Xem mẫu
- Kinh tế Ấn Độ
Kinh tế Ấn Độ
Rupee Ấn Độ 1 INR = 100 paise
Năm tài chính 1 tháng 4 - 31 tháng 3
Các tổ chức WTO, SAFTA
thương mại
tham gia
Các chỉ số thống kê
4,042 tỷ USD (ước 2006) ( thứ
GDP
12 thế giới xét theo giá trị danh
nghĩa, thứ 4 xét theo PPP [1]
Tốc độ tăng 9,0% (2005/2006)
trưởng
GDP bình 820 USD (danh nghĩa), 3.700
quân đầu USD (PPP) [2]
người
nông nghiệp (19,9%), công
GDP theo khu
vực nghiệp (19,3%), dịch vụ
(60,7%) (ước 2006)
Tỷ lệ lạm 5,3% (2006)
phát (CPI)
Tỷ lệ phần 25% (ước 2002) [3]
trăm dân số
dưới ngưỡng
nghèo
Lực lượng lao 509,3 triệu người (ước 2006)
động
Lực lượng lao nông nghiệp (60%), công
động theo khu nghiệp (12%), dịch vụ (28%)
vực kinh tế
Tỷ lệ thất 7,8% (ước 2006)
nghiệp
- đệt, hóa chất, chế biến thực
Các ngành
kinh tế chính phẩm, thép, thiết bị vận tải, xi
măng, khai mỏ, hóa dầu, cơ
khí, phần mềm
Kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu 112 tỷ USD (ước 2006)
Các mặt hàng hàng dệt, đá quý, đồ trang sức,
xuất khẩu máy móc, hóa chất, đồ da
chính
Các đối tác Mỹ 18%, Trung Quốc 8,9%,
chính UAE 8,4%, Anh 4,7%, Hong
Kong 4,2% (2005)
Nhập khẩu 187,9 tỷ USD f.o.b (ước 2006)
Các mặt hàng Dầu thô, máy móc, đá quý,
nhập khẩu phân bón, hóa chất
chính
Các đối tác Trung Quốc 7,2%, Mỹ 6,4%,
Bỉ 5,1%, Singapore 4,7%, Áo
chính
4,2%, Đức 4,2%, Anh 4,1%
(2005)
Tài chính công
Nợ công 132,1 tỷ USD (ước 2006)
Thu ngân sách 109,4 tỷ USD (ước 2006)
143,8 tỷ USD bao gồm chi đầu
Chi ngân sách
tư 15 tỷ USD (ước 2006)
Viện trợ kinh nhận 2,9 tỷ USD (năm tài chính
tế 1998/1999)
sửa
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ ba thế giới nếu tính theo sức mua tương đương (PPP),
thứ 10 trên thế giới nếu tính theo tỷ giá hối đoái với USD (Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) đạt 1 nghìn tỷ USD năm 2007).[1] Ấn Độ là nền kinh tế lớn tăng trưởng nhanh
thứ hai thế giới, với tốc độ tăng trưởng GDP tới 9,4% trong năm tài chính 2006–2007.[2]
Tuy nhiên, dân số khổng lồ đã làm cho GDP bình quân đầu người chỉ đạt mức 4.031
- USD tính theo sức mua tương đương, hay 885 USD tính theo GDP danh nghĩa (ước
năm 2007).[3] Ngân hàng Thế giới xếp Ấn Độ vào nhóm các nền kinh tế có thu nhập
thấp.[4]
Nền kinh tế Ấn Độ đa dạng và bao gồm các ngành và lĩnh vực: nông nghiệp, thủ công
nghiệp, dệt, chế tạo và nhiều ngành dịch vụ. Dù 2/3 lực lượng lao động Ấn Độ vẫn
trực tiếp hay gián tiếp sống bằng nghề nông nhưng dịch vụ là một lĩnh vực đang tăng
trưởng và đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Ấn Độ. Sự tiến tới
một thời đại kỹ thuật số và một số lượng lớn dân số trẻ và có học, thông thạo tiếng
Anh đang dần chuyển Ấn Độ thành một điểm đến quan trọng của các dịch vụ điều
hành kinh doanh (back office) của các công ty toàn cầu khi họ tiến hành outsourcing
(đưa một phần hoặc toàn bộ công việc sang cho các nước khác thực hiện) các dịch vụ
khách hàng và hỗ trợ kỹ thuật của họ. Ấn Độ là một nước xuất khẩu chính nhân công
tay nghề cao trong lĩnh vực phần mềm và các dịch vụ tài chính và công nghệ phần
mềm. Các lĩnh vực khác như chế tạo, dược phẩm, công nghệ sinh học, công nghệ
nano, viễn thông, đóng tàu và hàng không đang thể hiện tiềm năng mạnh và đang đạt
mức tăng trưởng ngày càng cao hơn.
Ấn Độ đã từng áp dụng một phương pháp kinh tế xã hội chủ nghĩa trong gần suốt lịch
sử độc lập của mình. Chính phủ đã kiểm soát chặt chẽ sự tham gia của khu vực tư
nhân, ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, kể từ đầu thập niên
1990, Ấn Độ đã dần mở cửa thị trường của mình thông qua các cuộc cải cách kinh tế
theo hướng giảm kiểm soát của chính phủ đối với thương mại và đầu tư. Việc tư
nhân hóa các ngành thuộc sở hữu công và việc mở cửa một số ngành nhất định cho
nước ngoài và tư nhân tham gia diễn ra chậm chạp và gắn liền với những tranh cãi
chính trị.
Ấn Độ đối mặt với một dân số tăng nhanh và đòi hỏi giảm bất bình đẳng kinh tế xã
hội. Nghèo vẫn là một vấn đề nghiêm trọng dù nghèo đã giảm đáng kể kể từ khi quốc
gia này giành được độc lập, chủ yếu là nhờ cuộc cách mạng xanh và các công cuộc
cải tổ kinh tế.
Mục lục
[ẩn]
1 Lịch sử
•
o 1.1 Thời kỳ tiền thuộc địa
o 1.2 Thời kỳ thuộc địa
o 1.3 Thời kỳ sau khi độc lập
2 Dự báo của Goldman Sachs
•
3 Các dự báo tương lai khi xem xét các chuyển dịch sức mua tương
•
đương
4 Tham khảo
•
5 Liên kết ngoài
•
- [sửa] Lịch sử
Bài chi tiết: Lịch sử kinh tế Ấn Độ
Xem thêm: Niên biểu kinh tế Ấn Độ
Lịch sử kinh tế Ấn Độ có thể đại khái chia ra thành 3 kỷ nguyên, bắt đầu bằng thời kỳ
tiền thuộc địa kéo dài đến thế kỷ 17. Thời kỳ thuộc địa của Anh quốc bắt đầu từ thế
kỷ 17, kết thúc bằng mốc Ấn Độ giành được độc lập từ Anh quốc năm 1947. Thời kỳ
thứ 3 kéo dài từ năm 1947 cho đến nay.
[sửa] Thời kỳ tiền thuộc địa
Các công dân của nền văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một khu vực định cư đô thị vượt
trội và lâu dài đã phát triển thịnh vượng giữa năm 2800 trước Công nguyên và năm
1800 Công nguyên, sống bằng nghề canh nông, thuần hóa động vật, sử dụng cân và
đơn vị đo lường thống nhất, chế tạo công cụ và vũ khí và trao đổi mậu dịch với các
thành phố khác. Bằng chứng của các dãy phố quy hoạch hoàn chỉnh, hệ thống cấp
thoát nước đã cho thấy kiến thức của họ trong việc quy hoạch đô thị, bao gồm các hệ
thống vệ sinh đô thị đầu tiên của thế giới và sự hiện diện của một hình thức chính
quyền đô thị.[5]
Đồng tiền xu bằng bạc trong thời kỳ trị vì của vua Gupta Kumara Gupta I (414–55 AD)
Cuộc điều tra dân số năm 1872 cho thấy 99,3% dân số tạo thành nước Ấn Độ ngày nay
đã sống trong các ngôi làng,[6] những người có kinh tế phần lớn là cô lập và tự cung tự
cấp với nghề nông là chủ yếu. Điều này đã làm thỏa mãn yêu cầu lương thực thực
phẩm và cung cấp vật liệu thô cho các ngành lao động tay chân như dệt, chế biến thực
phẩm và ngành thủ công. Dù nhiều vương quốc và các triều vua phát hành tiền xu,
nhưng việc trao đổi ngang giá vẫn thịnh hành. Các làng trả sưu thuế cho các cấp quan
quyền bằng sản phẩm nông nghiệp còn những người thợ thủ công nhận được lương
thực cho ngày công của mình vào mùa thu hoạch.[7]
Sự sắp đặt lại, đặc biệt là Hindu giáo, các chế độ đẳng cấp và gia đình tứ đại đồng
đường đã đóng một vai trò ảnh hưởng trong việc định hình các hoạt động kinh tế.[8]
Chế độ đẳng cấp thực hiện chức năng rất giống với phường hội châu Âu, đảm bảo
sự phân chia lao động, cung cấp việc đào tạo huấn luyện những người học việc, cho
phép những người người sản xuất đạt được một sự chuyên môn hóa hẹp. Ví dụ như
trong một số khu vực nhất định, việc sản xuất một loại vải trong nhiều thứ vải khác
nhau là đặc sản của một đẳng cấp phụ nhất định.
- ước tính thu nhập đầu người của Ấn Độ (1857–1900) theo giá năm 1948–49.[9]
Sự du nhập của người nước ngoài và sự suy yếu trong lễ nghi truyền thông làm tầng
lớp Hindu mất đi đặc quyền xã hội, do đó, ngoại thương Ấn Độ phần lớn nằm trong
tay người nước ngoài và người Hồi giáo.[10] Các mặt hàng dệt như vải muxơlin, vải in
hoa, khăn choàng, và các sản phẩm nông nghiệp như tiêu, quế, thuốc phiện và cây
chàm đã được xuất khẩu sang châu Âu và Trung Đông và Đông Nam Phi để đổi lấy
vàng và bạc.[11]
Việc đánh giá nền kinh tế thời kỳ tiền thuộc địa của Ấn Độ chủ yếu là định tính do
thiếu thông tin mang tính định lượng. Một ước tính cho thấy thu nhập của Đế quốc
Môgôn của Akbar Đại đế năm 1600 với mức 17,5 triệu £, tương phản với tổng thu
nhập của Anh năm 1800, với tổng số 16 triệu £.[12] Trước khi người Anh đến xâm
lược, Ấn Độ là một nền kinh tế phần lớn là nông nghiệp truyền thống với một bộ
phận chủ yếu sống phụ thuộc vào công nghệ nguyên thủy. Ngành nông nghiệp đã tồnt
ại cùng với một hệ thống thương mại, chế tạo và tín dụng phát triển một cách cạnh.
Sau khi Môgôn sụp đổ và sự nổi lên của Đế quốc Maratha, nền kinh tế Ấn Độ đã rơi
vào thời kỳ bất ổn chính trị do các cuộc chiến tranh can thiệp và các cuộc xung đột. [13]
[sửa] Thời kỳ thuộc địa
Sự cai trị thực dân đã mang đến một thay đổi lớn trong môi trường thuế má từ thuế thu
nhập sang thuế tài sản đã dẫn đến một sự bần cùng hóa hàng loạt và cảnh cơ cực của
đại đa số nông dân. Nó cũng tạo ra một hoàn cảnh chế độ mà trên giấy tờ là đảm bảo
quyền sở hữu giữa những người thực dân, khuyến khích tự do thương mại và tạo ra
một đơn vị tiền tệ thống nhất với tỷ giá hối đoái cố định, hệ thống cân đong đo đếm
tiêu chuẩn hóa, các thị trường vốn, cũng như hệ thống đường sắt và điện báo phát
triển, một dịch vụ dân sự với mục tiêu độc lập khỏi sự can thiệp chính trị và một hệ
thống thông luật, hệ thống pháp lý adversarial.[14] Sự thực dân hóa của Anh đối với Ấn
Độ trùng hợp với các thay đổi lớn trong nền kinh tế thế giới – công cuộc công nghiệp
hóa và một sự tăng trưởng đáng kể trong sản xuất và thương mại. Tuy nhiên, cuối thời
kỳ cai trị thực dân, Ấn Độ đã thừa hưởng một nền kinh tế thuộc loại một trong những
nước nghèo nhất thế giới đang phát triển,[15] với sự phát triển công nghiệp trì trệ,
ngành nông nghiệp không thể nuôi dân số đang tăng trưởng, có tuổi thọ và tỷ lệ biết
chữ thuộc loại thấp nhất thế giới.
Một ước tính của nhà lịch sử Angus Maddison thuộc Đại học Cambridge cho thấy
rằng tỷ lệ thu nhập của Ấn Độ trong tổng thu nhập của thế giới giảm từ mức 22,6%
năm 1700 xuống còn 3,8% năm 1952.[16] Trong khi các nhà lãnh đạo Ấn Độ trong quá
trình đấu tranh giành độc lập và những nhà nhà lịch sử kinh tế dân tộc chủ nghĩa cánh
- tả đã đổ lỗi chế độ thực dân cho tình trạng ảm đạm của nền kinh tế Ấn Độ do hậu
quả của chế độ thực dân, một quan điểm kinh tế vĩ mô khái quát hơn về Ấn Độ trong
thời kỳ này cho thấy có các lĩnh vực tăng trưởng và giảm sút, dẫn đến sự thay đổi
mang lại bởi chế độ thực dân và bởi một thế giới đang đi về hướng công nghiệp hóa
và hội nhập kinh tế.[17][18]
[sửa] Thời kỳ sau khi độc lập
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người theo giá cố định của Ấn Độ (1950–
2006). Nguồn số liệu: Penn World tables.
Chính sách kinh tế của Ấn Độ từ khi độc lập chịu ảnh hưởng của kinh nghiệm thời kỳ
thực dân (bị các nhà lãnh đạo Ấn Độ coi là có tính bóc lột) và chịu ảnh hưởng của
phương hướng các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa xã hội Fabia. Chính sách có thiên
hướng theo chủ nghĩa bảo hộ, nhấn mạnh thay thế nhập khẩu, công nghiệp hóa, sự
can thiệp của nhà nước vào các thị trường lao động và tài chính, khu vực công lớn, cơ
chế điều tiết hoạt động kinh doanh và kế hoạch hóa tập trung.[19] Jawaharlal Nehru, thủ
tướng đầu tiên của Ấn Độ, cùng với nhà thống kê Prasanta Chandra Mahalanobis, và
tiếp theo là Indira Gandhi đã thiết kế và giám sát chính sách kinh tế. Họ hy vọng thu
được kết quả thuận lợi từ chiến lược này vì nó kết hợp cả khu vực tư nhân lẫn công
cộng và vì chiến lược này dựa trên sự can thiệp trực tiếp và gián tiếp của nhà nước
hơn là hệ thống chỉ huy tập trung cực đoan kiểu Liên Xô.[20] Chính sách đồng thời tập
trung vào cả ngành công nghiệp nặng thâm dụng vốn và công nghệ và trợ cấp cho
ngành dệt bông thâm dụng lao động kỹ năng thấp và thủ công đã bị nhà kinh tế Milton
Friedman chỉ trích. Ông này cho rằng điều đó gây lãng phí vốn và lao động và làm
chậm trễ sự phát triển của các nhà chế tạo nhỏ.[21]
- GDP (PPP) bình quân đầu người của các nền kinh tế Nam Á và Hàn Quốc, tính bằng
tỷ lệ so với GDP bình quân đầu người của Hoa Kỳ[19][22]
Do tốc độ tăng trưởng bình quân từ năm 1947–80 thấp so với tốc độ tăng trưởng của
các nước Nam Á khác, đặc biệt là "Các con hổ Đông Á", nên người ta đã dùng cụm từ
"tỷ lệ tăng trưởng Hindu" để bêu giếu Ấn Độ.[14] Sau năm 1980, có hai pha cải cách
kinh tế tạo ra sự tăng tốc tăng trưởng kinh tế cho Ấn Độ. Các biện pháp ủng hộ kinh
doanh năm 1980, do Rajiv Gandhi khởi xướng, đã xóa bỏ các hạn chế mở rộng công
suất cho incumbents, xóa bỏ kiểm soát giá và giảm các loại thuế doanh nghiệp. Chính
sách tự do hóa kinh tế năm 1991, được thủ tướng Ấn Độ lúc đó là P. V. Narasimha Rao
và bộ trưởng tài chính của ông là Manmohan Singh khởi xướng phản ứng lại cuộc
khủng hoảng cán cân thanh toán, đã thủ tiêu Chế độ giấy phép Raj (cấp giấy phép
nhập khẩu, công nghiệp và đầu tư) và đã chấm dứt nhiều sự độc quyền của khu vực
công, cho phép phê duyệt tự động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nhiều lĩnh vực.[23]
Kể từ đó, phương hướng tự do hóa chung vẫn được giữ, bất kể chính đảng nào cầm
quyền, mặc dù không có đảng nào là không cố tiến hành các cuộc vận động hành lang
đầy quyền lực như các nghiệp đoàn và nông dân, hay các vấn đề có khả năng tranh cãi
như đổi mới các luật lao động và giảm trợ cấp nông nghiệp.[24]
Kể từ năm 1990, Ấn Độ đã nổi lên như là một trong những nền kinh tế thịnh vượng
nhất trong thế giới đang phát triển; trong thời kỳ này, nền kinh tế đã tăng trưởng ổn
định, chỉ có một vài đợt giảm sút lớn. Sự tăng trưởng này đã đi cùng với sự gia tăng
tuổi thọ, tỷ lệ biết chữ và an ninh lương thực.
Xếp hạng tin tưởng của Ấn Độ bởi S&P and Moody đã bị các thử nghiệm hạt nhân
năm 1998 làm sụt giảm, nhưng đã tăng lên mức đáng đầu tư từ năm 2007 .[25][26]
[sửa] Dự báo của Goldman Sachs
Goldman Sachs đã dự báo rằng Ấn Độ sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới vào
năm 2035 dựa trên tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm dự báo đạt từ 5,3 đến 6,1%.
Hiện tại tốc độ tăng trưởng là 9,4%.
Năm 1999, Goldman Sachs đã dự báo rằng GDP của Ấn Độ theo giá thực tế sẽ vượt
qua Pháp và Italia vào năm 2020, vượt Đức, Anh quốc vào năm 2025, và vượt qua Nhật
- Bản vào năm 2035. Đến năm 2035, Ấn Độ được cho rằng sẽ là nền kinh tế lớn thứ 3
thế giới, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc[4]. Goldman Sachs đã đưa ra những dự báo này
căn cứ trên tốc độ tăng trưởng dự tính của Ấn Độ là từ 5,3%-6,1% trong những thời kỳ
khác nhau, còn hiện nay Ấn Độ đang đạt mức tăng trưởng hơn 9% mỗi năm. Tuy nhiên
báo cáo này cũng lưu ý rằng đã có sự chênh lêch lớn giữa dự báo và thực tế đối với tốc
độ tăng trưởng thời kỳ 1960–2000; Dự báo là 7,5% song thực tế lại chỉ là 4,5%.
Một báo cáo khác gần đây của Goldman Sachs, được BBC News trích dẫn, cho rằng:
"Ấn Độ có thể vượt Anh quốc và trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới trong một
thập kỷ nữa do tăng trưởng của quốc gia này tăng tốc".[27] Jim O'Neal, Nhóm trưởng
của Nhóm Kinh tế học Toàn cầu tại Goldman Sachs, đã phát biển trên BBC rằng, "Sau
30 năm, lực lượng lao động của Ấn Độ sẽ lớn bằng của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc
cộng lại".[28]
[sửa] Các dự báo tương lai khi xem xét các chuyển
dịch sức mua tương đương
Quy mô GDP của Hoa Kỳ, Trung Quốc và Ấn Độ trong vòng vài thập kỷ tới, có xem
xét các yếu tố sức mua tương đương, các xu hướng tăng trưởng và cơ cấu dân số.
- Dự báo thu nhập bình quân đầu người (theo Dollar Mỹ năm 2006) trong vài thập kỷ
nữa, có xem xét sức mua tương đương, các xu hướng tăng trưởng và cơ cấu dân số.
Tuy nhiên, báo cáo của Goldman Sachs đã bỏ qua hiệu ứng giảm sút nhanh những tỷ lệ
sức mua tương đương của các nền kinh tế khi chúng đã đạt mức trưởng thành, dẫn
đến các sức mua tương đương cuối cùng có xu hướng đạt 1,0 (so với con số 5,0 đối
với Ấn Độ và Trung Quốc trong năm 2007 (có nghĩa rằng giá trị 1 dollar Mỹ ở Ấn Độ
và Trung Quốc sau khi chuyển đổi sang đơn vị tiền tệ địa phương theo tỷ giá hối đoái
hiện tại lớn hơn 5 lần giá trị đó ở Hoa Kỳ do các đồng tiền này rẻ hơn). Sự sụt giảm
này xảy ra do: (1) lạm phát và (2) sự tăng giá đồng tiền địa phương. Hai nhân tố này có
thể đồng thời xảy ra, dẫn đến tốc độ tăng trưởng GDP theo mức tỷ giá là phi thường,
đạt 20% hoặc hơn mỗi năm. Điều này đẫn đến việc tăng gấp đôi GDP theo giá USD
cố định mỗi 3,5 năm hay đại loại (một ví dụ của hiện tượng này đã từng xảy ra đối
với nền kinh tế Ấn Độ trong năm 2006-2007 như được mô tả dưới đây).
Điều này đã từng xảy ra trong lịch sử ở các nền kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan và các nền kinh tế mới phát triển khác được công nghiệp hóa nhanh và đuổi kịp
phương Tây chỉ trong vài thập kỷ. Không có lý do gì xu hướng này lại không xảy ra
với các nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ (một trong những hiện tượng này có thể
nhìn thấy qua những áp lực gần đây làm tăng giá đồng tiền của Ấn Độ và Trung
Quốc). Ví dụ, tốc độ tăng trưởng GDP của Ấn Độ năm 2006 là 9,4%, đồng tiền tăng
giá ~10%, và lạm phát khoảng 5%, dẫn đến tăng trưởng GDP đo theo "dollar tỷ giá",
(=(1+(0,1+0,05))*1,094) khoảng 26%. Thậm chí cả sau khi điều chỉnh cho mức 3%
mất giá của giá trị USD thực (do lạm phát ở Mỹ), các con số này theo tỷ giá USD cố
định vẫn đạt mức tăng trưởng GDP 22% mỗi năm. Điều này giải thích tại sao GDP
của Ấn Độ tăng từ mức 800 tỷ USD năm 2006 lên hơn 1000 tỷ USD năm 2007.
- Do vậy, các con số tăng trưởng do Goldman Sachs tính toán hoặc do các tổ chức khác
tính toán sử dụng tăng trưởng GDP thực tế của mỗi nước trong dự báo của mình
(tương ứng với tăng trưởng trên cơ sở PPP) đã bỏ qua ảnh hưởng của sự suy giảm tỷ
số PPP. Họ đã sử dụng GDP theo tỷ giá hối đoái hiện hành làm cơ sở cho các dự báo
của mình về quy mô kinh tế. Bất kỳ phép ngoại suy tăng trưởng GDP nào dựa trên
tăng trưởng "địa phương" trong quá khứ mà không xem xét sự suy giảm tỷ số PPP khi
kinh tế phát triển đều đã đánh giá không hết tăng trưởng GDP theo tỷ giá xảy ra thực
sự. Và, sai sót này sẽ lũy tích khi có thêm những dự báo mới trong tương lai.
Do đó, việc dự báo hợp lý GDP bình quân đầu người trong tương lai nên căn cứ một
cách đơn giản trên hai số lượng thích hợp: kích cỡ nền kinh tế hiện tại được đo bằng
PPP, và tốc độ tăng trưởng thực. Căn cứ vào sự tăng trưởng PPP, người ta tính rằng
GDP của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ vượt qua Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế
lớn nhất vào thời kỳ 2009-2010, nghĩa là chỉ cách hiện nay (2007) có 3 năm. Tương tự,
GDP của Ấn Độ đã vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới. Nếu
dự báo tương lai nền kinh tế, người ta tính rằng nền kinh tế (GDP theo PPP) Ấn Độ sẽ
có vượt qua nền kinh tế Mỹ vào khoảng năm 2024 (với mức tăng trưởng 10% mỗi
năm cho Ấn Độ, 3% cho Mỹ). Nghiên cứu lịch sử kinh tế Trung Quốc, Đài Loan, Hàn
Quốc sẽ cho phép thấy nền kinh tế Ấn Độ đã vừa vượt qua một nút thắt cổ chai tăng
trưởng, và rằng tốc độ tăng trưởng thực của Ấn Độ có thể thậm chí cao hơn và sẽ giữ
được trong nhiều thập kỷ, khiến cho sự qua mặt GDP này có thể xảy ra sớm hơn và
kịch tích hơn"[29]). Mặc dù Ấn Độ trở thành nền kinh tế có GDP lớn hơn GDP của kinh
tế Hoa Kỳ, thì thu nhập bình quân đầu người của Ấn Độ vẫn chỉ bằng ~1/4 so với của
Mỹ vào lúc đó. Vì lý do như trên, chắc chắn là trong vòng 16-17 năm kể từ năm 2007,
Ấn Độ vẫn tiếp tục tăng trưởng với nhịp đô như hiện nay khi nó vượt Hoa Kỳ để trở
thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
nguon tai.lieu . vn