Xem mẫu
- KINH NGHIỆM THÚC ĐẨY TIẾP CẬN TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN
TẠI TRUNG QUỐC VÀ ẤN ĐỘ
Trần Thị Thắng
Học viện Ngân hàng - Phân viện Bắc Ninh
Tóm tắt:
Tiếp cận tài chính toàn diện có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và đời sống con người.
Trong thời gian gần đây tiếp cận tài chính toàn diện đã trở thành chương trình nghị sự ở cấp
quốc gia và là vấn đề quan tâm của toàn cầu trong sứ mệnh xóa đói, giảm nghèo. Trên thế giới
có một số nước đạt được nhiều thành quả về tiếp cận tài chính toàn diện. Ở Việt Nam, mặc dù
tiếp cận tài chính toàn diện đã được đưa vào một số chính sách nhưng thực tế vẫn còn phân tán
và nhiều người chưa được tiếp cận với các dịch vụ tài chính cơ bản từ các tổ chức tài chính chính
thức. Do đó Việt Nam cần nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đi trước để rút ra bài học cho
Việt Nam nhằm thúc đây tiếp cận tài chính toàn diện trong thời gian tới.
Từ khóa: Tiếp cận tài chính, kinh nghiệm, tổ chức tín dụng, dịch vụ
1. Khái quát về TCTC toàn diện tại Việt Nam
Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có mức độ tiếp cận đến các dịch vụ tài chính ở mức
thấp. Theo cơ sở dữ liệu Global Findex do Ngân hàng Thế giới công bố năm 2017, tỷ lệ người
trưởng thành tại Việt Nam có tài khoản chỉ là 30,8%, cao hơn Lào (29,1%), Campuchia (21,7%)
và Myanmar (26,0%) nhưng thấp so với Indonesia (49%) và thấp hơn nhiều so với Trung Quốc
(80,2%), Malaysia (85,3%), Thái Lan (81,6%). Việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính ở
Việt Nam có thể xem xét cụ thể hơn ở những góc độ dưới đây.
Mặc dù ở Việt Nam, tiếp cận tài chính toàn diện mới được nhận thức nhưng Chính phủ đã
thực hiện nhiều chương trình có mục tiêu và nội dung phù hợp với tiếp cận tài chính. Hiện tại một
số đề án có mục tiêu khá sát với mục tiêu của tiếp cận tài chính cũng đã và đang được triển khai
tại Việt Nam như: Năm 2010, Chính phủ ban hành nghị định 41/2010/NĐ-CP hỗ trợ tín dụng
phát triển nông thôn; năm 2011, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án xây dựng và phát triển hệ
thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến năm 2020; đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai
đoạn 2016-2010 và định hướng đến năm 2020; đề án phát triển quỹ tín dụng nhân dân đến năm
2020. Gần đây nhất, tháng 9/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định 1726/QĐ-TTg phê
duyệt đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế… Những đề án này
bước đầu đã có tác động tích cực tới việc mở rộng tiếp cận dịch vụ ngân hàng, đặc biệt đã hướng
tới việc mở rộng đối tượng tiếp cận dịch vụ cho dân cư nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Khu vực tài chính Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua và đã
đóng góp quan trọng vào tăng trưởng quốc gia thông qua vai trò trung gian tài chính ngày càng
gia tăng. Vì hệ thống tài chính của Việt Nam chủ yếu dựa trên ngân hàng. Tài sản của các ngân
hàng (kể cả Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển) chiếm tới 200%
GDP và hơn 90% tổng tài sản của các định chế tài chính. Đây là một hệ thống khá tập trung với
78% tổng tài sản nằm trong top 10 ngân hàng lớn nhất. Một số năm gần đây tốc độ tăng trưởng
tín dụng hàng năm khá cao, khoảng 17 - 18% và dự kiến trong năm 2018 có thể còn lên tới trên
20%. Ngược lại, tài sản của định chế tài chính không phải ngân hàng chiếm tỷ trọng không đáng
kể trong tổng tài sản của hệ thống tài chính, và được phân tán cho số lượng lớn các định chế quy
mô nhỏ.
Theo NHNN Việt Nam, tính đến 31/12/2017, hệ thống TCTD Việt Nam bao gồm 04 ngân
hàng thương mại nhà nước (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân
hàng thương mại TNHH MTV Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng thương mại TNHH MTV Dầu
khí Toàn Cầu, Ngân hàng thương mại TNHH MTV Đại Dương), 01 ngân hàng chính sách,
533
- 31 NHTMCP, 27 TCTD phi ngân hàng (16 công ty tài chính, 11 công ty cho thuê tài chính), 01
ngân hàng hợp tác xã, 09 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 01 ngân hàng liên doanh, 49 chi
nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, 45 văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại Việt
Nam, 1.178 quỹ tín dụng nhân dân, 04 tổ chức tài chính vi mô được cấp phép (TCVM TNHH
M7, Tình thương, Thanh Hóa và CEP). Các tổ chức tài chính vi mô cũng đã hoạt động trên phạm
vi 136/703 quận huyện thị trấn tại 34/63 tỉnh thành trên cả nước. Mạng lưới hoạt động của các
TCTD bao gồm 2.741 chi nhánh, 7.046 phòng giao dịch trên toàn quốc. So với năm 2012, số
lượng các NHTM nhà nước và ngân hàng TMCP có sự sụt giảm nhẹ do tác động của việc mua
lại, sáp nhập các ngân hàng cũng như việc tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn
2011-2015. Tính đến 13/8/2018, số lượng các tổ chức phi ngân hàng được NHNN cấp giấy phép
hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là 27 tổ chức, trong đó có 02 tổ chức mới được
cấp giấy phép trong năm tháng 3 năm 2018. Chứng tỏ nhu cầu của người dân tăng cao ngày càng
thu hút được nhiều sự tham gia của các nhà cung ứng (NHNN, 2017).
Bên cạnh hệ thống ngân hàng, các nhà cung ứng dịch vụ tài chính chính thức, còn có sự
tham gia của nhiều nhà cung ứng dịch vụ bán chính thức và không chính thức, kể cả những người
vay tư nhân và các nhóm tiết kiệm và cho vay không chính thức. Các hình thức chơi họ, hụi vốn
dĩ tồn tại ở một số vùng nông thôn của Việt Nam cũng thuộc nhóm này. Những nhà cung ứng
dịch vụ loại này cho cá nhân vay để giải quyết nhu cầu tiêu dùng cấp bách hoặc cho các doanh
nghiệp nhỏ, siêu nhỏ vay để giải quyết nhu cầu sản xuất kinh doanh. Những đối tượng này không
thể tiếp cận được các dịch vụ tài chính chính thức do không có tài sản thế chấp hoặc không đáp
ứng đủ điều kiện cho vay của các ngân hàng. Các nhà cung ứng dịch vụ bán chính thức còn bao
gồm các tổ chức phi chính phủ và các nhà cung ứng dịch vụ tài chính vi mô khác nằm ngoài
phạm vi điều chỉnh của Luật các TCTD. Ngoài ra, khu vực hưu trí và bảo hiểm gần như không
đáng kể song cũng đang phát triển khá nhanh cùng với tốc độ tăng trưởng nền kinh tế của
vùng. Khu vực bảo hiểm nhân thọ chủ yếu do các công ty bảo hiểm nước ngoài nắm giữ, trong
khi thị trường phi nhân thọ tập trung trong tay một số ít các công ty bảo hiểm nội địa lớn.
Việt Nam cơ bản vẫn là một nền kinh tế tiền mặt. Thanh toán các dịch vụ cơ bản như học
phí hoặc phí dịch vụ công ích chủ yếu được thực hiện bằng tiền mặt. Hơn ba phần tư tiền lương
được trả bằng tiền mặt (78,2%). Trong nông nghiệp, thanh toán tiền mặt lại càng phổ biến, tới
hơn 99% các sản phẩm nông nghiệp được giao dịch bằng tiền mặt. Thậm chí với các phân khúc
thị trường đang lớn mạnh như thương mại điện tử, nhiều giao dịch vẫn được thanh toán bằng tiền
mặt, với một cơ chế được gọi là “cash - on - delivery” - thanh toán tiền khi giao hàng; có tới hai
phần ba chuyển tiền nội địa thực hiện bằng tiền mặt.
Hiện đa số TCTD đã triển khai internet banking, phần lớn các TCTD đã triển khai mobile
banking. Tuy nhiên, mạng lưới giao dịch của các ngân hàng tập trung chủ yếu ở khu vực đô thị.
2. Thực trạng TCTC toàn diện tại Trung Quốc
2.1. Về phía cung dịch vụ tài chính
Theo Ủy ban giám sát ngân hàng Trung Quốc (CBRC), tính đến cuối năm 2014, số lượng
tổ chức tài chính tại Trung Quốc ước đạt 4.787 tổ chức. Các tổ chức này tham gia vào chuỗi cung
ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính cho các đối tượng khác nhau trong xã hội. Trong đó, ngành
ngân hàng bao gồm các ngân hàng thương mại lớn do nhà nước kiểm soát, các ngân hàng chính
sách, các ngân hàng thương mại cổ phần và các ngân hàng thương mại nhỏ và vừa khác đóng vai
trò chi phối trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế thực.
Kể từ năm 2005, số lượng các tổ chức tài chính tăng lên nhanh chóng. Tính đến năm 2010,
TQ có khoảng 2.312 thị trấn không có chi nhánh, tổ chức tài chính để phục vụ nhu cầu của người
dân. Tuy nhiên, tổ chức tài chính đã đưa ra phương thức tiếp cận hiệu quả như việc tạo ra nhiều
chi nhánh ngân hàng hay các ngân hàng số thông qua thiết bị di động, ATM… (Bảng 1).
534
- Bảng 1: Số liệu cơ bản về cung ứng dịch vụ tài chính tại Trung Quốc
giai đoạn 2010-2016
Chỉ tiêu theo
mật độ bao phủ Đơn vị 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
của tổ chức
Số chi nhánh ngân Chi n.a n.a 7.72 7.85 n.a 8.49 8.78
hàng tính trên nhánh
100.000 người
Số chi nhánh ngân Chi n.a n.a 9.11 9.26 9.59 n.a n.a
hàng tính trên 1.000 nhánh
km2
Số máy ATM tính ATM 24.76 30.29 37.51 46.74 55.03 76.78 81.45
trên 100.000 người
Số máy ATM tính ATM 28.87 35.55 44.26 55.39 65.49 n.a n.a
trên 1.000 km2
Nguồn: IMF, Financial Access Survey và ADBI
2.2. Về phía cầu dịch vụ tài chính
Nhu cầu của các nhóm về tiếp cận tài chính thấp. Nhóm đầu tiên và lớn nhất là các hộ
gia đình ở nông thôn, đặc biệt là những hộ nông dân quy mô nhỏ, người chăn nuôi và ngư
dân; nhóm lớn thứ hai là người lao động có mức lương thấp, đặc biệt là lao động di cư; nhóm
thứ ba là MSME, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân; và nhóm thứ tư là những người thất
nghiệp, đặc biệt là những công nhân bị sa thải từ các DNNN và người tìm việc ở khu vực
thành thị. Mỗi nhóm có nhu cầu tài chính khác nhau và đáp ứng khác nhau với các định chế
tài chính, các kênh ngân hàng không có nhánh và công nghệ. Trong các nhóm này, các hộ gia
đình nghèo nhất, các doanh nghiệp nhỏ nhất và công nhân nhập cư hầu như không được tiếp
cận các dịch vụ tài chính.
Chỉ tính riêng về số lượng người lớn có tài khoản tại tổ chức tài chính chính thức thì tỷ
lệ này ở Trung Quốc là 80% vào năm 2017, còn số người lớn sử dụng tiền di động ở mức
40%. Tuy nhiên khoảng cách giữa người giàu và người nghèo có tỷ lệ ở Trung Quốc đến 20%
(thể hiện trong bảng 2). So sánh về tỷ lệ người lớn sử dụng tiền di động của ba nước này thì
Ấn Độ là thấp nhất, chỉ xấp xỉ 10% và cao hơn là Trung Quốc 40%.
Bảng 2: Số lượng người có tài khoản tại các tổ chức tài chính chính thức
và sử dụng tiền di động tại Trung Quốc, Ấn Độ năm 2017
Tỷ lệ người lớn (%) có tài khoản
tại một tổ chức tài chính chính thức Tỷ lệ người lớn
Tên nước Khoảng cách Khoảng cách (%) sử dụng
Người lớn có tiền di động
giữa nam giữa giàu và
tài khoản
và nữ (%) nghèo (%)
Trung Quốc 80 8 20 40
Ấn Độ 80 6 5 10
Nguồn: Demirguc-Kunt, Klapper, Singer, Ansar và Hess (2017)
Tỷ lệ đói nghèo tại Trung Quốc khá cao chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, vùng hẻo lánh. Theo số liệu của WB năm 2014, thì dân số ở khu vực nông thôn Trung
Quốc xấp xỉ 622 triệu người (ước đạt 45% tổng dân số - dân số ở khu vực nông thôn Trung Quốc
(2014): 621,970,693 người). Số lượng người nghèo sống tại khu vực này là hơn 52 triệu người (tỷ
lệ người nghèo tại khu vực nông thôn Trung Quốc (2014): 52,867,508.9). Đây chính là nhóm dân
535
- số gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính cơ bản cũng như chính thức, một
phần là do nhận thức, một phần là do năng lực chưa thể giúp họ tiến gần được với nền tài chính
quốc gia.
2.3. Nhận định chung
Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai sau Mỹ, là nước sản xuất và xuất khẩu lớn nhất
trên thế giới. Cải cách tài chính ở Trung Quốc đã đóng một vai trò quan trọng trong sự thành
công của tiếp cận tài chính, nó cho phép hệ thống ngân hàng nông thôn được đa dạng hoá
hoạt động và cho phép các nhà đầu tư mới mở rộng dịch vụ tài chính sang các vùng nông
thôn. Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều sự quan tâm và nguồn lực để xây dựng một hệ thống tài
chính có thể phục vụ những công dân nghèo nhất và xa xôi nhất. Do đó, sẽ luôn luôn thú vị và
rất có cảm hứng để xem quy mô rộng lớn của Trung Quốc về tiếp cận tài chính và đưa ra
những bài học cho Việt Nam.
Kết quả bước đầu Trung Quốc đạt được trong việc tăng cường tiếp cận tài chính là do có
nhiều chính sách mới. Đó là, có sự gia tăng số lượng các tổ chức tài chính với nhiệm vụ cung cấp
các dịch vụ tài chính cho những người bị loại trừ trước đây - đặc biệt là người nông thôn. Nếu
như trước đây hệ thống tài chính được thống trị bởi các ngân hàng thương mại "năm" lớn, thì giờ
đã thay đổi với sự tham gia của một số lượng lớn các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân
hàng, và những người cho vay không có tiền gửi. Mạng lưới các tổ chức tài chính bao phủ ở tất
cả các thị trấn và làng mạc. Hoạt động kinh doanh truyền thống của các ngân hàng có hiệu quả về
mặt thương mại hơn. Các nhà cung cấp dịch vụ tài chính đã thực hiện thành công các dịch vụ
ngân hàng không có nhánh bằng cách áp dụng các công nghệ mới nhất và phát triển các sản phẩm
và dịch vụ tài chính dựa trên internet và công nghệ điện thoại di động. Ngân hàng không chi
nhánh đã mở rộng phạm vi dịch vụ tài chính ở các vùng nông thôn và vùng sâu, vùng xa, nơi các
chi nhánh ngân hàng thông thường hoạt động với chi phí cao.
Phụ nữ nông thôn Trung Quốc được hưởng lợi rất nhiều khi được giới thiệu về các khái
niệm tài chính và các dịch vụ liên quan. Mặc dù Chính phủ Trung Quốc vẫn chưa xây dựng một
chiến lược quốc gia về giáo dục tài chính mà rõ ràng là vượt xa nhu cầu về khả năng tài chính của
cư dân đô thị. Nhưng chương trình "Ngân hàng Phụ nữ: Giáo dục Tài chính ở nông thôn Trung
Quốc" là một nỗ lực lớn để thu hẹp khoảng cách về năng lực tài chính ở nông thôn Trung Quốc.
Dự án được thực hiện phù hợp với hoàn cảnh thị trường của người nghèo ở nông thôn, đó là dự
án đã tận dụng lợi thế của WeChat, giúp cho đa số phụ nữ nông thôn dưới 50 tuổi đều có thể sử
dụng WeChat để truyền đạt và tiếp cận với các nguồn thông tin tài chính kỹ thuật số mới trong
lần đầu tiên.
Ở Trung Quốc có Alipay, nền tảng thanh toán trực tuyến của Alibaba không chỉ tạo điều
kiện thuận lợi cho mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng mà còn thanh toán qua biên giới cho
các thương gia trực tuyến. Nó đã trở thành nền tảng thanh toán di động lớn nhất thế giới vào năm
2015. Những công nghệ tài chính như vậy - hay Fintech - đã đem lại sự đóng góp tài chính cho
hàng trăm triệu người trong những năm gần đây.
Bên cạnh việc tạo môi trường kinh tế và tài chính cho việc hòa nhập tài chính, Trung Quốc
còn thực hiện thành công việc trao quyền cho cộng đồng tài chính vi mô và đưa dịch vụ tài chính
vi môn đến người dân, với 10.000 tổ chức tài chính vi mô.
3. Thực trạng TCTC toàn diện tại Ấn Độ
3.1. Về phía cung dịch vụ tài chính
Ấn Độ đã khuyến khích tiếp cận tài chính thông qua các định chế tài chính, như: ngân hàng
khu vực công và khu vực tư nhân, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nông thôn, các nhóm tự lực
và các tổ chức tài chính vi mô. Trong đó, các ngân hàng khu vực công chiếm 70% mạng lưới
ngân hàng thương mại, đóng vai trò quan trọng của khu vực công trong lĩnh vực tài chính.
536
- Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ đã đưa ra một số hướng dẫn tạo điều kiện cho việc TCTC được
thuận tiện. Cụ thể, quy định số lượng và phân phối các điểm truy cập thanh toán điện tử để mọi
người dân đều ở trong vòng 15 phút đi bộ có thể đến một điểm truy cập dù ở bất kỳ nơi nào trong
nước. Kết quả được thể hiện qua bảng 3.
Bảng 3: Số liệu cơ bản về cung ứng dịch vụ tài chính tại Ấn Độ giai đoạn 2010-2014.
Chỉ tiêu theo mật
Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm
độ bao phủ của Đơn vị
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
tổ chức
Số chi nhánh ngân
Chi
hàng tính trên 10.03 10.51 11.18 11.85 12.86 13.54 14.05
nhánh
100.000 người
Số chi nhánh ngân
Chi
hàng tính trên 26.46 30.43 33.17 35.68 42.54 n.a n.a
nhánh
1.000km2
Số máy ATM tính
ATM 7.26 8.85 10.9 12.86 17.79 19.70 21.23
trên 100.000 người
Số máy ATM tính
ATM 19.08 25.43 32.67 38.96 61.88 n.a n.a
trên 1.000km2
Nguồn: Financial Access Survey và ADBI; International Monetary Fund
Các dịch vụ tài chính được cung cấp thông qua dịch vụ ngân hàng đại lý, ngân hàng điện
thoại di động, tổ chức tài chính vi mô, mở rộng mạng lưới ngân hàng công, các máy rút tiền tự
động, mạng lưới các phóng viên kinh doanh tại các địa điểm ở nông thôn, các công ty tài chính
phi ngân hàng, và các giải pháp sáng tạo hơn như ví điện tử và mạng bưu chính. Ví điện tử là sản
phẩm được 27 nhà cung cấp với mức tối đa là 50.000 Rs (Joshi, 2014a).Mạng bưu chính của Ấn
Độ là mạng bưu chính lớn nhất thế giới với hơn 155.000 văn phòng, trong đó 90% nằm ở khu
vực nông thôn (website Ấn Độ Post).
Bảng 4: Số lượng NHTM và máy ATM của Trung Quốc, Philippines, Ấn Độ
so với các nước khác năm 2013 (trên 1.000 km2)
STT Tên nước Số chi nhánh thương mại Số máy ATM
1 India 35.68 38.96
2 China 9.32 55.75
Nguồn: RBI Annual Report, 2013-14
3.2. Về phía cầu dịch vụ tài chính
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới cho thấy chỉ có 35% người lớn ở Ấn Độ có tài khoản
tại một tổ chức tài chính chính thức - ngân hàng, tổ chức tín dụng, hợp tác xã, bưu điện hoặc tổ
chức tài chính vi mô (Yuqing Xing và cộng sự, 2014).
Tỷ lệ hộ gia đình có tiếp cận các tài khoản ngân hàng chính thức rất khác nhau giữa các
quốc gia. Sự chênh lệch trong nước thậm chí có thể lớn hơn khi tiếp cận các dịch vụ tài chính
được kiểm tra trong các phân đoạn dân cư và giữa các mức thu nhập. Ví dụ, ở Ấn Độ chỉ có 21%
người lớn thuộc nhóm nghèo nhất có tài khoản chính thức so với 56% ở nhóm giàu nhất) (Yuqing
Xing và cộng sự, 2014).
537
- Biểu đồ 1: Số lượng tài khoản tiền gửi tiết kiệm tại Ấn Độ giai đoạn 2010-2014
Số lượng tài khoản tiền gửi tiết kiệm tại Ấn Độ
(2010-2014)
140
126.03
116.93
120
100.795
100
81.203 81.268
80 73.129
60.188 Chi nhánh
57.301
60
Phóng viên kinh doanh
40 31.63
20 13.265
0
Tháng 3 - Tháng 3 - Tháng 3 - Tháng 3 - Tháng 3 -
2010 2011 2012 2013 2014
Source: Joshi (2014b)
Bằng chứng cho thấy rằng sự loại trừ cao hơn có liên quan đến sự bất bình đẳng trong thu
nhập cao hơn và với các nhóm dễ bị tổn thương (trẻ, không có bằng cấp, thất nghiệp, và người
nghèo ở nông thôn). Do đó, ở các nước có sự gia tăng dân số và sự bất bình đẳng về thu nhập vẫn
là mối quan ngại (như ở Trung Quốc), tạo môi trường tốt hơn cho phép tiếp cận các dịch vụ tài
chính có thể là một thách thức) (Yuqing Xing và cộng sự, 2014).
Trong đó, nhu cầu dịch vụ tài chính của người nghèo rất đơn giản và mong muốn thực sự
của họ là nâng cao cuộc sống. Chính yếu, người nghèo cần được tiếp cận với các dịch vụ tiền gửi
thuận tiện, lỏng, an toàn và được bảo vệ chống lạm phát bởi lãi suất thực. Với tiết kiệm trong dự
trữ, người nghèo có thể cân đối chi tiêu tiêu dùng của họ khi đối mặt với các dòng thu nhập
không chắc chắn.
Về tiết kiệm: chỉ có 12% người lớn ở Ấn Độ tiết kiệm trong một tài khoản chính thức. Đây
là mức thấp hơn so với các nước đang phát triển ở Châu Á khác, bao gồm cả Trung Quốc, nơi có
32% người lớn tiết kiệm theo cách này (Bảng 5).
Bảng 5: Tỷ lệ người lớn tiếp cận tiết kiệm,
tín dụng và bảo hiểm tại Trung Quốc và Ấn Độ năm 2012 (%)
Tham
Tài Phương Tổ chức
Gia đình Sử dụng gia bảo
khoản pháp dựa tài chính Vay thế
Tên nước hoặc bạn thẻ tín hiểm
chính vào cộng chính chấp
bè dụng nhân
thức đồng thức
thọ
Trung Quốc 32 2 7 25 8 5 47
Ấn Độ 12 3
8 20 2 2 7
Nguồn: Demirguc - Kunt, Klapper and Randall (2013)
Về nhu cầu vay chính thức, ở Ấn Độ cũng thấp với chỉ có 8% người lớn đã nhận được
khoản vay mới từ một tổ chức tài chính chính thức. Các hộ gia đình có nhiều khả năng vay mượn
từ gia đình và bạn bè - tỷ lệ là 20%. Đây là mức thấp hơn ở Trung Quốc (Bảng 5).
3.3. Nhận định chung
Ấn Độ xác định việc tiếp cận tài chính bao gồm việc cả mở rộng các dịch vụ tài chính cho
những người không có quyền tiếp cận, sự gia tăng các dịch vụ tài chính cho những người có
quyền truy cập tối thiểu và lớn hơn. Do đó, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ đã đóng vai trò quan
538
- trọng trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho việc tiếp cận tài chính bằng cách giữ cân bằng
giữa việc đảm bảo tiếp cận với các công cụ tài chính và bảo vệ các ngân hàng khỏi sự mất ổn
định và rủi ro. Các chính sách theo đuổi của Chính phủ và do RBI thực hiện đã khuyến khích sự
tiếp cận tài chính cho hàng triệu hộ gia đình ở nông thôn Ấn Độ.
Tiêu biểu cho cuộc cách mạng thực sự cải thiện việc tiếp cận các dịch vụ tài chính của
người Ấn Độ là thực hiện chính sách phóng viên ngân hàng, qua đó tại các cửa hàng nhỏ nơi
người dân có thể thực hiện các giao dịch cơ bản như mở tài khoản, gửi tiền, rút tiền…
Ngoài ra, cũng giống như ở Trung Quốc, Ấn Độ đã đáp ứng nhu cầu của các nhóm người
nghèo. Thông qua việc triển khai một số chương trình độc nhất ở Ấn Độ, bao gồm việc sử dụng
đại lý hoặc ngân hàng đại lý kinh doanh, mở rộng tiếp cận với các dịch vụ tài chính. Ngoài ra, dự
án nhận dạng duy nhất đầu tiên, nơi nhận dạng được quét bằng sinh trắc học, cho phép các cá
nhân không có ngân hàng được tiếp cận tín dụng và các dịch vụ ngân hàng khác - nhận dạng
khách hàng (KYC). Ở đó người nghèo, người mù chữ ở Ấn Độ đã mở một tài khoản kiểm tra
bằng cách đặt ngón tay vào máy quét kỹ thuật số có chi phí ít hơn 5 đô la. Máy quét là Aadhaar,
một hệ thống xác minh vân tay lớn, giá rẻ và an toàn có thể tạo ra các tài khoản kiểm tra 12 chữ
số. Thực tế đại lý là nhà phân phối ngũ cốc và dầu hỏa và chỉ có một phòng ngủ, nhà bếp và cơ
quan mà họ quản lý là cơ sở đại diện cho một ngân hàng và được cộng đồng tin tưởng. Chính vì
thế Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ có 50.000 nhà khai thác trên cả nước sử dụng hệ thống
này. Trong thực tiễn và các chính sách của Chính phủ Ấn Độ về thúc đẩy sử dụng các tài khoản
này đã có tác động rất lớn đến nền kinh tế, đặc biệt là các tổ chức tài chính, ngân hàng thương
mại. Các ngân hàng đã phải tìm ra cách rẻ nhất và khả thi nhất để tăng khả năng tiếp cận các dịch
vụ ngân hàng mà không mất tiền. Đó là sử dụng công nghệ, tài khoản ngân hàng liên kết… từ đó
thu hẹp khoảng cách tài chính cho hàng triệu người dân Ấn Độ.
4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
4.1. Việt Nam cần tăng cường kiến thức và kỹ năng quản lý tài chính, mở rộng hiểu biết
về sản phẩm tài chính cho người dân
Việc giúp người dân tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính, khả năng đánh giá lợi ích, rủi
ro của các sản phẩm, dịch vụ tài chính do các tổ chức tài chính chính thức cung cấp nhằm giúp
người tiêu dùng tài chính sáng suốt lựa chọn những sản phẩm, dịch vụ tài chính phù hợp với nhu
cầu thực tế của cá nhân.
Ấn Độ đã xây dựng thành công Chiến lược Quốc gia về Giáo dục tài chính vào năm 2012
để nâng cao năng lực tiếp cận dịch vụ tài chính cho người dân, đặc biệt các nhóm sinh viên, nông
dân và phụ nữ nghèo.
Việt Nam cần tăng cường giáo dục tài chính và bảo vệ người tiêu dùng tài chính bằng cách xây
dựng và triển khai thực hiện Chiến lược giáo dục tài chính Quốc gia phù hợp với tình hình của Việt
Nam hiện nay. Trong đó, cần có sự tham gia của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, khu vực tư nhân và chương trình giáo dục tài chính cần hướng đến quá trình lập
kế hoạch cuộc sống như tiết kiệm, vay nợ, bảo hiểm hoặc lương hưu. Và giáo dục tài chính nên bắt
đầu ở trường học, để mọi người được giáo dục càng sớm càng tốt. Bên cạnh đó, Việt Nam cần xây
dựng khuôn khổ pháp lý về bảo vệ người tiêu dùng tài chính phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, gần
với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
4.2. Không ngừng đa dạng hóa các loại hình, tổ chức cung ứng sản phẩm, dịch vụ
tài chính
Mở rộng sự tham gia của các tổ chức tài chính trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ tài
chính nhằm tạo ra các kênh phân phối dịch vụ tài chính mới, thuận tiện với chi phí thấp tới vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đồng thời việc tăng cường năng lực của các tổ chức tài chính
nhằm hướng tới sự bao phủ rộng khắp mạng lưới cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Trung Quốc đã thực hiện thành công chính sách mở rộng các công ty tín dụng nhỏ và tăng
cường thành lập các ngân hàng không có nhánh. Bằng cách tăng số lượng các chi nhánh, củng cố
539
- các RCC, giảm yêu cầu thành lập các tổ chức tài chính nông thôn… Bên cạnh đó, hệ thống
TCVM đã phát triển rất nhanh và hướng đến đối tượng khách hàng mục tiêu là người nghèo, hộ
gia đình có thu nhập thấp.
RBI đã tạo điều kiện cho việc tiếp cận tài chính bằng cách giảm bớt các rào cản, đơn giản
hóa các tiêu chuẩn về điều kiện khách hàng và đa dạng hoá các nhà cung cấp và các sản phẩm
hiện có. Thông qua chính sách cải cách ngân hàng công, mở tài khoản ngân hàng không có số dư,
đơn giản hóa các thủ tục mở tài khoản ngân hàng, cho phép NHTM được mở các chi nhánh ở các
trung tâm, đặc biệt ở các vùng nông thôn. Đặc biệt Chính phủ Ấn Độ cũng đưa ra một số chính
sách hỗ trợ các tổ chức tài chính vi mô.
Hệ thống các tổ chức TCVM ở Việt Nam đã bước đầu hình thành và phát triển. Chính phủ
Việt Nam cũng cho phép các NHTM thành lập các chi nhanh và đơn giản thủ tục mở tài khoản tại
ngân hàng. Tuy nhiên, Việt Nam cần tăng cường năng lực của các tổ chức tài chính, đặc biệt là
các tổ chức TCVM chính thức và bán chính thức. Ngoài ra, khuyến khích các tổ chức tín dụng
thành lập chi nhánh, phòng giao dịch tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và mở rộng sự
tham gia của tổ chức phi ngân hàng, ứng dụng Fintech trong cung ứng dịch vụ tài chính.
4.3. Không ngừng đa dạng hóa các loại hình, tổ chức cung ứng sản phẩm, dịch vụ
tài chính
Việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ tài chính cung cấp phù hợp với nhu cầu của tất cả
nhóm người sử dụng, đặc biệt nhóm đối tượng ưu tiên sẽ giúp cho môi trường cạnh tranh bình
đẳng và thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo giữa các nhà cung cấp dịch vụ. Từ đó, có nhiều sản phẩm,
dịch vụ tài chính được cung ứng qua các kênh phân phối hiện đại và số lượng điểm tiếp cận dịch
vụ tài chính chính thức cũng tăng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính cơ bản một
cách thuận tiện với chi phí thấp nhất.
Ở Trung Quốc việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ cung cấp không ngừng được cải tiến
và phát triển. Chẳng hạn như đẩy mạnh phát triển dịch vụ ngân hàng di động, mở rộng các dịch
vụ thanh toán bên thứ ba, phát triển ngân hàng truyền hình và các sàn cho vay ngang hàng…
Hiện nay, tất cả các NHTM ở Trung Quốc đều cung cấp dịch vụ ngân hàng di động với mức độ
phức tạp khác nhau cho doanh nghiệp và khách hàng cá nhân (Yuqing Xing và cộng sự, 2014).
Ngoài ra, dịch vụ nhà cung cấp thanh toán bên thứ rất phát triển với Alipay, Tenpay, Bill… và
đứng đầu là Alibaba. Ngoài ra, việc phát triển sàn cho vay ngang hàng và ngân hàng truyền hình
cũng đang rất phát triển ở Trung Quốc.
Một số lĩnh vực chính được xác định là rất quan trọng cho việc tiếp cận tài chính ở Ấn Độ là:
Ngân hàng đại lý, ngân hàng điện thoại di động, máy rút tiền tự động ATM, ví điện tử và mạng bưu
chính. Trong đó, RBI đã thành công trong việc mở rộng dịch vụ ngân hàng đại lý, nghĩa là sử dụng
phóng viên kinh doanh tăng cường tiếp cận tài chính.
Ở Việt Nam, các sản phẩm, dịch vụ tài chính ngày càng được đa dạng về chủng loại và chất
lượng cung cấp. Các NHTM không ngừng mở rộng các máy ATM, mở rộng dịch vụ ngân hàng di
động, thúc đẩy dịch vụ ví điện tử và phát triển dịch vụ thanh toán bên thứ ba, như VNPay, Epay,
Cpay… Trong đó, VNPay là công ty hàng đầu trong lĩnh vực thanh toán điện tử tại Việt Nam hiện
nay. Do đó, Việt Nam cần phát triển hệ thống máy ATM, POS ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa
như bệnh viện, cửa hàng, các trung tâm huyện, xã. Nhưng so với các nước trên thì Việt Nam chưa
phát triển ngân hàng đại lý, phóng viên kinh doanh. Chính vì thế, Việt Nam cần mở rộng ngân hàng
đại lý trên toàn quốc để giúp cho công dân nghèo và những người chưa có điều kiện tiếp cận được với
ngân hàng, với các dịch vụ tài chính, gần nhà và rẻ hơn.
4.4. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào thúc
đẩy TCTC
Đảm bảo các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm đáp ứng đủ
yêu cầu của hộ gia đình và các doanh nghiệp nhỏ.
Trung Quốc đã thành công trong việc thực hiện hệ thống thông tin, thanh toán hiện đại và
công nghệ cho vay để mở rộng cung cấp các dịch vụ tài chính. Với tốc độ và sự đổi mới trong
540
- công nghệ tài chính kỹ thuật số hấp dẫn. Trung Quốc đã nhanh nhẹn ứng dụng công nghệ vào
việc tăng cường tiếp cận tài chính.
Ở Việt Nam hiện nay, việc sử dụng các công cụ và dịch vụ thanh toán điện tử vẫn còn hạn
chế (mặc dù đang tăng trưởng), tiền mặt được sử dụng rộng rãi trong thanh toán bán lẻ và trong
nhiều loại giao dịch giữa các doanh nghiệp, kể cả thanh toán hóa đơn. Do đó, cần cải thiện cơ sở
hạ tầng hệ thống thanh toán để bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế quốc gia; cần sử dụng hiệu
quả hơn công nghệ, đổi mới và tăng trưởng mạng lưới tiếp cận bán lẻ để truyền thông tới các
nhóm dân số còn chưa được phục vụ. Ngoài ra, Việt Nam cần đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống
thông tin định danh cá nhân, kết nối và chia sẻ dữ liệu với các CSDL chuyên ngành (cho phép tổ
chức tài chính khai thác các dữ liệu từ CSDL quốc gia về dân cư phục vụ cho việc thẩm định
nhân thân khách hàng). Đặc biệt, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số để thúc đẩy tài chính toàn
diện, đổi mới sáng tạo trong thiết kế và phân phối sản phẩm, dịch vụ tài chính theo hướng đơn
giản, tiện lợi, dễ tiếp cận, giảm chi phí.
4.5. Tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho phát triển TCTC
Môi trường pháp lý thông thoáng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy mạnh mẽ tiếp cận tài
chính trong thời gian ngắn, đặc biệt là sự cởi mở của NHTW đối với việc tham gia của các tổ
chức phi ngân hàng như nhà mạng viễn thông trong việc cung ứng dịch vụ tài chính số đến số
đông người dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa không có tài khoản ngân hàng.
Trung Quốc đã điều chỉnh các quy định pháp lý và đảm bảo một sân chơi bình đẳng. Để
giúp cho các sản phẩm tài chính thực sự dễ tiếp cận với giá cả phải chăng, Chính phủ Trung Quốc
đã ban hành các chính sách hỗ trợ cho các NHTM lớn, tạo điều kiện cho các ngân hàng này thành
lập nhiều bộ phận tập trung vào việc tiếp cận tài chính.
Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ đã đưa ra một số hướng dẫn tạo điều kiện cho việc tiếp cận tài
chính được thuận tiện. Trong đó, quy định số lượng và khoảng cách các điểm truy cập thanh toán
điện tử để mọi người dân đều ở trong vòng 15 phút đi bộ có thể đến một điểm truy cập dù ở bất
kỳ nơi nào trong nước. Ngoài ra, Ấn Độ đã thực hiện việc chuyển các khoản trợ cấp xã hội sang
tài khoản ngân hàng của người hưởng lợi để đem lại lợi ích cho Chính phủ đồng thời giảm chi phí
giao dịch và sự phụ thuộc vào tiền mặt.
Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý để thúc đẩy tiếp cận tài chính
thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn về các dịch vụ, phương tiện thanh toán mới, hiện đại;
áp dụng các hình thức kinh doanh, số hóa hoạt động thanh toán Chính phủ đến cá nhân để giảm chi
phí và tăng khả năng tiếp cận. NHNN phối hợp với các Bộ, Ngành xây dựng và ban hành các cơ chế,
chính sách để khuyến khích các TCTD tăng cường sử dụng công nghệ số vào hoạt động và không
ngừng cải tiến, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
Đồng thời, NHNN cần phối hợp với các bên có liên quan ban hành các quy định, tăng cường biện
pháp đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật để ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng như thanh toán thẻ, ATM, POS và các phương thức thanh toán sử dụng
công nghệ cao.
4.6. Thực hiện các biện pháp nhằm tạo điều kiện cho người dân vùng sâu vùng xa, phụ
nữ nghèo được tiếp cận với dịch vụ tài chính
Tài chính toàn diện là việc cung cấp dịch vụ tài chính chính thống phù hợp và thuận tiện
cho tất cả các thành phần trong xã hội, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp và dễ bị tổn
thương, nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển
dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội.
Để thu hẹp khoảng cách về năng lực tài chính ở nông thôn Trung Quốc đã thực hiện nhiều
dự án nhằm giúp phụ nữ nghèo ở nông thôn tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng. Đặc biệt, Trung
Quốc đã thành công trong dự án tận dụng lợi thế của Wechat, bằng cách đăng câu chuyện và bài
học được gửi đến thuê bao của điện thoại. Các tính năng nhắn tin bằng giọng nói đã làm cho ứng
dụng di động có thể tiếp cận được với những người nông dân, phụ nữ nghèo không biết chữ - mà
những người này ngày càng có khả năng sở hữu điện thoại thông minh. Kết quả là đa số người
541
- dân nghèo, phụ nữ nông thôn dưới 50 tuổi đều có thể sử dụng Wechat để truyền đạt và tiếp cận
với các nguồn thông tin tài chính kỹ thuật số mới trong lần đầu tiên. Bên cạnh đó, các tổ chức
TCVM hướng đến đối tượng khách hàng chủ yếu là phụ nữ nghèo, vì phụ nữ thường không có tài
sản thế chấp và ít có cơ hội tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ tài chính chính thức.
Còn với Ấn Độ, GCC hoạt động với mục đích là giúp đỡ những người nghèo và người có
hoàn cảnh khó khăn tăng khả năng tiếp cận tín dụng, dịch vụ ngân hàng nên GCC đã cung cấp tín
dụng cho khách hàng chỉ dựa trên việc đánh giá dòng tiền mà không đòi hỏi sự an toàn, mục đích
sử dụng cuối cùng của tín dụng.
Để giúp cho người nông dân vùng sâu vùng xa, phụ nữ nghèo tiếp cận được với các dịch vụ tài
chính cơ bản, Việt Nam đã thực hiện rất nhiều biện pháp đặc biệt là việc mở rộng các loại hình định
chế tài chính tham gia cung ứng dịch vụ tài chính như Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển, các quỹ tín dụng nhân dân, các tổ chức TCVM và NHTM với phân khúc khách hàng
phù hợp. Những tổ chức này đã cung cấp các hình thức tiết kiệm và cho vay giá trị nhỏ, siêu nhỏ,
không yêu cầu tài sản thế chấp cho các đối tượng là người nghèo, người thu nhập thấp, người dân
nông thôn vùng sâu vùng xa với các hình thức quản lý phù hợp. Tuy nhiên, trong thời gian tới các
TCTD cần đa dạng hóa hơn nữa các sản phẩm tài chính bằng cách cung cấp thêm các dịch vụ tài
chính vi mô như thanh toán, chuyển tiền… thiết kế sản phẩm cho vay tiêu dùng phù hợp với đối
tượng vay tiêu dùng với mức lãi suất hợp lý, xây dựng chính sách tín dụng cho nông nghiệp hay phát
triển hình thức cho vay theo chuỗi giá trị nông sản, gắn sản xuất kinh doanh với tiêu thụ sản phẩm và
hoàn thiện cơ chế chính sách bảo hiểm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc thành
lập các tổ chức TCVM tại các địa phương, làng xã là thực sự cần thiết để bổ sung các dịch vụ tài
chính chính thức vào những “khoảng trống” của thị trường các dịch vụ tài chính nông thôn. Với
phương thức huy động vốn trực tiếp từ người vay; cho vay trực tiếp đối với người gửi cần khoản vay
lớn hơn; thu nợ dần tiền vay từ những khoản tiền gửi của người vay tiền và với các khoản vay, gửi
đều nhỏ lẻ sẽ rất phù hợp với điều kiện của những người nông dân có mức sống trung bình và thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thu Thủy (2017). “Tiếp cận tài chính vi mô tại Trung Quốc, Bangladesh và
Philippines - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Luận án tiến sĩ - Học viện Ngân hàng.
2. ADB (2014). “The People’s Republic of China: Knowledge Work on Credit Growth in
Microfinance and Rural Finance”. Project Number: SC 102911, Consultant’s Report.
3. Atkinson, A. (2017), “Financial Education for MSMEs and Potential Entrepreneurs”,
OECD Working Papers on Finance, Insurance and Private Pensions, No. 43, OECD Publishing,
Paris.
4. IMF (2011). “People’s Republic of China: Financial System Stability Assessment”. IMF
Country Report No.11/321. Washington, DC. November
5. Joshi, D. P. (2014a). “Strategy Adopted for Financial Inclusion”. Address at a workshop
organized by the Government of Madhya Pradesh. New Delhi. 24 January.
6. Joshi, D. P. (2014b). “Financial Intermediation for All-Economic Growth with Equity”.
Speech at the Financial Inclusion Conclave of Dun & Bradstreet. Mumbai. 26 Augus.
7. People’s Bank of China (PBC). (2013a). “2012 Report of China Payment System”.
Beijing: People’s Bank of China.
8. People’s Bank of China (PBC). (2013b). “2012 Report of China Payment System”.
Beijing: People’s Bank of China.
9. World Bank. (2014). “Global Financial Development Report 2014: Financial
Inclusion”. Washington, DC: World Bank. (April 2014)
10. Yuqing Xing, Robert Davis, Aladdin D. Rillo, và Paul Vandenberg (2014) “Financial
Inclusion in Asia”. Asian Development Bank Institute (2014)
11. http://www.sbv.gov.vn
542
nguon tai.lieu . vn