Xem mẫu

  1. Kinh nghiệm ương nuôi cá sặc rằn giống   Cá sặc rằn, tên khoa học Trichgaster pectorakilis, thuộc họ Cá rô (Anabantidae). Cá sặc rằn thích hợp ở những vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, lượng mưa hằng năm nhiều. ở nước ta cá sống thích hợp nhất ở vùng ĐBSCL như Cần Thơ, An Giang, Cà Mau... Cá sặc rằn có thể sống được ở những nơi nước lợ, có hàm lượng chất hữu cơ cao, lượng oxy hòa tan thấp, pH thấp, chúng có thể sống bình thường ở nhiệt độ thấp 10- 12oC. Cá sặc rằn sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 25-30oC và pH nước trung tính. Trong điều kiện tự nhiên, mùa hè cá đẻ là tháng 5-9, trong điều kiện nhân tạo, cá mẹ được chăm sóc tốt, có thể kích thích đẻ từ cuối tháng 2. Thông thường khoảng 1 năm, cá thành thục sinh sản lần đầu. Trung bình mỗi cá mẹ đẻ khoảng 25.000 trứng/đợt. Để phân biệt cá đực, cá cái, người nuôi cần nhận thấy những đặc điểm như: cá đực tia vi chạm dài tới đuôi, trong khi cá cái ngắn hơn. Đường sắc tố chạy dài từ sống lưng xuống bụng của cá đực rõ ràng, trong khi của cá cái không có màu sắc trên thân và vi của con đực có màu sắc sặc sỡ, vi cá cái nhợt nhạt. Sau một năm nuôi, mỗi con có thể đạt trọng lượng 60-80g. Sau hai năm có thể đạt 150g/con. Khi sinh sản, con đực và con cái ghép tình với nhau nơi yên tĩnh gần bờ có cây cỏ thủy sinh để đẻ trứng. Khi cá cái đẻ xong, cá đực thường gom trứng vào miệng và nhả trở lại mặt nước dưới dạng tổ bọt. Trong giai đoạn phôi thai và giai đoạn cá mới nở, cá đực và cá cái thay nhau canh gác để bảo vệ tổ đàn con của chúng. Trong điều kiện 28-30o, trứng thụ tinh và nở sau 24 giờ. Cá con sau khi nở được nuôi bằng noãn hoàng 2-3 ngày. Sau khi tiêu thụ hết noãn hoàng, cá con di chuyển xuống lớp dưới để kiếm mồi. Thông thường cá ương trong ao sau 30 ngày sẽ đạt chiều dài 2-3cm. Cá bố mẹ được nuôi trong ao (mặt ao nên thả rau muống). Mật độ thả cá khoảng 25-30 con/m2, thức ăn cho cá là cám mịn (85%), bột cá (5- 8%). Lượng thức ăn bằng 2% trọng lượng cá mỗi ngày. Khi thấy mực nước ao cạn, phải thêm nước sao cho nước luôn ở mức 1,5m để giữ môi trường nuôi được trong sạch tạo điều kiện kích thích phát dục để tháng 4- 5 cá bắt đầu đẻ ngay trong ao nuôi. Có thể để nuôi ngay cá con trong ao hay vớt đi nơi khác nuôi cũng được. Vào đầu mùa mưa, khi cá thành thục bắt đầu sinh sản, có thể cho đẻ trong điều kiện nhân tạo bằng cách chuẩn bị bể xi măng có kích thước 1 x 2 m; không có bể thì dùng lu hay chậu 1
  2. cũng được. Lấy nước sạch, giữ độ sâu khoảng 40cm. Lấy lá môn úp lêm mặt nước làm tổ cho cá, chọn con cá bụng to mềm, lỗ hậu môn lòi ra (màu hồng). Còn cá đực thì vuốt nhẹ thấy tinh màu sữa chảy ra. Chích thuốc cho cá đẻ HCG (Human Chrionic Gonadotropinhormon). Liều dùng cho cá đực bằng 1/3 cá cái. Cá sẽ đẻ trứng, chờ cá đẻ xong thì vớt đi nơi khác ấp. Trong thời gian này thay nước mỗi ngày một lần, vớt bỏ những trứng ung. Sau khi cá nở, chuyển chúng xuống ao để ương thành cá giống. Trước khi thả xuống ao, cần chuẩn bị ao để ương cá bột: vét cạn bùn, chỉ để lại một lớp mỏng 0,2-0,3m; lấp hết các hang cua, lỗ mọi. Bón vôi bột với lượng 10kg/100m2 ao. Nếu trong ao có nhiều mầm bệnh hay pH thấp thì bón tăng lượng vôi và phơi đáy ao 2-3 ngày rồi cho nước sông vào ao sâu tới 1,5m. Khi thức ăn tự nhiên phát triển và nước chuyển sang màu xanh nõn chuối thì bắt đầu thả cá. Trong 10 ngày đầu, tùy theo màu nước của ao mà bón phân thích hợp để tạo quần thể thực vật thủy sinh trong ao. Nên thả cá vào lúc trời mát. Trước khi thả, nên ngâm bao chứa cá khoảng 30 phút cho nhiệt độ nước trong bao bằng nhiệt độ nước ao. Khi thả cá nên mở miệng bao cho nước vào từ từ. Mật độ thả trung bình 500- 600 con/m2, sau khi thả cá 2/4 giờ, dùng lòng đỏ trứng gà vịt đã luộc chín hòa với sữa đậu nành rắc đều trong ao 3-4 lần/ngày (mỗi ngày 2-3 trứng + 6 kg đậu nành xay nấu chín cho 1000m2 ao nuôi). Sau khi thả được 1 tuần, cho ăn bột bắp, cám (2 lần/ngày), rải đều khắp ao, tuần đầu cho ăn 0,5kg/100 m2 ao, sau đó tăng dần. TT (Theo Khoa học và Đời sống, 2003, No. 214) VIETLINH PTE. Official Homepage KỸ THUẬT NUÔI CÁ SẶC RẰN 2
  3. I/ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI SINH HỌC CÁ SẶC RẰN: 1/ Phân bố: Cá sặc rằn phân bố tại Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và được di giống sang các nước Mã Lai, Indonesia, Bangladesh. Cá sặc rằn phân bố rộng rãi trong nhiều thủy vực như kênh rạch, ruộng lúa, ao hồ. Tại Việt Nam, trong vùng châu thổ sông Mêkông, cá phân bố tập trung trong các vùng trũng ngập nước quanh năm, sinh sản tự nhiên trong ruộng, kinh mương nơi chúng cư trú, đặc biệt là có nhiều cây cỏ thủy sinh với nhiều chất hữu cơ. Hai tỉnh Cà Mau và Kiên Giang là vùng phân bố tập trung và có sản lượng cao hiện nay ở vùng ĐBSCL. 2/ Sinh trưởng: Trong điều kiện ở ĐBSCL nhiệt độ thích hợp 250C - 300C cá đạt trọng lượng khoảng 140g/con sau 2 năm, quan sát cá đực & cá cái cùng tuổi thường cá đực có trọng lượng nhỏ hơn. 3/ Dinh dưỡng: Thức ăn ở thời kỳ đầu gồm nhiều loại như phiêu sinh động vật, phiêu sinh thực vật & thủy thực vật phân hủy. Ở thời kỳ trưởng thành, cấu tạo bộ máy tiêu hóa của cá phù hợp với loài ăn tạp. Những loại thức ăn thường xuyên bắt gặp và chiếm khối lượng lớn trong ruột cá gồm: mùn bã hữu cơ, thực vật phiêu sinh, động vật phiêu sinh, mầm non thực vật cũng như các loại thực vật thủy sinh mềm trong nước. Cá cũng sử dụng tốt những loại thức ăn do người cung cấp như: bột ngũ cốc các loại, cám tấm, động vật và khi thiếu thức ăn chúng ăn cả trứng của chúng. II. KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI CÁ SẶC RẰN: 1/Điều kiện ao đìa: - Nguồn nước: Phải dồi dào, có điều kiện cấp thoát nước cho ao khi cần thiết. Ao không bị khô cạn hoặc ngập úng. Nước phải có chất lượng tốt 3
  4. không bị phèn (pH = 7 là tốt nhất, không nên sử dụng ao có pH < 6). Nước không bị nhiễm bẩn, không bị nhiễm độc (chủ yếu độc do thuốc trừ sâu). - Diện tích: Tùy thuộc qui mô sản xuất, điều kiện sẵn có và khả năng của từng gia đình. Có thể tận dụng các kênh mương sẵn có để ương cá. Tuy nhiên không nên sử dụng những kênh mương quá dài để tiện cho việc chăm sóc quản lý. Nếu kênh quá dài thì có thể chặn ngăn thành từng đoạn ngắn. - Với phạm vi gia đình và tùy tình hình hiện nay ở khu vực, ao ương cá sặc rằn nếu có diện tích vài trăm m2 là thích hợp. Tùy theo yêu cầu lượng cá giống thả mà có thể có ít hay nhiều ao. - Độ sâu ao: Độ sâu dùng ương nuôi cá sặc rằn có thể biến động, nhưng để tiện cho chăm sóc quản lý và hoạt động của cá con, ao có độ sâu 0,8 - 1m là hợp lý nhất. - Chất đáy: Không sử dụng ao đất phèn để ương cá. Đáy ao là bùn hoặc bùn pha cát là tốt nhất. Độ dày bùn đáy ao thích hợp cho ương cá sặc rằn là 20 - 25 cm, không nên dùng ao có đáy quá trơ ít bùn (thường là ao mới đào) hoặc ao có đáy bùn quá dày (thường là ao lâu ngày không sên vét). - Trường hợp dùng ao có đáy bùn dày thì trước khi thả cá nuôi, ao cần được tát cạn, sên vét bớt bùn đáy, chỉ để lại 20 -25 cm. - Điều kiện chiếu sáng: Ao ương cá con cần đủ ánh sáng mặt trời. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu sử dụng những ao thiếu ánh sáng thì kết quả ương nuôi sẽ thấp, ít khi thành công. Vì vậy không nên để bóng cây che trên mặt ao. - Mặt nước ao cần thoáng, cần loại bỏ hết rong, cỏ nước, bèo ở trên mặt ao. 2/ Chuẩn bị ao trước khi thả cá nuôi: - Tát cạn ao: - Bón vôi: Thường dùng là vôi bột, bón 10kg/100m2 - Tu sửa bờ: chống ngập úng, chống rò rỉ, chống mất nước, chống cá khác (đặc biệt là cá lóc) vào ao. 4
  5. - Phơi đáy ao: Nếu gặp trời nắng mà phơi được đáy ao vài ngày thì tốt nhất. Nhưng lưu ý là những vùng đất bị nhiễm phèn thì không nên phơi lâu. - Bón phân: Có thể dùng phân gà, phân heo hoặc phân xanh (các loại lá xanh, tốt nhất là lá điên điển) để bón lót cho ao từ 15 -20kg/ 100m2 ao. - Lấy nước cho ao: Nước cần được lọc qua lưới dày trước khi đưa vào ao để tránh cá khác, tép vào ao. Nước cấp cho ao đủ độ sâu cần thiết từ 0,8 - 1m. - Diệt trừ dịch hại trước khi thả cá: Có nhiều loại dịch hại đối với cá. Nhưng thường quan tâm để diệt nhất là trứng ếch nhái và bọ gạo. Để diệt trứng ếch nhái cần rào lưới xung quanh bờ ao. Để diệt bọ gạo, sử dụng dầu lửa 1lít/1.000m2ao, dầu lửa được rải xuống đầu ao, phía đầu gió cho lan tràn khắp ao. Sau khi thả dầu lửa xuống một ngày thì có thể thả cá bột. 3/ Thả cá bột xuống ao: - Tuổi cá thả nuôi: Sau khi cá nở được 2 - 3 ngày (tức là khi thấy cá bơi lội nhanh nhẹn) thì đem thả xuống ao. Tính từ lúc chích cho cá đẻ thì khoảng 4 ngày sau khi chích. Vấn đề liên quan chặt chẽ đến thời gian chuẩn bị ao. - Thời gian thả cá: Thích hợp nhất là từ 8 - 9 giờ sáng và những lúc trời không có mưa lớn. Tránh thả cá vào những khi nhiệt độ nước quá cao. - Mật độ thả: 400- 500 con/m2 là thích hợp. 4/ Cho ăn chăm sóc: - Sau khi bón phân lần đầu tiên (bón lót) lúc ao còn cạn nước, thì sau một tuần lấy nước vào ao, cần bón thêm một lần phân. Lần thứ 2 này chỉ bón 10kg/100m2 tức là chỉ 1/2 lần đầu. - Cho ăn: Sau khi thả cá bột xuống ao, tiến hành cho ăn ngay. * Trong tuần lễ đầu tiên: Mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 2 lòng đỏ trứng gà (vịt) luộc + 1 kg bột đậu nành/1.000m2 (pha nước vào thức ăn cho loãng, tạt đều khắp ao). 5
  6. * Tuần lễ thứ 2: Mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 1 kg cám mịn + 0,5 kg bột cá/1.000m2 ao (cũng pha nước như tuần đầu). * Tuần lễ thứ 3: Tùy theo mức độ ăn của cá mà tăng thêm lượng thức ăn cho phù hợp. - Quản lý cá: Thường xuyên quan sát ao cá, tránh bị mọi, tràn bờ, kịp thời phát hiện bệnh dịch hại (ếch, nhái, rắn...) để diệt trừ. Đồng thời quan sát hoạt động của cá (ăn mạnh hay yếu, có thiếu Oxy hay không...) để kịp thời xử lý. - Giảm mật độ cá: Sau khi ương cá sặc rằn khoảng 1 tháng, cá đã lớn không còn đủ sức chứa lượng cá con. Cần phải san thưa sang ao khác để giảm mật độ. Thông thường từ một ao ban đầu cần thêm 1 ao nữa để đưa cá hương qua nuôi. Có như vậy thì cá mới tiếp tục lớn khỏe và mạnh. Ao thứ 2 dùng để đưa cá qua, cũng cần được chuẩn bị như ao đầu tiên để thả cá bột (tát cạn, bón vôi...) 5/ Luyện cá trước khi xuất ao: Trước khi đưa cá ra khỏi ao cần được luyện trước một tuần bằng cách hằng ngày lội xuống ao xua đuổi cá, mỗi ngày 1 lần trong tuần. Khi cá ương được 60 ngày tuổi mới thu hoạch, nếu thu sớm dễ xay xát sẽ hao hụt nhiều khi vận chuyển. Dùng lưới kích thước mắt nhỏ. Chứa cá trong bể xi măng hay bể đất lót nylon, nước trong bể phải xanh. Cá phải được chứa trên bể ít nhất 2 ngày mới xuất đi Ks. Nguyễn Mạnh Hà-TTGNN Bản tin Nông nghiệp và Nông thôn Vĩnh Long (số 25, tháng 10/2003) 6
  7. TTKN ĐỒNG THÁP GIỚI THIỆU ƯƠM NUÔI CÁ SẶC RẰN KỸ THUẬT ƯƠM NUÔI CÁ SẶC RẰN và CÁCH PHÒNG TRỊ BỆNH I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC 1. Sinh trưởng: Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp 25 – 35oC cá đạt trọng lượng  khoảng 140 g/con sau 2 năm (ở ĐBSCL, quan sát cá đực và cá cái cùng kích  thước, thường cá đực có trọng lượng nhỏ hơn. Hiện tượng cá đực có kích thước  nhỏ, có thể do trong quá trình sinh sản, cá đực phải giữ tổ, và chăm sóc cá con,  nên ăn ít, hoặc không ăn trong thời gian này. 2. Dinh dưỡng:  Cũng như nhiều loài cá khác, ở thời kỳ đầu sau khi nở, cá dinh  dưỡng bằng noãn hoàng. Sau khi noãn hoàng tiêu biến, cá chuyển sang ăn thức ăn  bên ngoài. Thức ăn ở thời kỳ đầu gồm nhiều loại, như phiêu sinh động vật (Ciliata,  Rotifera,  Copepoda,   Cladocera),  phiêu   sinh   thực   vật  (Bacillariophyceae,   Cyanophyceae,  Chlorophyceae) và thủy thực vật tan ra. Ở thời kỳ trưởng thành, cấu tạo bộ máy tiêu hóa của cá phù hợp với loài ăn tạp.  Những loại thức ăn thường xuyên bắt gặp và chiếm khối lượng lớn trong ruột cá  gồm: mùn bã hữu cơ, thực vật phiêu sinh, động vật phiêu sinh, mầm non thực vật,  cũng như các loại thực vật thủy sinh mềm trong nước. Cá cũng sử dụng tốt các loại thức ăn do người cung cấp như: bột ngũ cốc các loại,  động vật và khi thiếu thức ăn chúng ăn cả trứng của chính nó. 3. Đặc điểm thành thục sinh dục của cá sặc rằn Cá sặc rằn thành thục lần đầu sau 7 tháng tuổi. Khi thành thục, có thể phân biệt  dễ dàng cá đực, cá cái bằng các biểu hiện bên ngoài của dấu hiệu sinh dục phụ.  Khi thành thục, ở cá đực phần tia mềm vây lưng kéo dài tới hoặc vượt khỏi gốc vi  đuôi, còn cá cái vi này rất ngắn và không bao giờ chạm tới gốc vi đuôi. Ngoài chỉ  7
  8. tiêu căn bản này, cũng có thể phân biệt cá đực với các sọc ngang đậm nét chạy từ  lưng xuống bụng rõ hơn cá cái và miệng của nó cũng lớn hơn. Sự phát triển tuyến sinh dục của cá sặc rằn ở vùng ĐBSCL theo mùa rất rõ. Vào  mùa khô (tháng 1 – 2), phần lớn cá ở giai đoạn II, sang tháng 3 giai đoạn III tăng  dần và đã thấy xuất hiện những cá thể ở thời kỳ đầu của giai đoạn IV. Vào khoảng thời điểm giao mùa (khô sang mưa) là sự chuyển biến rất nhanh của  tuyến sinh dục. Thời kỳ này, đa số cá có tuyến sinh dục ở giai đoạn IV, chỉ một ít  cá ở giai đoạn III. Khi mùa mưa tới, nhất là sau những trận mưa rào đầu mùa, cá  tìm tới những nơi nước cạn ven bờ, nhiều cây cỏ thủy sinh để sinh sản. Cá sinh  sản trong suốt mùa mưa, nên trong đàn luôn xuất hiện những cá thể có mức độ  thành thục khác nhau. Khi sinh sản cá sặc rằn bắt cặp và tìm đến vùng nước ven bờ, nơi có nhiều cây cỏ  thủy sinh để đẻ. Hoạt động sinh sản bắt đầu với việc làm tổ bằng bọt của cá đực,  sau đó cá cái đẻ trứng ra ngoài, trứng được thụ tinh và cũng chính cá đực dùng  miệng gom trứng lại rồi đặt vào tổ bọt. Kể từ khi trứng thụ tinh, trong điều kiện nhiệt độ nước 27 – 29oC cá nở sau 20 – 23  giờ. Trong suốt thời gian này kể từ khi trứng đẻ tới nở và dinh dưỡng bằng noãn  hoàng, cá đực thường xuyên bơi lội quanh tổ để bảo vệ và dùng vây quạt nước  cung cấp oxy cho trứng. II. CHUẨN BỊ ĐÀN CÁ SINH SẢN Đàn cá dùng cho sinh sản có thể được nuôi trong các ao, đìa từ trước hoặc cũng  có thể sử dụng cá đã thành thục (có trứng tốt) ở tự nhiên (trong ruộng, rừng tràm).  Tuy vậy, cá được nuôi thì chủ động và hiệu quả hơn cá thu từ tự nhiên. 1. Nuôi cá chuẩn bị cho sinh sản a. Ao dùng nuôi cá ­ Diện tích ao: tùy thuộc vào qui mô sản xuất, thông thường diện tích khoảng 100  m2 là thích hợp cho qui mô gia đình, ao có hình vuông hoặc chữ nhật. ­ Độ sâu: thích hợp là 0,5 – 0,8 m. 8
  9. ­ Đáy ao: có lớp bùn mỏng, khoảng 10 cm. Không nên có lớp bùn quá dày. ­ Chất nước: nước ao không bị phèn, độ pH thích hợp khoảng 7, không nhiễm độc  (thuốc sâu), nước sạch, có điều kiện thay nước cho ao. ­ Ánh sáng: ao cần đầy đủ ánh sáng, không để cây cối quanh bờ che phủ ánh  sáng chiếu vào ao. Mặt ao thoáng, không để cây cỏ, rong bèo phủ trên mặt ao. ­ Trước khi thả cá nuôi, ao cần được tát cạn, bón vôi để diệt hết các loại cá tạp.  Bón 10 kg vôi bột/100 m2. b. Thời gian nuôi: Tiến hành thu gom cá và nuôi từ tháng 1 (tính theo dương lịch)  không nên nuôi trễ hơn. c. Mật độ thả nuôi: Tùy theo kích thước cá thả nuôi. Thông thường chọn những  con có trọng lượng từ 12 – 15 con/kg là thích hợp. Thả vào ao mật độ 0,5 kg/m2.  Khi tiến hành thả cá cần lưu ý tỷ lệ giữa cá đực và cá cái là 1:1. d. Cho ăn Cá sặc rằn là loài cá ăn tạp, nên thức ăn sử dụng để nuôi cá có thể gồm nhiều loại  tùy theo khả năng tìm kiếm và cung cấp của gia đình. Thức ăn tự chế: các loại thức ăn dùng để nuôi cá là : tấm cám, bột bắp, khoai lang,  khoai mì, bánh dừa, bột cá… Tùy theo điều kiện từng gia đình mà sử dụng cho  phù hợp. Nhưng trong các thành phần trên thì cố gắng có bột cá và cám. Những  thứ khác thì tùy điều kiện mà cho thêm. Các loại thức ăn được trộn chung lại với ít  nước để nắm từng nắm nhỏ cho ăn trong một cái sàn ăn. Cho ăn khoảng 3% trọng  lượng cá nuôi, tức là cứ 100 kg cá thì cho ăn 3 kg thức ăn trong một ngày. Thức ăn công nghiệp: ngoài thức ăn tự chế biến như trên, nếu có điều kiện mua  được thức ăn chế biến sẵn của các công ty Con Cò, CP… thì càng tốt. Những loại  thức ăn này được chế biến dưới dạng viên nổi trên mặt nước, khi cho ăn ít bị hao.  Khi sử dụng thức ăn công nghiệp thì hiệu quả nuôi cao hơn thức ăn chế biến ở gia  đình. Thức ăn công nghiệp cũng cho ăn 2 – 3% trọng lượng cá. e. Quản lý chăm sóc 9
  10. ­ Công việc chủ yếu là tránh thất thoát cá do tràn bờ, do rắn ăn cá, do mất trộm,  do cá tự ra khỏi ao… ­ Thực hiện thay nước cho ao để tránh bị dơ bẩn. f. Kiểm tra cá ­ Sau khi thả cá nuôi được 2 tháng thì kiểm tra lần đầu tiên. Mục đích của lần này  là xem cá mập ốm, chế độ nuôi (nhất là cho ăn) đã thích hợp chưa. Nếu thấy cá  mập thì giảm lượng thức ăn, nếu thấy cá ốm thì tăng lượng thức ăn. ­ Tháng 3 : Kiểm tra 1 lần ­ Tháng 4: kiểm tra 2 lần Mục đích của những lần kiểm tra tháng 3, tháng 4 là xem xét sự thành thục của cá  để lập kế hoạch cho cá đẻ. Thông thường vào tháng 4 đã có thể cho một số cá sinh sản được và cá sẽ đẻ  nhiều vào tháng 5, 6 (đầu mùa mưa). 2. Thu gom cá tự nhiên cho sinh sản a. Thời gian thu gom cá: Tùy thuộc vào nguồn cá tự nhiên. Có thể tiến hành vào  tháng 4, 5, 6. b. Điều kiện cá được thu gom ­ Phải khỏe mạnh, có khả năng sinh sản (thành thục) III. CHO CÁ SINH SẢN 1. Lựa chọn cá cho sinh sản ­ Cá cái: lựa chọn những con khỏe mạnh, bụng lớn, mềm, hậu môn hơi hồng. ­ Cá đực: những con khỏe mạnh, vuốt nhẹ vào bụng gần hậu môn thấy có sẹ màu  trắng (giống mủ đu đủ). Lưu ý là sẹ ra rất ít phải quan sát kỹ. 10
  11. ­ Tỷ lệ đực cái là : 1:1 2. Dụng cụ cho đẻ: Có thể dùng thau, khạp, lu, bể xi măng, bể đắp đất lót bạt… 3. Chích thuốc cho cá đẻ • Thời gian chích: thường là chiều mát (khoảng 4 – 5 giờ chiều)  • Loại thuốc: có thể dùng HCG, hoặc LRH + Motilium  • Liều lượng thuốc dùng: 1 lọ HCG chích được cho 3,5 kg cá cái + 3,5 kg cá  đực; 1 lọ LRH + 2 viên Motilium chích được cho 2 kg cá cái + 2 kg cá đực.  Sau khi chích thuốc thả cá vào dụng cụ cho đẻ, tỷ lệ 1 : 1. Cần đậy để cá khỏi  nhảy ra ngoài. Dùng lá môn hoặc lá sen úp lên mặt nước để cá làm tổ đẻ. Để ở nơi yên tĩnh, sau  khi chích từ 8 – 10 giờ thì cá đẻ. IV. KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI  CÁ SẶC RẰN 1. Điều kiện ao • Nguồn nước: phải dồi dào, có điều kiện cấp thoát nước cho ao khi cần thiết.  Ao không bị khô cạn hoặc ngập úng. Nước phải có chất lượng tốt không bị  phèn (pH = 7 là tốt nhất, không nên sử dụng ao có pH nhỏ hơn 6).  Nước  không bị nhiễm bẩn, không bị nhiễm độc (chủ yếu độc do thuốc trừ sâu).  • Diện tích: tùy thuộc qui mô sản xuất, điều kiện sẵn có và khả năng từng gia  đình. Có thể tận dụng các kênh mương sẵn có để ương cá. Tuy nhiên,  không nên sử dụng những kênh mương quá dài để tiện cho việc chăm sóc  quản lý. Nếu kênh quá dài thì có thể chặn ngăn thành từng đoạn ngắn.  • Với phạm vi gia đình và tình hình hiện nay ở khu vực, ao ương cá sặc rằn  nên có diện tích vài trăm m2 là thích hợp. Tùy theo yêu cầu lượng cá giống  thả mà có thể có ít hay nhiều ao.  • Độ sâu: độ sâu ao dùng ương nuôi cá sặc rằn có thể biến động, nhưng để  tiện cho chăm sóc quản lý và hoạt động của cá con, ao có độ sâu 0,8 – 1 m  là thích hợp nhất.  • Chất đáy: không sử dụng ao đất phèn để ương cá, đáy ao là bùn hoặc bùn  pha cát là tốt nhất. Độ dày bùn đáy ao thích hợp cho ương cá sặc rằn là 20  11
  12. – 25 cm, không nên dùng ao có đáy quá trơ ít bùn (thường là ao mới đào)  hoặc ao có đáy bùn quá dày (thường là ao lâu ngày không sên vét).  • Trường hợp dùng ao có đáy bùn dày thì trước khi thả cá nuôi, ao cần được  tát cạn, sên vét bớt bùn đáy, chỉ để lại 20 – 25 cm.  • Điều kiện ánh sáng: Ao ương cá con cần đủ ánh sáng  mặt trời. Đây là yếu  tố đặc biệt quan trọng. Nếu sử dụng những ao thiếu ánh sáng thì kết quả  ương nuôi cá sẽ thấp, ít khi thành công. Vì vậy, không nên để bóng cây che  trên mặt ao.  2. Chuẩn bị ao trước khi thả cá nuôi • Tát cạn ao.  • Bón vôi: thường dùng là vôi bột, bón 10 kg/100 m2 ao. Những ao hơi bị phèn  thì bón tăng hơn có thể tới 15 kg/100 m2.  • Tu sửa bờ, lấp lỗ mọi, chống ngập úng, chống rò rỉ, mất nước, chống cá  khác (đặc biệt là cá lóc) vào ao.  • Phơi đáy ao: nếu gặp trời nắng mà phơi được đáy ao vài ngày thì tốt nhất.  Nhưng lưu ý là những vùng đất bị nhiễm phèn thì không nên phơi lâu.  • Bón phân: có thể dùng phân gà, phân heo, hoặc phân xanh (các loại lá  xanh, tốt nhất là lá điên điển) để bón lót cho ao từ 15 – 20 kg/100 m2 ao.  • Lấy nước cho ao: nước cần được lọc qua lưới dày trước khi đưa vào ao để  tránh tép, cá khác vào ao. Nước cấp cho ao đủ độ sâu cần thiết từ 0,8 – 1  m.  • Diệt trừ địch hại trước khi thả cá, nhất là trứng ếch nhái và bọ gạo. Để diệt  trứng ếch nhái cần có sự kiên trì, tỉ mỉ, vào mỗi buổi sáng đi quanh ao vớt  bỏ trứng ếch nhái. Để diệt bọ gạo, sử dụng dầu lửa 1 lít/100 m2 ao, dầu lửa  được rải xuống đầu ao, phía đầu gió cho lan tràn khắp ao. Sau khi thả dầu  lửa xuống ao được một ngày thì có thể thả cá bột.  3. Thả cá bột xuống ao ­ Tuổi cá thả nuôi: sau khi cá nở 2­3 ngày (tức là khi thấy cá bơi lội nhanh nhẹn) thì  đem thả xuống ao. Tính từ lúc chích cho cá đẻ thì khoảng 4 ngày sau khi chích.  Vấn đề này liên quan đến thời gian chuẩn bị ao. ­ Thời gian thả cá: thích hợp nhất là từ  8 – 9 giờ sáng và những lúc trời không có  mưa lớn. Tránh thả cá vào những khi nhiệt độ nước quá cao. 12
  13. ­ Mật độ thả : 400 – 500 con/m2 là thích hợp 4. Cho ăn chăm sóc ­ Sau khi bón phân lần đầu tiên (bón lót) lúc ao còn cạn nước, thì sau 1 tuần lấy  nước vào ao, cần bón thêm một lần phân. Lần thứ hai này chỉ bón 10 kg/100 m2  tức là chỉ bằng 1/2 lần đầu. ­ Cho ăn: sau khi thả cá bột xuống ao, tiến hành cho ăn ngay: +  Trong tuần lễ đầu tiên: mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 2 lòng đỏ trứng gà (vịt)  luộc + 0,5 kg bột đậu nành. + Tuần lễ thứ 2: mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 1 kg cám mịn + 0,5 kg bột cá/100  m2 ao. + Từ tuần lễ thứ 3: tùy theo mức độ ăn của cá mà tăng thêm lượng thức ăn cho  phù hợp. Thông thường mỗi ngày khoảng 3 kg (bột cá + cám) cho 100 m2 ao là  phù hợp. ­ Quản lý cá: thường xuyên quan sát ao cá, tránh bị mọi, tràn bờ, kịp thời phát hiện  địch hại (ếch nhái, rắn,…) để diệt trừ. Đồng thời quan sát hoạt động của cá (ăn  mạnh hay yếu, có bị thiếu oxy hay không,…) để xử lý kịp thời. ­ Giảm mật độ cá: sau khi ương cá sặc rằn khoảng 1 tháng, cá đã lớn, ao không  còn đủ sức chứa hết lượng cá con. Cần phải san thưa sang ao khác để giảm mật  độ. Thông thường từ 1 ao ban đầu cần thêm 1 ao nữa để đưa cá bột qua nuôi. Có  như vậy thì cá mới tiếp tục lớn và khoẻ mạnh. Ao thứ hai dùng để san cá qua,  cũng cần được chuẩn bị như ao lần đầu tiên để thả cá bột (tát cạn bón vôi). 5. Luyện cá trước khi xuất ao: Trước khi đưa cá xuất bán ra khỏi ao, cần được  luyện trước 1 tuần bằng cách hàng ngày lội xuống ao xua đuổi cá, mỗi ngày 1 lần  trong 1 tuần. V. KỸ THUẬT NUÔI CÁ THƯƠNG PHẨM 1. Kỹ thuật nuôi ao 13
  14. a. Điều kiện ao nuôi • Diện tích: 200 – 1000 m2, có thể nuôi ở diện tích lớn hơn tùy theo từng hộ  nuôi.  • Độ sâu từ 1 – 1,5 m.  • Ao gần nơi có nguồn nước sạch và có cống cấp thoát nước chủ động.  • Bờ ao phải cao hơn mực nước lũ cao nhất là 0,5 m và cải tạo ao.  b. Cải tạo ao • Tát cạn sên vét bùn đáy ao chỉ còn lại 10 – 20 cm.  • Bón vôi 7 – 10 kg/100 m2.  • Phơi nắng 2 – 3 ngày.  • Bón phân chuồng ủ hoai 30 – 40 kg/100 m2 ao.  • Lấy nước vào 30 – 40 cm.  • Sau 2 – 3 ngày cho phân chuồng phân hủy rồi lấy nước vào cho đủ rồi thả  cá.  c. Cá giống • Mật độ thả 15 – 20 con/m2  • Kích cỡ cá 4 – 6 cm/con  • Cá khỏe không xây xát, không dị hình, đồng cỡ.  • Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát để tránh sốc nhiệt độ.  d. Thức ăn • Cho cá sặc rằn ăn gồm: cám, bột cá (loại cá tươi hoặc phụ phẩm của nhà  máy) xay nhỏ cho cá ăn.  • Thành phần: cám 60% + bột cá 40%.  • Khẩu phần thức ăn : 5 – 7% trọng lượng cá/ngày.  • Làm sàn thả thức ăn để dễ kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày.  • Cho ăn ngày 2 lần.  • Có thể bón phân chuồng bổ sung 2 tuần/lần 30 – 40 kg/100 m2 ao để tăng  thức ăn tự nhiên cho cá.  • Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá.  14
  15. • Sau 8 – 10 tháng cá đạt trọng lượng 100 – 150 g/con thì có thể thu hoạch  được.  2. Kỹ thuật nuôi trong ruộng lúa a. Chuẩn bị ruộng • Chọn ruộng có bờ bao cao hơn đỉnh lũ 0,5 m.  • Có diện tích mương bao 10 – 15% diện tích ruộng.  • Mương bao có bề ngang 2 –3 m sâu 1 – 1,5 m chạy dài xung quanh ruộng.  • Có vị trí gần kênh rạch để cấp thoát nước.  b. Cải tạo (như cải tạo ao) c. Cá giống • Mật độ thả 2 – 3 con/m2  • Kích cỡ cá giống 4 – 6 cm/con  • Cá khỏe không xây xát, không dị hình, đồng cỡ.  • Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.  • Cá giống được thả ở mương bao sau đó cho nước ngập ruộng để cá tự kiếm  ăn thêm.  d. Thức ăn gồm • Cám + bột cá  • Ngày cho ăn 2 lần  • Lượng thức ăn 5 – 7% trọng lượng cá/ngày.  • Có thể 2 tuần/lần bón 20 – 30 kg phân chuồng, vừa làm thức ăn cho cá vừa  giúp lúa phát triển tốt.  • Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá.  • Sau 8 – 10 tháng nuôi cá đạt cỡ 80 – 120 g/con có thể thu hoạch được.  VI. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP 1. Bệnh đốm trắng (bệnh trùng quả dưa) 15
  16. ­ Nguyên nhân bệnh là do trùng quả dưa. Có hai giai đoạn trong chu kỳ sống của  trùng quả dưa, đầu tiên là giai đoạn trưởng thành, kế đến là giai đoạn ấu trùng.  Trong giai đoạn trưởng thành trùng quả dưa được nhìn thấy dưới da hoặc mang cá  có thể nhìn thấy như những đốm trắng bằng mắt thường. Khi trùng quả dưa trưởng thành, chúng sẽ tách ra khỏi da cá và sinh sản bằng  cách phân chia tế bào bên trong vách dày của tế bào. Khi chúng trưởng thành tế  bào sẽ bị vỡ và những ấu trùng sẽ thoát vào môi trường nuôi, ấu trùng sẽ lội trong  nước và sẽ tấn công vào da hoặc mang của ký chủ (cá) trong vòng 24 giờ. Sự tấn  công của ấu trùng đôi khi phá vỡ mô của cá và chính vì điều này làm cho cá bột  trở nên yếu đi và chết đột ngột. Đối với cá bột nhiễm bệnh vây sẽ rách tơi và cơ  thể nhợt nhạt. Nếu việc điều trị không thích hợp và kịp thời thì cả đàn cá bột trong  ao ương sẽ chết trong 2 – 3 ngày. ­ Dấu hiệu bệnh lý: trong giai đoạn đầu của bệnh sẽ xuất hiện những đốm màu  trắng bằng đầu kim hoặc nhỏ hơn trên thân cá. Sau xuất hiện các đốm trắng trên  da cá và vây cá bị tua ra. Cá bột bơi lội chậm chạp và tỷ lệ chết cao. ­ Cách phòng trị: để trị bệnh này có kết quả tốt cần phải điều trị thành nhiều đợt  nối tiếp nhau. Nhìn chung có thể dùng 25 ml Formol trong 1 m3 nước ao, trị 3 lần  cách nhau 3 ngày 1 lần thì sẽ có hiệu quả. Sau mỗi lần điều trị nước trong ao sẽ  không được thay trong suốt 40 giờ, do đó trong thời gian trị liệu số lượng Moina  (trứng nước) hoặc những thức ăn khác của cá bột sẽ phải giảm để ngăn chặn sự ô  nhiễm nước. Lịch điều trị sẽ như sau : + Ngày 1 : tắm Formol cho cá 1 lần. + Ngày 3 : thay khoảng 75% nước ao và tắm Formol lần 2. + Ngày 6: thay 20 – 25% lượng nước và tắm Formol lần 3 và giữ nguyên trong 2  ngày. + Ngày 8 : sau 8 ngày cá bột sẽ khỏe mạnh và không cần tiếp tục điều trị nữa. Cần chú ý rằng bệnh đốm trắng có thể lây lan rất nhanh sang các ao khác. Vì thế  các ao lân cận nhiễm bệnh cũng phải được điều trị với liều lượng 25 ppm formol  cùng lúc với ao bệnh. Đồng thời những ống dẫn nước, lưới kéo và vợt cũng cần  16
  17. phải tẩy trùng bằng cách ngâm vào dung dịch 200 ppm Formol (tức 20 ml Formol  trong 100 lít nước) ít nhất  1 giờ, sau đó xả nước lại và phơi nắng. 2. Bệnh trùng bánh xe Thường gây bệnh trên nhiều loài cá khác nhau: trê, basa, tai tượng, chép, mè, trôi,  lóc bông,… gây thiệt hại lớn ở giai đoạn cá hương, cá giống. Bệnh thường xảy ra ở  các bể, ao ương với mật độ dày và môi trường nuôi quá dơ bẩn. Ở ĐBSCL trùng  mặt trời hầu như phát triển quanh năm nhưng cao điểm vào mùa nắng. ­ Dấu hiệu bệnh lý: khi cá nhiễm trùng mặt trời, trên thân cá có lớp màu hơi trắng  đục, da cá sậm lại, mang cá nhợt nhạt, cá giảm ăn và nổi đầu từng đàn trên mặt  nước. Ở cá trê giống bị nhiễm bệnh này các vây cá bị rách tơi và râu cá bị cong  nên còn gọi là bệnh “quéo râu”. ­ Cách phòng trị: đây là bệnh ngoại ký sinh, do đó tùy vào điều kiện thực tế có thể  dùng một trong những loại hóa chất sau đây để xử lý cá bệnh: + Khi ương cá con dưới ao nhiễm bệnh này, tốt nhất nên dùng Sulfat đồng (phèn  xanh) phun khắp ao với liều lượng 0,3 – 0,5 g/m3  nước ao trị 2 – 3 lần, mỗi lần  cách nhau 1 ngày. Khi sử dụng phèn xanh cần tính chính xác thể tích nước ao. + Để trị cá bị trùng mặt trời ương trên bể xi măng nên dùng xanh Malachite với  nồng độ 1 – 2 g/m3 nước bể, tắm cho cá trong thời gian 30 phút hoặc dùng Formol  với liều lượng 25 ml/m3 bể. Trị 3 ngày liên tục. Nên trị bệnh cá lúc mát trời và trong  thời gian trị bệnh nên giảm lượng thức ăn đi một nửa. Biện pháp tốt nhất để phòng bệnh trùng mặt trời là giữ gìn vệ sinh bể ương sạch  sẽ, mật độ ương vừa phải, tránh thức ăn dư thừa ở đáy ao. Trước khi ương nuôi cá  phải tẩy vôi, diệt mầm bệnh. 17
  18. TTKN KIÊN GIANG giỚi thiỆu KỸ THUẬT SINH SẢN CÁ SẶC RẰN Kỹ   sư   Đặng   Khánh   Hồng          (điện   thoại:   0913   819729) Phòng kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ SẶC  RẰN Dựa vào quy trình kỹ thuật được các Thầy cô Khoa Thuỷ Sản trường Đại học Cần  Thơ chuyển giao, tài liệu của các cơ quan chuyên môn ở một số tỉnh ĐBSCL, kết  hợp với thực tế ở địa phương . Trung Tâm Khuyến Nông Kiên Giang đã triển khai  hơn 50 điểm trình diễn cho cá sặc rằn sinh sản tại nông hộ. Bên cạnh những điểm  trình diễn, cán bộ kỹ thuật Trung Tâm cũng rất nhiệt tình chuyển giao thành công  kỹ thuật này cho bà con nông dân khác. Cá sặc rằn thuộc loài Trichogaster pectoralis Regan. Họ : Anabantidae; Bộ phụ : Anabantoidei; Bộ : Perciformes; Tổng bộ: Percimorpha Cá sặc rằn phân bố tự nhiên tại Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và được di giống  sang các nước Malaysia, Indonesia. Phân bố rộng rãi trong nhiều thủy vực như :  Kênh rạch, ruộng lúa, ao lung ... Ở Việt Nam cá phân bố chủ yếu trong các vùng  trũng ngập nước quanh năm, sinh sản tự nhiên trong ao, ruộng, kênh mương nơi  chúng cư trú, đặc biệt là những nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh với nhiều chất hữu  cơ. Hiện nay ở ĐBSCL hai Tỉnh Kiên Giang và Cà Mau là vùng phân bố tập trung  và có sản lượng cao. Nếu cá đực và cá cái cùng tuổi thì cá đực thường có trọng lượng nhỏ. Ở thời kỳ  đầu sau khi nở cũng như các loài cá khác, cá sống bằng noãn hoàng. Sau khi hết  noãn hòang cá chuyển sang ăn thức ăn bên ngoài như : phiêu động vật, phiêu  sinh thực vật và mùn bã hữu cơ. Ở thời kỳ trưởng thành cá thường ăn mùn bã hữu  cơ, thực vật phiêu sinh, động vật phiêu sinh, mầm non thực vật cũng như các loại  thực vật thủy sinh mềm trong nước và cá cũng sử dụng tốt các loại thức ăn do  người cung cấp như: Bột ngũ cốc, xác bã các loại động vật, bột cá. 18
  19. * Chọn cá bố mẹ cho sinh sản Chọn cá bố mẹ phải có trọng lượng đạt 100 gr/con, kích cỡ đồng đều. Khi thành  thục có thể dễ dàng phân biệt đực cái bằng các dấu hiệu biểu hiện bên ngoài : + Cá cái: Phần mềm tia vi lưng ngắn , không tới vi đuôi, đường sắc tố chạy từ lưng  xuống bụng không rõ, màu sắc trên thân và các vi nhợt nhạt + Cá đực: Phần mềm tia vi lưng chạm hoặc dài tới vi đuôi, đường sắc tố chạy từ  lưng xuống bụng rất rõ, màu sắc trên thân và các vi sặc sỡ. Mùa vụ sinh sản từ tháng 3 ­ 9. Chọn cá cái bụng to và mềm đều. Phân biệt cá đực, cá cái Ao ương cá giống 1. Cải tạo ao ương cá giống Rút cạn nước trong ao Rút cạn nước, sên vét lớp bùn đáy. Lấp kín hang mọi và những chỗ rò rĩ, diệt cá  tạp bằng dây thuốc cá. Bón vôi kết hợp phơi đáy ao  ­ Phơi đáy ao 3 ­ 5 ngày kết hợp bón vôi :10 ­ 15 kg/100 m2.  ­ Sau đó cho nước vào đầy ao khoảng 1 ­ 1.2m. Khi cho nước vào phải dùng lưới  cước bịt miệng cống để ngăn cá tạp, tiến hành gây màu nước bằng phân vô cơ 1,5  ­ 2 kg/100 m2 ao hoặc dùng bột cá với liều lượng : 1,5 ­ 2 kg/100 m2.  ­ Sau khi cải tạo ao phải đảm bảo một số yếu tố: pH: trên 6,5 – 8.0 ; Độ trong: 25  ­ 30 cm; Oxy hòa tan: 3 ­ 5 ppm; Thức ăn tự nhiên (Thực và động vật phù du) * Lưu ý : 19
  20.  ­ Trong quá trình ương cá giống phải quan sát màu nước hàng ngày để điều chỉnh  lượng thức ăn, tránh làm môi trường nước bị nhiễm bẩn. ­ Nếu thấy cá nổi đầu do thiếu oxy phải ngưng cho ăn và bón phân đồng thời cấp  nước vào. ­ Khi ương cá phải chú ý địch hại của cá. Tỷ lệ hao hụt do điïch hại rất cao. ­ Khi cá còn nhỏ không để cho ánh sáng chiếu trực tiếp xuống ao. ­ Nguồn nước phải giữ sạch. 2. Chuẩn bị dụng cụ cho sinh sản nhân tạo cá sặc rằn Chuẩn bị dụng cụ cho cá đẻ Thau dùng cho cá đẻ và ấp trứng ­ Dùng thau vừa sử dụng cho cá đẻ vừa dùng  để ấp trứng. ­ Vợt vớt trứng ­ Ống nhựa trong nhỏ dùng để cấp nước khi cá  nở, đồng thời để rút bỏ trứng bị ung , vỏ trứng và cặn. ­ Ống tiêm nhỏ 3 ­ 5 cc. ­ Lá môn ­ Nguồn nước sạch ( Lấy từ ao ương cá giống ) ­ Thuốc kích dục tố dùng để tiêm cá là: HCG liều lượng 3.000 – 4.000 UI/1 kg cá  cái hoặc dùng HCG kết hợp với não thuỳ liều lượng 2.000 HCG + 0,54 mg não/ 1  kg cá cái . Liều tiêm cho cá cái 0.5cc/cá thể cái. Cá đực liều thuốc tiêm bằng 1/2  liều tiêm cho cá cái. ­ Vị trí tiêm : Tiêm vào gốc vi ngực của cá 20
nguon tai.lieu . vn