đạt 3.964 USD, gấp 1,54 lần bình quân cả nước; tăng 5,43 lần so với năm 2003. [7] Cơ cấu kinh tế của Hải Phòng chuyển dịch theo hướng công nghiệp, hiện đại; mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chiều rộng sang chiều sâu; khai thác tốt tiềm năng, lợi thế, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội; chú trọng phát triển tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, liên kết vùng và phát triển kinh tế đối ngoại. Biểu đồ 2: Cơ cấu kinh tế ngành của Hải Phòng năm 2018 Nguồn: Cục Thống kê Thành phố Hải Phòng
  4. 636 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP Ngành công nghiệp phát triển đột phá với nhiều khu công nghiệp, dự án lớn như Nomura, Vinfast, củng cố vị trí Hải Phòng là trung tâm công nghiệp lớn, là đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc. Hệ thống hạ tầng giao thông có bước phát triển đột phá. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch đạt kết quả tích cực, hướng đến thành phố cảng xanh, văn minh, hiện đại. Nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hệ thống giao thông nông thôn được đầu tư đồng bộ, hiện đại hóa, làm thay đổi diện mạo nông thôn, góp phần cải thiện điều kiện sống, lao động sản xuất của người nông dân. Đến nay, Hải Phòng có 89/139 xã (chiếm 64% số xã) hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người được nâng lên, năm 2017 gấp 1,97 lần năm 2012 và gấp 10,6 lần năm 2003. Văn hóa, y tế, khoa học công nghệ có bước phát triển, dần khẳng định là trung tâm của vùng duyên hải Bắc Bộ. Thế trận quốc phòng toàn dân được củng cố vững chắc, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, như Nghị quyết 45-NQ/TW đã đánh giá: “Hải Phòng đã khẳng định được là thành phố cảng, đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc; hệ thống cảng biển, hạ tầng giao thông được đầu tư mạnh, có bước phát triển đột phá theo hướng đồng bộ, hiện đại. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch đạt kết quả tích cực. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Văn hoá, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ có bước phát triển, đạt nhiều kết quả quan trọng, dần khẳng định là một trung tâm của vùng duyên hải Bắc Bộ. Chính sách an sinh xã hội được quan tâm thực hiện có hiệu quả, tỉ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được coi trọng, tạo chuyển biến tích cực và toàn diện trên các lĩnh vực; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao. Quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; thế trận quốc phòng toàn dân được củng cố vững chắc; quan hệ đối ngoại, họp tác quốc tế được tăng cường và mở rộng.” [7] 2.1.3. Đóng góp của kinh tế tư nhân trong tăng trưởng kinh tế ở Hải Phòng Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế Hải Phòng. Đây là khu vực kinh tế đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của Thành phố. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 10 - NQ/TU ngày 05/9/2002 của Ban Thường vụ Thành ủy (khoá XII) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân tại Hải Phòng, khu vực kinh tế tư nhân có bước phát triển mới, tăng nhanh về số lượng, mở rộng quy mô, lĩnh vực hoạt động, đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Số doanh nghiệp thành lập mới tăng nhanh hàng năm. Hiện nay, thành phố có 27.834 doanh nghiệp và 37.500 hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động. Nguồn vốn của các doanh nghiệp tư nhân trong cơ cấu tổng nguồn vốn của các thành phần kinh tế đã tăng trưởng qua các năm.
  5. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 637 Bảng 1. Cơ cấu nguồn vốn của DNTN trong tổng nguồn vốn của các thành phần kinh tế quốc dân ở Hải Phòng (Đơn vị: %) Năm 2002 Năm 2005 Năm 2010 Năm 2015 Năm 2018 13.17 25,47 38.40 49.7 56,48 (Nguồn: Phòng Kế hoạch và đầu tư thành phố Hải Phòng) Khu vực kinh tế tư nhân có mức tăng đầu tư mạnh mẽ đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo thành phố với các nhà đầu tư đến từ các tập đoàn lớn như Vingroup, Sun Group, tập đoàn Flamingo… Điển hình là các dự án do tập đoàn Vingroup làm chủ đầu tư: Dự án khu vui chơi giải trí, nhà ở và công viên sinh thái đảo Vũ Yên với tổng mức đầu tư dự kiến 19.000 tỷ đồng; Dự án Bệnh viện quốc tế Vinmec Hải Phòng với tổng mức đầu tư 2.000 tỷ đồng; Dự án khu đô thị phức hợp Vinhomes River side Hải Phòng với tổng mức đầu tư 10.000 tỷ đồng; Dự án Tổ hợp sản xuất ô tô VINFAST tại khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải. Tập đoàn Sun Group làm chủ đầu tư Dự án xây dựng khu cảng hàng hóa, bến tàu du lịch, ga cáp treo, nhà máy sản xuất các sản phẩm du lịch, khu dịch vụ hậu cần du lịch trên đảo Cát Bà. Bên cạnh đó là dự án công trình cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 10; Dự án xây dựng khách sạn 5 sao Hilton; Dự án khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ Tràng Cát; Dự án cầu Bạch Đằng... Nhìn chung các dự án được chủ đầu tư và nhà thầu tích cực triển khai thực hiện góp phần đẩy nhanh tiến độ của các dự án và kéo vốn đầu tư phát triển khu vực kinh tế tư nhân của Thành phố. Nhờ đó khu vực kinh tế tư nhân có tốc độ phát triển nhanh hơn các thành phần kinh tế khác, chiếm tỷ trọng cao trong GRDP chung toàn thành phố (Năm 2003 chiếm hơn 26% thì đến năm 2016 chiếm 48,1% ), tạo việc làm mới cho lượng lao động lớn của Thành phố (cơ cấu lao động của khu vực kinh tế tư nhân năm 2003 chiếm 12,02%, đến năm 2017 tăng lên, chiếm 60,1% lực lượng lao động của Thành phố). Khu vực kinh tế tư nhân không chỉ tăng về số lượng mà còn đa dạng về ngành nghề. Đến nay, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã tham gia hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực ngành nghề sản xuất kinh doanh: công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ… góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế Thành phố tăng trưởng. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp quan trọng cho kinh tế Thành phố, khu vực kinh tế tư nhân ở Hải Phòng vẫn còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém. Phần lớn kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ (doanh nghiệp lớn và vừa chỉ chiếm 6,5% còn lại 93,5% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ), thiết bị, công nghệ lạc hậu, trình độ quản trị kém nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém và sức cạnh tranh yếu... Cơ cấu ngành nghề còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác; năng lực hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của các chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp tư nhân ngừng hoạt động, giải thể và phá sản. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển còn thiếu tính bền vững. Tình trạng vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong kinh tế tư nhân còn khá phổ biến. Tình
  6. 638 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP trạng sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; gian lận thương mại… diễn ra phức tạp. Trình độ cán bộ quản lý và tay nghề người lao động ở khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung còn thấp. Nhiều doanh nghiệp tư nhân không bảo đảm lợi ích của người lao động, nợ bảo hiểm xã hội, báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá hạn ngân hàng, trốn thuế và nợ thuế kéo dài. Những hạn chế đó có nguyên nhân song chủ yếu là do thể chế về phát triển doanh nghiệp tư nhân còn nhiều bất cập. Công tác phổ biến, quán triệt và tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn Thành phố còn chưa được thực hiện sâu rộng. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan Nhà nước đối với kinh tế tư nhân còn nhiều hạn chế. Việc xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể của Thành phố để khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân còn chậm. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của Thành phố chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân, nhất là hạ tầng giao thông và nguồn nhân lực. Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, quy mô hoạt động nhỏ lẻ, nguồn vốn hạn chế nên khi gặp biến động về kinh tế rất dễ bị ảnh hưởng nặng nề... Những tồn tại, bất cập đó đã hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Thành phố. 2.2. Một số khuyến nghị phát triển kinh tế tư nhân nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Hải Phòng trong thời gian tới 2.2.1. Phương hướng phát triển kinh tế tư nhân nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Hải Phòng từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ Thành phố đã cụ thể hóa nội dung Kết luận 72 của Bộ Chính trị và đặc biệt Nghị quyết 45-NQ/TW đã đặt ra quyết tâm “Xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước; có công nghiệp phát triển hiện đại, thông minh, bền vững; kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không; trọng điểm dịch vụ logistics; trung tâm quốc tế về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, kinh tế biển; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao ngang tầm với các thành phố tiêu biểu ở Châu Á; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được giữ vững”.[7] Thực hiện Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 03/10/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 (Nghị quyết số 10-NQ/TW) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Nghị quyết số 98/NQ-CP), Chương trình hành động số 44-CTr/TU ngày 21/9/2017 của Ban Thường vụ Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Chương trình hành động số 44-CTr/TU); Chương trình hành động của Thành ủy
  7. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 639 Hải Phòng đã chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân tại thành phố Hải Phòng theo hướng lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần đưa kinh tế - xã hội thành phố phát triển nhanh, bền vững, tạo sự phát triển đột phá, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần xây dựng Hải Phòng trở thành thành phố Cảng xanh, văn minh, hiện đại” [9]. Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/1/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó chỉ rõ: “Chú trọng phát triển kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng, tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, đặc biệt là trong các ngành kinh tế mũi nhọn, có lợi thế”.[7] Quan điểm đó được cụ thể hóa trong Chương trình hành động số 76-CTr/TU ngày 08/7/2019 của Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng về thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW: “Phát triển đa dạng, toàn diện các thành phần kinh tế, trong đó chú trọng phát triển kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân thành một động lực quan trọng, tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, đặc biệt trong accs ngành kinh tế mũi nhọn. Nâng cao chất lượng, hiệu quả trong khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng doanh nghiệp thành phố có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân có tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; nhiều doanh nghiệp tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu” [10]. UBND thành phố Hải Phòng đã triển khai đưa Nghị quyết vào đời sống bằng những chính sách hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Thành phố đã cố gắng tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Phấn đấu đến năm 2020, toàn thành phố có trên 33.000 doanh nghiệp hoạt động; đến năm 2025 có trên 42.000 doanh nghiệp hoạt động và đến năm 2030 có trên 53.000 doanh nghiệp hoạt động. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đến năm 2020 đạt khoảng 51% - 53%, năm 2025 đạt khoảng 55% - 56%, đến năm 2030 đạt khoảng 60% - 65%. [9] 2.2.2. Một số khuyến nghị phát triển kinh tế tư nhân ở Hải Phòng trong thời gian tới. Nâng cao nhận thức của toàn Đảng bộ và các về tầng lớp nhân dân về vị tr , vai trò của kinh tế tư nhân: Thành phố cần tăng cường quán triệt Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 03/10/2017 của Chính phủ, Chương trình hành động số 44-CTr/TU ngày 21/9/2017 của Ban Thường vụ Thành ủy và cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết, Chương trình hành động số 76- CTr/TU thành các Kế hoạch, chương trình; gắn với tuyên truyền, quán triệt, triển khai Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/1/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  8. 640 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển - Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo tinh thần Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của Thành phố. - Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước, đẩy mạnh sử dụng dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, 4 trong giải quyết thủ tục hành chính. Triển khai có hiệu quả Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14. Tăng cường đối thoại với doanh nghiệp, giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. - Tổ chức các khóa đào tạo về khởi sự kinh doanh và quản trị doanh nghiệp để nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động Khoa học, công nghệ tiên tiến có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động cao và chất lượng sản phẩm. Mặc dù năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân ở Hải Phòng thời gian qua đã có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và luôn cao hơn mức trung bình của cả nước nhưng nhìn chung còn ở mức thấp. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ của đa số các doanh nghiệp tư nhân còn lạc hậu; chất lượng và hiệu quả sử dụng lao động thấp; trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều bất cập... Vì vậy trong thời gian tới để nâng cao năng suất lao động của kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế này cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Đối với Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay có thể là một “cơ hội vàng” để rút ngắn khoảng cách phát triển. Có thể nói, xu thế toàn cầu hóa, thương mại điện tử xóa bỏ mọi khoảng cách chính là cơ hội cho các doanh nghiệp hòa nhập nhanh chóng với cách mạng công nghiệp 4.0 và quan trọng hơn là rút ngắn khoảng cách về trình độ sản xuất với các nước có nền công nghiệp phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cho các doanh nghiệp những cơ hội lớn để tối ưu hóa hoạt động sản xuất, giúp các doanh nghiệp đạt được lợi thế về chi phí sản xuất thông qua ứng dụng công nghệ tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối (IoT) vào quá trình vận hành, sản xuất. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã ý thức được tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình nên đã đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào dây chuyền sản xuất, quản lý sản xuất, quản trị kinh doanh, quản trị nhân sự, hệ thống phân phối hàng hoá... từ đó từng bước tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Để tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất, Thành phố cần có thêm nhiều cơ chế khuyến khích, tạo động lực để các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, cần phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ; áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa...
  9. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 641 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực kinh tế tư nhân Ở nước ta nói chung và ở Hải Phòng nói riêng, một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến năng suất lao động thấp là do trình độ tay nghề của người lao động còn hạn chế, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo và thiếu kỹ năng mềm còn cao. Cơ bản nguồn nhân lực Hải Phòng có chất lượng chưa cao, kỹ năng nghề nghiệp còn thấp, còn thiếu kinh nghiệm thực tế, khả năng cạnh tranh còn hạn chế, chưa sẵn sàng cho hội nhập quốc tế, dễ tổn thương trước những biến động của kinh tế quốc tế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp trở lên chưa cao, lao động phổ thông và lao động có chứng chỉ nghề sơ cấp còn phổ biến (chiếm 81,6%). Đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng kinh tế Hải Phòng giảm dần. Khu vực kinh tế tư nhân không nằm ngoài tình hình chung đó. Do vậy, trong thời gian tới cần: - Thành phố quan tâm đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tập trung đào tạo nhân lực khoa học - công nghệ, nhân lực lao động kỹ thuật đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, từng bước tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho doanh nghiệp theo từng lĩnh vực chuyên môn của các Sở, ngành. Đào tạo nghề nghiệp theo hướng mở rộng quyền tự chủ về tài chính, tuyển sinh, nội dung chương trình đào tạo và cung ứng sản phẩm, dịch vụ đào tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo theo cơ chế thị trường. Hải Phòng cần sử dụng hiệu quả khoản 15 nghìn tỷ đồng đầu tư phát triển nhân lực giai đoạn 2011 - 2020 để đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở giáo dục - đào tạo. - Các trường đại học, cao đẳng, cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn thành phố chú trọng đưa nội dung khởi nghiệp sáng tạo vào chương trình giảng dạy; thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo tại các trường đại học, cao đẳng và cơ sở giáo dục nghề nghiệp. 3. KẾT LUẬN Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hải Phòng đã đạt được nhiều kết quả tích cực trên các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Hải Phòng đã dần khẳng định được vị thế quan trọng của thành phố với cả nước. Để đạt được kết quả đó là có phần đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế này đã góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội để phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Trong thời gian tới, Hải Phòng cần có nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động, phát triển kinh tế tư nhân để khu vực kinh tế này thực sự trở thành “động lực quan trọng” cho sự phát triển của Thành phố./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÂO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Dùng cho khối ngành chuyên Kinh tế- Quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  10. 642 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XIV. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XV. 5. Kết luận số 72-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh NQ số 32 về “xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước”. 6. Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 05/8/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. 7. Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/1/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 8. Thành ủy Hải Phòng, Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 10 - NQ/TU ngày 05/9/2002 của Ban Thường vụ Thành ủy (khoá XII) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân tại Hải Phòng. 9. Thành ủy Hải Phòng, Chương trình hành động của Ban thường vụ Thành Ủy Hải Phòng: Thực hiện Nghị quyết số 10 - NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 10. Thành ủy Hải Phòng, Chương trình hành động số 76 – CTr/TU của Ban thường vụ Thành Ủy Hải Phòng: Thực hiện Nghị quyết số 45- NQ/TW ngày 24/1/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 11. Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội hàng năm của Cục Thống kê thành phố Hải Phòng.
nguon tai.lieu . vn