Xem mẫu

  1. KINH NGHIỆM MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÀI CHÍNH VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM ThS. Trần Thị Thu Nguyệt Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên Tóm tắt Với hơn 97 triệu người trong đó khoảng 70% dân số sống ở vùng nông thôn với tỷ lệ nghèo còn khá cao, việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức tại Việt Nam còn rất thấp. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), đến năm 2018 chỉ có 31% người trưởng thành và 20% người nghèo được tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thống, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ngân hàng ở Việt Nam cũng mới chỉ đạt hơn 40% (NHNN Việt Nam, 2019), thấp hơn rất nhiều so với các quốc giacó mức thu nhập trung bình trong khu vực, cụ thể tỷ lệ này tại Malaysia là 85%, Thái Lan là 81,6% và Ấn Độ là 80% (Global Findex Database, 2018). Trong khi đó, việc nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính toàn diện (financial inclusion) được coi là điều kiện tiên quyết cho việc đạt được tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững (UNDP, 2010; WB, 2013). Điều này đòi hỏi chúng ta cần lựa chọn các giải pháp phù hợp thông qua quá trình nghiên cứu thực trạng ở Việt Nam cũng như học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Bài viết dưới đây đưa ra kinh nghiệm của một số quốc gia khá thành công về tài chính toàn diện, đồng thời gợi ý một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động này tại Việt Nam. Từ khoá: Tiếp cận tài chính, tài chính toàn diện, financial inclusion 1. Tài chính toàn diện là gì Khái niệm tài chính toàn diện bắt nguồn từ năm 1976 khi Giáo sư Muhammad Yunus thực hiện khoản cho vay đầu tiên trị giá 27USD cho một nhóm phụ nữ dệt may tại Bangladesh. Từ món vay nhỏ nhưng có ý nghĩa đó, Yunus đã phát triển thành mô hình Grameen Bank, cung cấp các dịch vụ tài chính cho hơn 8 triệu người có thu nhập thấp tại Bangladesh. Đúng như ý nghĩa của khoản vay, tài chính toàn diện là tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên trong cộng đồng được tiếp cận với các dịch vụ tài chính, đặc biệt là các nhóm dân cư có thu nhập thấp, hoặc sinh sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa và nhóm hộ kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau Yunus, Leyshon and Thrift (1995) đã đưa ra khái niệm rằng “Tài chính toàn diện là quá trình một số nhóm xã hội và cá nhân nhất định được tiếp cận với hệ thống tài chính chính thức”, trong khi đó Liên Hiệp Quốc cho rằng chính toàn diện là “cơ hội
tiếp cận các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý cho người dân”, trong đó các dịch vụ tài chính
cơ bản bao gồm tiết kiệm, tín dụng ngắn hạn và dài hạn,
cho thuê và bao thanh toán, thế chấp, bảo hiểm, trợ cấp, thanh toán, chuyển tiền trong nước và chuyển tiền quốc tế (Bluebook, 2006).
 Tại Ấn Độ, một trong những quốc gia mà hoạt động tài chính vi mô khá phát triển thì tài chính toàn diện lại được Uỷ ban Tài chính Toàn diện của Chính phủ định nghĩa là “quá trình đảm bảo các nhóm dân cư thiệt thòi chẳng hạn như tầng lớp yếu thế và nhóm thu nhập thấp có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính và tín dụng kịp thời và đầy đủ khi cần thiết với chi phí phải chăng” (Ủy ban Rangarajan, 2008), còn theo Ngân hàng Thế giới (2008) nâng cao tiếp cận tài chính toàn diện là khi không còn các rào cản giá cả và phi giá cả trong việc sử dụng các dịch vụ tài chính, nâng cao tiếp cận có nghĩa là cải thiện mức độ cung cấp các dịch vụ tài chính với mức giá phải chăng. Trong đó, tài chính vi mô được coi là một hình thức của quá trình mở rộng tiếp cận dịch vụ tài chính. Như vậy, cho dù có được định nghĩa thế nào bằng các cách khác nhau thì cũng đều có thể hiểu rằng, tài chính toàn diện là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi cá 543
  2. nhân và tổ chức, đặc biệt là đối với người có thu nhập thấp nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia. 2. Kinh nghiệm quốc tế về nâng cao khả năng tiếp cận tài chính toàn diện 2.1. Ấn Độ Là quốc gia có dân số cao thứ hai thế giới nhưng Ấn Độ là một trong những quốc gia thực hiện tiếp cận tài chính khá hiệu quả, nhất là cho những đối tượng là người nghèo và người có thu nhập thấp mà hiệu quả bắt nguồn từ việc đi đầu trong các chương trình phát triển tài chính vi mô. Tại Ấn Độ, tài chính toàn diện được triển khai lần đầu tiên vào năm 1998 với mô hình Swayam Krishi Sangam (SKS). SKS cung cấp các sản phẩm TCVM thông qua việc cho vay đối với nhóm phụ nữ nghèo vì mục đích lợi nhuận. SKS vận hành theo mô hình Joint Liability Group - JLG - hình thức tín dụng thực hiện theo nhóm năm thành viên. SKS cung cấp 8 sản phẩm và dịch vụ tài chính cho các khách hàng: vay tạo thu nhập, các khoản cho vay trung hạn, hỗ trợ tang, khoản vay vàng, vay nhà ở, bảo hiểm nhân thọ… Nhờ chú trọng vào thiết kế các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng, phù hợp với nhu cầu của nhiều đối tượng dân cư và sự tiên phong trong phát triển hệ thống thông tin quản lý (MIS) mà SKS đã tiếp cận tới hàng triệu hộ gia đình nghèo trên khắp Ấn Độ. Từ khi thành lập, SKS đã cung cấp 40 triệu USD tín dụng vi mô cho hơn 150.000 phụ nữ ở miền Nam Ấn Độ thông qua 45 chi nhánh và 500 nhân viên. Tiếp sau đó, năm 2005, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ (RBI) đã thực hiện một dự án thí điểm tại làng Mangalam, bang UT of Pondicherry về tài chính toàn diện. Làng trở thành ngôi làng đầu tiên ở Ấn Độ, nơi mà tất cả các hộ gia đình được cung cấp các tiện ích ngân hàng. Nhằm đảm bảo rằng những người thuộc nhóm thu nhập thấp, cả ở khu vực thành thị và nông thôn đều không gặp trở ngại trong việc mở tài khoản ngân hàng, quy trình tìm hiểu khách hàng (KYC)
để mở tài khoản ngân hàng
đã được đơn giản hóa cho những người có số dư tài khoản không quá Rs 50.000 (khoảng 600 GBP) và tín dụng trong tài khoản không quá Rs.100000 (khoảng 1.200 GBP) trong một năm. Để hỗ trợ cho người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn tiếp cận tín dụng dễ dàng, Thẻ tín dụng (GCC) dùng cho mục đích thanh toán thông thường lên đến Rs 25.000 tại các chi nhánh nông thôn và bán đô thị cũng đã được phát hành trong giai đoạn này. Các ngân hàng cũng được khuyến cáo cụ thể rằng những người vay với khoản vay quyết toán theo hình thức quyết toán một lần sẽ được tiếp tục tiếp cận hệ thống tài chính chính thức cho khoản tín dụng mới. Ngoài ra, RBI cũng đã kêu gọi toàn ngành ngân hàng mở rộng đối tượng tiếp cận đến đối tượng chưa từng sử dụng dịch vụ ngân hàng từ năm 2005. Các quy định cho phép ngân hàng triển khai hệ thống đại lý uỷ thác với một số nghiệp vụ như nhận các khoản tiền gửi nhỏ, làm trung gian thanh toán và xử lý hồ sơ vay vốn, khuyến khích ứng dụng công nghệ trên điện thoại và các loại thẻ thông minh. RBI cũng khuyến khích các ngân hàng hợp tác với các bưu cục tại địa phương (hơn 150.000 bưu cục) với vai trò đại lý uỷ tác. Giai đoạn 2004- 2005, NHTW Ấn Độ đã thực hiện một số biện pháp với mục tiêu thu hút dân số không tham gia hoạt động tài chính vào hệ thống tài chính đã cơ cấu. Cụ thể, tháng 11/2005, các ngân hàng được khuyến cáo lập tài khoản ngân hàng “no-frill” cơ bản với số dư tối thiểu thấp hoặc bằng 0 cũng như phí mở rộng tiếp cận các tài khoản này đến phần lớn dân số. NHTW Ấn Độ cũng yêu cầu các ngân hàng phải cung cấp tất cả các tài liệu hướng dẫn sử dụng cho các khách hàng cá nhân bằng ngôn ngữ của từng khu vực ở Ấn Độ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các khách hàng khi đến giao dịch với ngân hàng. 
Vào tháng 1/2006, các ngân hàng đã được phép sử dụng các dịch vụ của các tổ chức phi chính phủ (NGOs/SHGs), các tổ chức tài chính vi mô và các tổ chức xã hội dân sự khác với vai trò trung gian trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính và ngân hàng thông qua việc sử dụng các 544
  3. mô hình xúc tiến kinh doanh và thư tín giao dịch (BC). Mô hình BC cho phép ngân hàng thực hiện các giao dịch tài chính tại địa điểm BC và cho phép nghiệp vụ ngân hàng không chi nhánh. Bên cạnh đó, NHTW Ấn Độ cũng đã yêu cầu các NHTM ở các vùng khác nhau bắt đầu một chiến dịch bao gồm 100% tài chính toàn diện trên cơ sở thí điểm. Theo kết quả của chiến dịch tiểu bang hoặc bang U.T như Pondicherry, Himachal Pradesh và Kerala đã công bố 100% tài chính toàn diện trong tất cả các khu vực. Các biện pháp khác bao gồm thiết lập các mô hình thí điểm về tư vấn tín dụng và giáo dục tài chính. Trang web đa ngôn ngữ bằng 13 thứ tiếng ở Ấn Độ về tất cả các vấn đề liên quan đến ngân hàng và người dân mà NHTW Ấn Độ đưa vào sử dụng vào ngày 18/6/2007. Tất cả những biện pháp này đã giúp Ấn Độ thành công trong việc phát triển tài chính toàn diện. Nhờ đó, đến năm 2013 đã có 20 triệu người dùng và 1.194 triệu giao dịch thanh toán qua di động. Đến năm 2014, đã có hơn 52,8% người trưởng thành ở Ấn Độ có tài khoản ngân hàng (so với năm 2011 là 35%); mạng lưới các điểm cung cấp dịch vụ ngân hàng dưới hình thức đại lý kinh doanh đã tăng khoảng 6,5 lần trong 3 năm và đến năm 2017, tỷ lệ này là gần 80% (Global Findex Database, 2018). Xu hướng tăng này được dự báo sẽ còn duy trì trong các năm tiếp theo, và theo dự kiến của NHTW Ấn Độ, đến năm 2020 điện thoại di động có khả năng phục vụ 250 triệu người sử dụng dịch vụ tài chính tại quốc gia này và sẽ có gần 600 triệu tài khoản khách hàng mới được mở và phục vụ họ thông qua nhiều kênh bằng cách tận dụng sự tiến bộ của công nghệ thông tin. 2.2. Thái Lan Khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã ảnh hưởng mạnh đến Thái Lan, nền kinh tế nước này đã gần như rơi vào trạng thái phá sản và phải tìm kiếm sự hỗ trợ từ IMF. Với khoản hỗ trợ tài chính này, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện cải cách chính phủ một cách toàn diện và tái cơ cấu lại nền kinh tế bằng chiến lược tổng thể về tài chính toàn diện. Chiến lược này gồm bai cột trụ chính liên quan đến: (i) cải thiện cung cấp dịch vụ thanh toán, tín dụng, tiết kiệm và bảo hiểm; (ii) gia tăng nhu cầu của người dân thông qua hoạt động giáo dục tài chính; (iii) cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng quản lý tài chính trên cơ sở cải thiện hệ thống dữ liệu và cơ cấu lại cách thức quản lý. Hai kế hoạch được lập ra song song hướng đến tài chính toàn diện để thúc đẩy tăng trưởng của đất nước là chương trình tài chính vi mô Village Funds (Quỹ địa phương) - được công nhận là một trong các tổ chức tài chính vi mô lớn nhất trên thế giới hiện nay hướng đến người nghèo, các hộ gia đình ở nông thôn và chính sách tiếp cận tài chính hướng đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) - những nhân tố chủ chốt trong quá trình hồi phục hậu khủng hoảng của Thái Lan. Village Funds liên kết với tổ chức tài chính quốc gia (SFIs) nhằm huy động các khoản tài chính rất nhỏ ở địa phương cho nguồn tiết kiệm của quốc gia. Giá trị trung bình của các khoản tiền gửi hàng tháng vào quỹ này gần bằng ½ giá trị trung bình của quốc gia, tổng vốn huy động tương ứng với 9% tiết kiệm quốc gia, cho thấy vai trò to lớn của Quỹ này đối với việc huy động tiết kiệm trong dân cư ở địa phương. Đây cũng là nguồn để cung cấp các khoản tín dụng cho hộ gia đình, các nông trại và các doah nghiệp nhỏ ở khu vực nông thôn, giúp người dân tiếp cận được nguồn vốn để phát triển kinh tế. Trước đây, Thái Lan hầu như không có hệ thống chính sách trợ giúp SMEs, tuy nhiên, hiện nay chính sách về SMEs đang trở thành một trong những tiêu điểm của hệ thống chính sách cải cách kinh tế của Thái Lan kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. SMEs được coi là trọng tâm của các chính sách trợ giúp SMEs của Thái Lan là phát triển các mạng lưới trợ giúp công nghiệp phục vụ xuất khẩu với mục tiêu chính là phục vụ cho chiến lược phục hồi sau khủng hoảng của Thái Lan dựa trên phát triển xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Trong đó, các biện pháp quan trọng gồm trợ giúp tài chính cho SMEs; thành lập và phát triển thị trường vốn cho các SMEs; đào tạo doanh nhân và người lao động; hỗ trợ phát triển công nghệ mới; hỗ trợ nghiên cứu và tìm kiếm thị trường; phát triển các liên kết giữa SMEs và các doanh nghiệp lớn; phát triển 545
  4. các hiệp hội SMEs; phát triển SMEs ở nông thôn; sửa đổi các quy định luật pháp gây trở ngại cho SMEs. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng nỗ lực thực hiện các cải cách các quy định cũng như thực hiện giám sát hệ thống tài chính một cách chặt chẽ và có những biện pháp cứng rắn, mạnh mẽ nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hệ thống tài chính, vực dậy nền kinh tế và mở rộng tiếp cận tài chính đến dân cư. Nhờ vậy, tỷ lệ tiếp cận tài chính tại quốc gia này tăng nhanh và cao hơn mức bình quân của khu vực, cụ thể năm 2011 là 72,7% và 55,1%, năm 2014 là 78,1% và 69% và đến năm 2017, tỷ lệ này là 81,6% (Global Findex Database, 2018). 2.3. Malaysia Trong số các quốc gia có thu nhập trung bình, Malaysia là quốc gia đạt trình độ tài chính toàn diện vào hạng cao nhất trên thế giới. Hệ thống tài chính của Malaysia phát triển nhanh chóng và không ngừng nghỉ trong suốt hai thập kỷ qua, mang đến cho nền kinh tế hàng loạt sản phẩm tài chính truyền thống và đặc trưng Hồi giáo cho các hộ gia đình với mức phí phải chăng. Với hơn 92% dân số được tiếp cận các dịch vụ tài chính, Malaysia đang tiệm cận với nền tài chính toàn diện toàn cầu trong tương lai gần. Chính phủ Malaysia bắt đầu thực hiện cải cách hệ thống tài chính từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á. Chiến lược này gồm quy hoạch tổng thể khu vực tài chính kéo dài từ năm 2001-2010, được quản lý bởi ngân hàng Negara Malaysia (BNM) - với chức năng chính là phát triển một hệ thống tài chính tổng thể, là cơ quan hàng đầu chịu trách nhiệm về các chính sách và sáng kiến nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện ở Malaysia; thực hiện song song với quy hoạch tổng thể thị trường vốn được dẫn đầu bởi Ủy ban chứng khoán đã hỗ trợ việc tái cơ cấu và củng cố lĩnh vực tài chính một cách hiệu quả. Đồng thời, các quy hoạch này đã được củng cố bởi một khuôn khổ pháp lý và một hệ thống giám sát tài chính mạnh mẽ từ Chính phủ Malaysia trong thời gian này. Năm 2006, các chính sách phát triển khu vực tài chính của Malaysia khuyến khích các ngân hàng thương mại đóng vai trò then chốt trong việc mở rộng tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp vi mô. Theo khuôn khổ này, Tổng công ty Bảo lãnh tín dụng (CGC) được thành lập tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nhiều hơn với và dễ dàng hơn các dịch vụ tài chính. Năm 2008, quốc gia này cũng đã thành lập trung tâm tín dụng để hỗ trợ SMEs xây dựng thông tin lịch sử tín dụng uy tín từ các giao dịch của các nhà cung cấp, chủ thuê đất, công ty dịch vụ công ích. Trung tâm này còn áp dụng phương pháp ghi điểm tín dụng toàn diện để các tổ chức tài chính nắm được mức độ tín nhiệm của các khách hàng tiềm năng. Ngoài ra trung tâm cũng là cơ quan đào tạo tại SMEs về cách tính điểm tín dụng, cách thức người đi vay cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh để tăng điểm tín dụng. Đồng thời, các TCTC phát triển (DFIs), hợp tác xã và các tổ chức tài chính vi mô (như Amanah Ikhtiar Malaysiavà Tabung Ekonomi Kumpulan Usaha Niaga) cũng có vai trò quan trọng trong việc phục vụ các nhóm khách hàng ở Malaysia với mạng lưới khắp cả nước bao gồm cả khu vực nông thôn, giúp các doanh nghiệp và người tiêu dùng tiếp cận các dịch vụ tài chính dễ dàng hơn. Ủy ban Hợp tác xã “Suruhanjaya Koperasi Malaysia” (SKM) của Malaysia được thành lập để điều chỉnh sự phát triển của hợp tác xã. Tổ chức Agensi Kaunseling Dan Pengurusan Kredit (AKPK)được thành lập và được xem như một nhánh của NHTW Malaysia với nhiệm vụ “Làm cho hoạt động quản lý tài chính thận trọng trở thành một phương châm sống” của người Malaysia. Thông qua các kênh truyền thông như hội thảo, các chương trình đào tạo trong nước, giáo dục tài chính tại nơi làm việc, chương trình định hướng cộng đồng… AKPK tổ chức chương trình giáo dục tài chính kết hợp với một vài biện pháp khác như chương trình tư vấn và quản lý nợ nhằm thúc đẩy việc thay đổi hành vi của người đi vay. Chương trình giáo dục tài chính tập trung vào những nguyên tắc tài chính cơ bản, hướng tới các mục tiêu quan trọng trong từng giai đoạn cuộc đời, gồm 6 chương: (i) quản lý dòng tiền, (ii) kiến thức cơ bản về vay vốn, (iii) sử 546
  5. dụng thẻ tín dụng, (iv) mua xe, (v) mua nhà, (vi) tầm quan trọng của việc quản lý nợ. Kể từ năm 2011, đã có gần 200.000 người tham gia và 500.000 người hưởng lợi từ chương trình giáo dục tài chính từ năm 2006. Với việc thực hiện đồng thời hai kế hoạch chiến lược này đã giúp Malaysia đa dạng hóa và hiện đại hóa lĩnh vực tài chính, thiết lập một hệ thống tài chính ổn định, tăng cường năng lực quản lý và gia tăng tiếp cận tài chính, giúp người dân có thể truy cập và sử dụng các dịch vụ tài chính phù hợp. Nhờ vậy, với tỷ lệ dân số trưởng thành có tài khoản tại ngân hàng từ 66% năm 2011 đã tăng lên 80,7% năm 2014 và mức 85,4% năm 2017 (Global Findex database, 2018), hiện nay Malaysia không chỉ là một trong các quốc gia có tỷ lệ tiếp cận tài chính cao nhất khu vực mà còn thuộc nhóm cao nhất trên thế giới. 3. Một số giải pháp đề xuất và kết luận Từ những hạn chế của Việt Nam và kinh nghiệm nâng cao khả năng tiếp cận tài chính của một số quốc gia trên thế giới như đã đề cập, có thể đưa ra một số khuyến nghị như sau: Thứ nhất, thúc đẩy hoạt động giáo dục tài chính Trình độ kiến thức về tài chính thấp là một trong số các yếu tố ảnh hưởng lớn để khả năng mở rộng tài chính toàn diện. Sự thiếu kiến thức về cơ chế hoạt động của các loại sản phẩm tài chính khác nhau dẫn đến sự thiếu tự tin của người dân khi sử dụng dịch vụ này. Đồng thời, người dân chưa hoàn toàn tin tưởng vào việc các nhà cung cấp dịch vụ có thể bảo vệ người tiêu dùng, từ đó giảm nhu cầu sử dụng các loại hình dịch vụ tài chính. Trên cơ sở đó, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm từ các quốc gia đang phát triển khác trên thế giới để nghiên cứu và đưa ra các kế hoạch cụ thể, phù hợp với môi trường pháp lý và điều kiện hiện tại. Các nhóm giải pháp có thể kể đến như: (i) Xây dựng chương trình giáo dục tài chính tổng quát hướng đến các nhóm đối tượng cụ thể theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp… trong đó liên hệ mật thiết đến nhu cầu quản lý tài chính mang tính định kỳ của người học. (ii) Tổ chức phối hợp giữa các doanh nghiệp, TCTC và tổ chức xã hội có uy tín tạo địa phương, phổ cập kiến thức về sản phẩm tài chính mà các tổ chức này cung cấp để hỗ trợ sử dụng hiệu quả và an toàn, nhất là các sản phẩm tài chính số. (iii) Truyền tải thông tin về giáo dục quản lý tài chính ở nhiều cấp độ thông qua các kênh truyền thông hiện đại, có tầm bao phủ rộng như truyền hình số, mạng xã hội, phần mềm ứng dụng trên điện thoại… với nội dung hấp dẫn được lặp đi lặp lại nhiều lần. (iv) Tiếp cận các gia đình thông qua chương trình đào tạo tại trường học cho lứa tuổi thanh thiếu niên - đối tượng có khả năng tiếp thu tốt về các xu hướng công nghệ mới, hướng đến lợi ích lâu dài. Thứ hai, phát triển hệ thống uỷ thác và điểm chấp nhận thanh toán, đẩy mạnh hơn nữa ứng dụng công nghệ số trong hoạt động tài chính ngân hàng Sự phát triển và tích hợp nhiều công nghệ mới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã dần giúp kênh đại lý uỷ thác trở thành một trong những hướng tiếp cận mới trong việc tăng cường khả năng và cơ hội tiếp cận tài chính toàn diện. Kinh nghiệm từ Ấn Độ cho thấy, việc tạo ra một khuôn khổ pháp lý, hoàn thiện cơ sở hạ tầng tài chính để phát triển kênh đại lý uỷ thác thanh toán sẽ tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng cho người dân, đặc biệt là dân cư ở khu vực vùng sâu, vùng xa. Thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy, tài chính ngân hàng là một trong những ngành ứng dụng công nghệ thông tin tốt nhất Việt Nam. Việt Nam đã có hơn 76 tổ chức tín dụng triển khai cung ứng các dịch vụ thanh toán qua internet và 41 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại. Đến cuối năm 2018, tổng lượng giao dịch qua hệ thống NAPAS tăng 45,7% so với 2017; tổng giá trị giao dịch thực hiện qua hệ thống này cũng tăng 169% so với năm 2017, đạt hơn 1.763.000 tỷ đồng. 547
  6. Chính vì vậy, công nghệ số chính là chiếc chìa khóa vàng giúp thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Công nghệ sẽ giúp giảm tới 80-90% chi phí giao dịch và quản lý, giảm thiểu tối đa việc phải thiết lập các chi nhánh vật chất, tăng tiếp cận tài chính cho khu vực nông thôn, miền núi và phụ nữ. Điều này đòi hỏi Chính phủ ngoài việc tiếp tục nâng cao cơ sở hạ tầng để phát triển công nghệ số còn phải hoàn thiện khung pháp lý để phát triển công nghệ số trong lĩnh vực tài chính một cách hiệu quả và toàn diện hơn, đồng thời khuyến khích các NHTM, các TCTD cung cấp dịch vụ tài chính vi mô sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng từ xa như phát triển các mạng lưới ngân hàng điện tử, phát triển dịch vụ ngân hàng đi kèm với ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông, đặc biệt là mobile và internet banking. Thứ ba, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, không ngừng phát triển và đổi mới cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Từ kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy vai trò cần thiết của SMEs đối với nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế Việt Nam với đặc thù hơn 98% là SMEs. Theo thống kê, hiện chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng, hơn 70% các doanh nghiệp còn lại buộc phải sử dụng nguồn vốn vay khác với chi phí rất cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích phát triển đối với hoạt động của SMEs, đổi mới các sản phẩm tài chính, đặc biệt là các sản phẩm tín dụng cho đối tượng này. Với mỗi giai doạn phát triển của nền kinh tế, các cơ quan nhà nước cần liên tục cập nhật chính sách, ưu đãi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, tăng cường yếu tố nội lực, làm động lực phát triển của nền kinh tế. Song song đó là cần có các giải pháp đồng bộ, hiệu quả đối với cả hai phía ngân hàng và doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng, mở rộng quy mô vốn vay của các doanh nghiệp. Để làm được điều này đòi hỏi cần có cơ chế chia sẻ thông tin của các bên liên quan, bao gồm cả các cơ quan thuế, đăng ký doanh nghiệp, thông tin tín dụng ngân hàng. Qua đó, giúp các ngân hàng và doanh nghiệp nhỏ và vừa chia sẻ, minh bạch thông tin; phục vụ việc đánh giá, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp nhỏ và vừa tốt hơn, giúp các ngân hàng dũng cảm hơn trong việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, giúp họ từng bước phát triển, chia sẻ những khó khăn trong trong tiếp cận nguồn vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh. Thứ tư, tiếp tục xây dựng và phát triển các chương trình tài chính vi mô một cách hiệu quả Kinh nghiệm từ các nước cho thấy, song song với thực hiện các chương trình chiến lược khác thì tài chính vi mô là một kênh không thể thiếu trong việc nâng cao tỷ lệ tiếp cận tài chính toàn diện. Chính vì vậy, NHNN cần chỉ đạo các tổ chức tín dụng đa dạng hóa hơn nữa các sản phẩm tài chính vi mô bởi người nghèo cũng có nhu cầu đối với các dịch vụ tài chính khác như tiết kiệm, chuyển tiền, thanh toán và bảo hiểm cũng như các dịch vụ phi tài chính phù hợp với khả năng của họ ngoài sản phẩm tín dụng. TCTCVM cần có sự tiếp cận sâu rộng hơn nữa với khách hàng, từ đó cung ứng các sản phẩm đa dạng, phong phú hơn, đặc biệt là các dịch vụ phi tài chính để đáp ứng cho nhu cầu của người nghèo. Kết luận Nếu như ý tưởng về mô hình tài chính vi mô đã là một “niềm kinh ngạc” (theo Ủy ban Nobel 2005) thì quá trình xây dựng tài chính vi mô tại mỗi quốc gia đang từng bước đóng góp nhiều phát triển kì diệu cho nền kinh tế - chính trị - xã hội của các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Để đạt tốt các mục tiêu đề ra trong chiến lược tài chính toàn diện trong dân cư trong thời gian tới, Việt Nam cần đánh giá lại một cách chính xác thực trạng và diễn biến của mức độ tài chính toàn diện ở Việt Nam cũng như kết hợp với học tập kinh nghiệm ở các nước có các đặc điểm tương đồng trong khu vực như đã đề cập trong bài viết để nâng cao hơn nữa hiệu quả và tốc độ phát triển, đáp ứng nhu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay./. 548
  7. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Asian Development Bank (ADB), 2014, Accelerating financial inclusion in south-east Asia with digital finance
 2. Charan Singh and associates, 2014, Financial Inclusion in India: Select Issues 3. Global Findex database, 2018 4. IFC, 2014, Responsible Finance in Vietnam 5. Kameel Abdul Halim, 2016, Improving Financial Inclusion through New Channels and Innovative Products - A Case Study of Malaysia 6. Kanittha Tambunlertchai, 2014, Financial Inclusion, Financial Regulation, and Financial Education in Thailand, Asian Development Bank Institute 7. World Bank, 2018, The Global Findex database 2017, Measuring Financial Inclusion and the Fintech Revolution. 8. Magdalena Segre, 2018, Financial literacy and financial inclusion in Vietnam: A way back and forth 9. http://datatopics.worldbank.org/financialinclusion/ 10. https://globalfindex.worldbank.org 11. Zarina Abd Rahman, 2015, Measuring Financial Inclusion in Malaysia, Bank Negara Malaysia 12. Shankar, S. (2013), Financial inclusion in India: Do microfinance institutions address access barriers?, ACRN Journal of Entrepreneurship Perspectives. Vol.2, Issue 1, p.60-74.
 549
nguon tai.lieu . vn