Xem mẫu

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 23 KIỀU THANH QUẾ VỚI NHỮNG CÔNG TRÌNH RA ĐỜI TRONG THỜI GIAN BỊ QUẢN THÚC Ở CẦN THƠ HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG* NGUYỄN VĂN NỞ** Kiều Thanh Quế là nhà phê bình, nghiên cứu văn học tiêu biểu ở Nam Bộ vào những năm đầu thế kỷ XX. Ông là một người yêu nước, từng tham gia các hoạt động cứu nước, có thái độ căm ghét cường quyền và từng bị quản thúc tại Cần Thơ. Cần Thơ đã trở thành vùng đất nặng ân tình với ông. Trên xứ sở Cầm Thi, trong những ngày bị chính quyền đương thời theo dõi, kìm kẹp ông đã đạt được nhiều thành tựu trong sự nghiệp cầm bút. Đất, người Cần Thơ đã lưu dấu ấn trong các công trình nghiên cứu của ông. Những công trình, bài báo ra đời trong thời gian Kiều Thanh Quế ở Cần Thơ đã thể hiện tấm lòng, tài năng của một người say mê văn học, miệt mài cống hiến vì sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc. Tuy vẫn còn đâu đó hạn chế nhất định, nhưng các công trình ấy vẫn đủ để chứng minh thời gian ở Cần Thơ là thời gian Kiều Thanh Quế viết sung sức nhất và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp nghiên cứu, phê bình ở buổi bình minh của văn học quốc ngữ. Từ khóa: Kiều Thanh Quế, Tây Đô văn đoàn, quản thúc, văn học quốc ngữ Nhận bài ngày: 12/12/2019; đưa vào biên tập: 15/12/2019; phản biện: 20/1/2020; duyệt đăng: 15/3/2020 1. ĐẶT VẤN ĐỀ báo chí phù du. Đôi khi ngƣời ta có Phê bình, khảo cứu, nghiên cứu văn những sáng kiến, đi những bƣớc tiên học là những hoạt động không thể phong táo bạo, nhƣng mà thiếu tiềm thiếu trong lịch sử phát triển văn học lực ở giới viết cũng nhƣ giới đọc để của mọi quốc gia trên thế giới. Văn nuôi dƣỡng cho thành phong trào phát học Việt Nam không ngoại lệ. Vào thời tỏa ra toàn quốc” (Phạm Thế Ngũ kỳ đầu của văn học hiện đại, Nam Bộ 1965: 629), Kiều Thanh Quế đã xuất đi tiên phong trong lĩnh vực sáng tác hiện nhƣ một ngôi sao sáng của văn nhƣng chƣa có thành tựu cao về học Nam Bộ. Ông trở thành “nhà phê nghiên cứu, phê bình văn học. Trong bình văn học hiếm có của Nam Bộ” bối cảnh văn học Nam Bộ bị cho là: (Hoài Anh, 2001: 923-939). Sự nghiệp “thƣờng chỉ nở ra bề mặt, trên một viết văn của Kiều Thanh Quế song hành cùng những biến thiên của lịch sử dân tộc, có những khúc quanh *, ** Trƣờng Đại học Cần Thơ. nhƣng đã lên đƣợc đỉnh cao. Ông trở
  2. 24 HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ… thành ngƣời “có công đối với sự phát Câu ca dao quen thuộc ấy, theo thời triển của phê bình văn học Việt Nam gian đã đi vào tâm thức ngƣời Việt, đầu thế kỷ XX” (Nguyễn Hữu Sơn - nhƣ chào mời, vẫy gọi những ai chƣa Phan Mạnh Hùng, 2009: 3). từng đến vùng đất này. Chắc hẳn, 2. CƠ DUYÊN VỚI CẦN THƠ VÀ Cần Thơ có sức mời gọi lớn, mà cũng TÂM TÀI CỦA KIỀU THANH QUẾ rất biết lƣu tình. Và năm 1940, Kiều Thanh Quế đã đến, nhƣng không vì “Hoàn cảnh và phong thổ đào tạo nên nhu cầu để đƣợc khám phá vẻ đẹp một thiên tài”, một tiêu đề trong “Thi sông nƣớc miền Tây, hay tìm cảm hào Tagore” của Kiều Thanh Quế có hứng sáng tác. Ông đã bị nhà cầm ghi nhƣ thế. Đúng nhƣ vậy. Không chỉ quyền Pháp cƣỡng bức đến đây, phải với trƣờng hợp của Tagore, mà còn là chịu sự quản thúc gắt gao của kẻ thù. của nhiều ngƣời. Biết rằng chƣa thể Vốn sinh trƣởng trong một gia đình nói Kiều Thanh Quế là thiên tài nhƣng giàu lòng yêu nƣớc, có nhiều ngƣời vẫn phải thừa nhận năng lực ngòi bút tham gia cứu nƣớc, ở Bà Rịa - Vũng của ông. Hoàn cảnh, môi trƣờng Tàu, bản thân ông cũng từng tham gia khách quan cũng đã tác động nhiều các tổ chức yêu nƣớc trong thời gian đến sự thành ông của Kiều Thanh học ở Sài Gòn. Tuổi trẻ, tính cƣơng Quế. Bị cƣỡng bức xuống Cần Thơ, trực, nỗi bất bình về những chuyện sống trong vòng quản thúc của chính phi lý trong xã hội đã dẫn ông đến chỗ quyền Pháp, phải chăng đã làm nên xích mích với tên sếp chợ ngƣời Ấn, một “hoàn cảnh” đặc biệt! Đất và quốc tịch Pháp, khiến nhà chức trách ngƣời Cần Thơ đã giúp ông phát triển đƣơng thời phải tìm cách đối phó. văn tài. Những “hạt giống” ý tƣởng đã Nào ngờ đó lại là cái “duyên”, đƣa đẩy gặp “phong thổ” thích hợp, nhanh ông đến với đất và ngƣời Cần Thơ. chóng nảy mầm, từ đó tạo nên nhiều Cái “duyên” bất đắc dĩ ấy lại tạo nên công trình có đóng góp lớn cho văn những kỷ niệm đẹp, những ấn tƣợng học Nam Bộ. Cần Thơ với cuộc đời sâu sắc trong cuộc đời viết văn của cầm bút của Kiều Thanh Quế chắc ông. hẳn rất nhiều ân tình, kỷ niệm khó Những năm đầu của thập niên 40, ở phai, là nơi đã đem lại cho ông “thời thế kỷ trƣớc, không khí chính trị có kỳ viết sung sức nhất trong quãng đời nhiều phức tạp nhƣng lại hâm nóng sáng tạo ngắn ngủi của mình” đƣợc ý thức dân tộc ở tầng lớp trí (Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, thức Việt Nam, trong đó có trí thức 2009: 3). Nam Bộ, đặc biệt là những ngƣời cầm 2.1. “Duyên tình” của đất và ngƣời bút. Họ xông xáo lao vào nhiều hoạt Cần Thơ đối với Kiều Thanh Quế động văn hóa, xã hội, muốn góp sức Cần Thơ gạo trắng nước trong cho sự phát triển văn hóa dân tộc, vì Ai đi đến đó lòng không muốn về. lợi ích quốc gia.
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 25 Nhiều sinh hoạt văn hóa, văn học diễn xuất hiện trong thời gian này. Đây là ra trong thời gian này, nhƣ tuần lễ một tổ chức tập hợp đƣợc nhiều trí triển lãm sách báo ở Sài Gòn, năm thức nặng tình với quê hƣơng, chân 1942, do nhà sách Nguyễn Khánh tâm với văn học nƣớc nhà và có trách Đàm tổ chức, có bình chọn 10 quyển nhiệm lớn với văn hóa dân tộc. Theo sách quốc văn có giá trị nhất (Nho nguồn tƣ liệu từ Nam Phong tạp chí, giáo của Trần Trọng Kim đƣợc xếp số 141, tháng 8/1929, buổi đầu, hội hạng nhất, Truyện Kiều đứng thứ hai). chỉ là hội học, hội viên đƣợc 20 ngƣời. Báo Tri Tân tổ chức thi về sử khảo. Về sau, từ khi bác sĩ Lê Văn Ngôn làm Giải nhất thuộc về Trần Văn Hai với Hội trƣởng, số hội viên tăng lên đƣợc bài Lãnh sự Việt Nam ở Sài Gòn. 123 ngƣời. Hội đã quy tụ đƣợc nhiều Sinh hoạt văn học ở Nam Bộ lúc đó ngƣời tài năng nhƣ giáo sƣ Nguyễn trở nên khởi sắc. Đấy là nhờ sự hỗ trợ, Văn Kiết (tức Tây Đô cát sĩ), Trực khích lệ của các hội Khuyến học. Thần, Lê Đằng Côn, họa sĩ Nguyễn Những tổ chức mang tính chính quy, Văn Mƣời… Hội đã lập nhóm Tây Đô hợp pháp thời bấy giờ có chức năng văn đoàn có sự tham gia của các điều hành nhiều sinh hoạt văn hóa. thành viên nhƣ Tố Phang (tức Thuần Đáng chú ý là những ngƣời đứng đầu Phong), Khuông Việt, Trúc Đình. Năm của tổ chức ấy thƣờng quan tâm đến 1941, nhóm đã tổ chức quyên tiền xây hoạt động văn học nghệ thuật. Họ mộ cụ Thủ khoa Nghĩa ở Bình Thủy mong muốn làm gì đó để thúc đẩy văn (Cần Thơ), tổ chức giải thƣởng Thủ học nƣớc nhà phát triển mạnh. Hội khoa Nghĩa. Ngày 24/6/1944 phát giải Khuyến học trung ƣơng, dƣới sự điều thƣởng hạng nhất cho tác phẩm Đồng hành của giáo sƣ Đoàn Quang Tấn, quê của Phi Vân và truyện Năm người treo giải thƣởng cho sáng tác văn thanh niên của Nguyễn Ngọc Tân. chƣơng hàng năm. Đầu năm 1942 có Thời gian bị quản thúc ở Cần Thơ, phát giải và giải nhất dành cho tiểu Kiều Thanh Quế có thể bức bối vì thuyết Chổng con của Trần Tiêu. hoàn cảnh bị kẻ thù o ép, nhƣng đây Nhiều lễ kỷ niệm về các nhà thơ lớn là thời điểm ông đƣợc sống với không nhƣ Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu khí của “sự trỗi dậy của văn học miền đƣợc tổ chức long trọng, trong tình Nam” (Phạm Thế Ngũ 1965: 629). cảm dạt dào, mang đến cho mọi Ông đã không đứng ngoài cuộc các ngƣời những niềm xúc động khó tả. phong trào. Ông là thành viên của Tây Không khí văn chƣơng, học thuật sôi Đô văn đoàn. Tháng ngày “nhàn hạ nổi ấy lan tỏa xuống tận Cần Thơ. Xứ bất đắc dĩ” (từ dùng của Bằng Giang sở đó, với dòng sông Hậu hiền hòa, 1974: 177) ở Cần Thơ đã đƣa ông đã nuôi dƣỡng đƣợc bao tâm hồn thơ, đến với những cuộc diện kiến, làm rèn đúc nên nhiều cây bút văn tài quen, rồi thân thiết với nhiều trí thức, năng. Hội Khuyến học Cần Thơ đã học giả Tây Đô. Giáo sƣ Nguyễn Văn
  4. 26 HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ… Kiết, cũng là thành viên của nhóm Tây thức khá ấu trĩ hoặc ở tác phẩm tiểu Đô văn đoàn, là một trong những thuyết cho một công chúng hạ lƣu dễ ngƣời hỗ trợ ông đắc lực, giúp ông dãi. Những ngƣời thức giả lƣu tâm nhập cuộc với những sinh hoạt văn đến quốc văn sau đó lại phải quay ra học sôi nổi ở Cần Thơ bấy giờ. Sống miền Bắc để đón tiếp những sáng tác trong vòng kiểm soát gắt gao của kẻ mới cũng nhƣ phong trào văn học thù, không thể nào yêu nƣớc bằng mới” (Phạm Thế Ngũ, 1965: 85). Sống các hoạt động chính trị, cũng nhƣ giữa những ngày tháng Nam Bộ khởi nhiều nhà yêu nƣớc khác cùng thời, sắc hoạt động văn học, thời gian ở ông quay sang hoạt động văn hóa, Cần Thơ có lẽ cũng là những ngày học thuật, luôn dõi theo thời sự văn Kiều Thanh Quế phấn chấn, hào hứng học nƣớc nhà. nhất, tràn ngập niềm tin vào tƣơng lai Tây Đô văn đoàn tạo nhiều thuận lợi của văn học nƣớc nhà. Để rồi sau đó, để ngòi bút của ông thả sức. Tài năng khi nhìn lại, tổng kết thành tựu đã đạt, Kiều Thanh Quế đƣợc phát tiết mạnh Kiều Thanh Quế vui sƣớng reo lên nhất vào lúc này. Ông trở thành cộng trên báo Tri Tân, số Xuân Giáp Thân: tác viên Nam Bộ nổi bật nhất của báo “Thật là những bƣớc đầu khả quan, Tri Tân cũng từ thời gian đó. Đến nhƣ những ngày tới có thể đầy hứa hẹn Phạm Thế Ngũ, một ngƣời ít có xán lạn” (dẫn theo Phạm Thế Ngũ những đánh giá cao về văn học Nam 1965: 631). Những ngày bị quản thúc, Bô, nhất là văn học trong buổi đầu mỗi bƣớc chân đều có mật thám theo hình thành văn học quốc ngữ, còn dõi, nhƣng hình nhƣ, sự kiềm tỏa của phải thốt lên rằng: “ngay từ năm 1941, kẻ thù không làm tắt đƣợc ngọn lửa miền Nam đã cung cấp cho Tạp chí đam mê nghiên cứu trong Kiều Thanh Tri Tân những cây bút khảo luận xuất Quế. Nặng nợ văn chƣơng từ trƣớc, sắc: Lê Thọ Xuân, Tố Phang, Kiều có sẵn một tấm lòng với nền văn hóa, Thanh Quế” (Phạm Thế Ngũ, 1965: văn học nƣớc nhà, đƣợc sự hỗ trợ 630). Nói điều này vì Phạm Thế Ngũ của bao bạn bè thân quen, đặc biệt là từng nhận định: “Gia Định là đất mới. nhóm Văn đoàn Tây Đô, đến Cần Dân chúng vừa thƣa ít, vừa chƣa Thơ, Kiều Thanh Quế nhƣ “Tái ông đƣợc thuần nhất. Luống cày Nho gia thất mã”, đƣợc tận dụng nhiều cơ hội. chƣa đào xới đƣợc sâu thì ngƣời Ngƣời cung cấp tƣ liệu quý, có cả tƣ Pháp đến. Sự sáng tác văn học, sự liệu từ nƣớc ngoài mang về, theo ƣa chuộng văn chƣơng, sự trồng trọt thi Bằng Giang đó là Tây Đô Cát Sĩ, tức văn ở đây chƣa có truyền thống sâu giáo sƣ Nguyễn Văn Kiết. Ông đã cho xa, nên kém tiềm lực, kém khả năng… Kiều Thanh Quế mƣợn tất cả tài liệu Quốc văn do đó trong nhiều năm về nƣớc ngoài viết về Tagore, đồng thời sau ở Nam Kỳ chỉ bày tỏ trong hình cũng là ngƣời chở che, bảo bọc trong thức báo chí phổ thông, với trình độ trí sinh hoạt đời thƣờng. Lúc mới đến
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 27 Cần Thơ, Kiều Thanh Quế phải ở trọ nhà đại thi hào Tagore, ngƣời duy nhà ngƣời quen, nhiều bất tiện, vất nhất ở Ấn Độ bấy giờ đƣợc giải Nobel vả. Ông Ôn Văn Hy, làm việc tại Ty Y văn chƣơng. Lúc Kiều Thanh Quế ở tế Cần Thơ, hiểu rõ hoàn cảnh của Cần Thơ, thi hào Tagore qua đời Kiều Thanh Quế, cảm kích chàng (tháng 8/1941). Sự kiện đó đã khơi thanh niên khí khái, đã đƣa ông về nhà dậy cảm hứng cho Kiều Thanh Quế. ở, để đƣợc rộng rãi thoải mái hơn. Thi hào Tagore từng đƣợc Mạnh Đất, ngƣời Cần Thơ hiền hòa, chân Phan đánh giá cao: “Sách viết rất tình, không chỉ chở che mà còn hỗ công phu và dày công khảo cứu: đáng trợ, kích thích tài năng cùng niềm đam khen. Tác giả đã dùng một phƣơng mê của Kiều Thanh Quế. Tài năng và pháp rành mạch phân tích thơ Tagore niềm đam mê ấy cứ lớn mãi trong để cố hiểu nhà đại thi hào ấy của Ấn hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, bởi sự Độ. Nhiều tài liệu của tác giả phần kiềm kẹp của kẻ thù. Để rồi, vừa thoát nhiều chƣa ai nói đến bằng Quốc văn. khỏi sự quản thúc, về Sài Gòn, nó đã Tác giả đã đọc đƣợc nhiều bản dịch nhanh chóng kết thành “hoa trái”. Kiều thơ Tagore bằng Pháp văn nên Thanh Quế đƣợc xuất bản liên tục các thƣờng dẫn chứng để độc giả dễ hiểu. công trình lớn, mang tính chuyên sâu Thật là một cuốn sách dày có thể nhƣ: Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam khiến độc giả thấu rõ tâm hồn huyền (1943), Thi hào Tagore (1943), Học bí và cao cả của Tagore…” (dẫn theo thuyết Freud (1943)… Riêng Thi hào Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, Tagore đƣợc biết chắc chắn là đã viết 2009: 23). Thi hào Tagore của Kiều tại Cần Thơ nhƣng lên Sài Gòn, năm Thanh Quế quả là một đóng góp đáng 1943 ông mới cho xuất bản. ghi nhận trong lịch sử nghiên cứu, phê Ân tình với ngƣời Cần Thơ rất sâu bình, khảo cứu lúc bấy giờ, nhất là đậm. Tác phẩm Thi hào Tagore đƣợc trên vùng đất Nam Bộ, nơi chƣa có đủ ký tên Nguyễn Văn Hai. Đƣợc biết là thời gian để làm nên bề dày văn hóa, tên con trai của vị ân nhân đã cƣu truyền thống văn học. Nơi từng bị coi mang tác giả trong thời gian sống là không có đƣợc “hoàn cảnh thuận cảnh cá chậu chim lồng (Tây Đô cát sĩ lợi cho sự phát triển của văn học, nhất Nguyễn Văn Kiết). Nguyễn Văn Hai là văn học quốc gia”, “sự trồng trọt thi cũng là ngƣời giúp Kiều Thanh Quế văn ở đây chƣa có truyền thống sâu rất nhiều trong việc dịch các tài liệu về xa, nên kém tiềm lực, kém khả năng” Tagore. Đây có thể coi là món quà tri (Phạm Thế Ngũ, 1965: 85). ân vô giá dành cho ngƣời nghĩa. Bởi Cần Thơ lƣu giữ bƣớc chân Kiều Thi hào Tagore đã đƣợc Kiều Thanh Thanh Quế không quá lâu. Ông bị đƣa Quế dụng công nghiên cứu. Những về đây từ năm 1940. Đến cuối năm dòng chữ đƣợc tuôn ra từ trái tim tràn 1942, đƣợc miễn quản thúc, ông lên đầy tình cảm yêu thƣơng, mến mộ Sài Gòn. Cần Thơ đã tạo cơ hội tốt để
  6. 28 HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ… ông ấp ủ nhiều ý tƣởng, dõi theo từng “tâm hồn” bình thƣờng, mà là tâm hồn bƣớc đi của văn học nƣớc nhà. Cần lớn. Tâm hồn của nhà phê bình tài Thơ đã có “duyên”, đƣợc che chở bảo năng nhiều tâm huyết của ngƣời trí bọc ngƣời tài. Và Kiều Thanh Quế lại thức yêu nƣớc chân chính. có “tình” nên mãi vƣơng vấn về Cần 2.2. Tâm và tài của Kiều Thanh Quế Thơ. Ngoài trƣờng hợp Thi hào qua những công trình đƣợc xuất Tagore, khi cho xuất bản Học thuyết bản lúc tác giả ở Cần Thơ Freud, nhà xuất bản Tân Việt Hà Nội, Nhƣ đã trình bày ở phần trên, căn cứ năm 1943, lại một lần nữa ông bày tỏ vào nguồn tƣ liệu đƣợc sƣu tầm và tình cảm với Cần Thơ. Dòng cuối của giới thiệu trong quyển Cuộc tiến hóa quyển sách, ông có ghi: “Can Tho- văn học Việt Nam do Nguyễn Hữu BaRia”. Chỉ là mấy từ ngắn ngủi thôi Sơn, Phan Mạnh Hùng biên soạn nhƣng nó chứa đựng bao điều sâu xa. (Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản Cần Thơ đƣợc đặt ngang với Bà Rịa năm 2009), bên cạnh sự ra đời của là nơi chôn nhau cắt rốn của ông. Dấu Thi hào Tagore, các chuyên khảo gạch nối đầy ý nghĩa nhƣ muốn thay khác nhƣ: Ba mươi năm văn học lời Kiều Thanh Quế cảm ơn Cần Thơ, (1941), Phê bình văn học (1942) cũng tri ân Cần Thơ. Không “sinh” nhƣng đƣợc xuất bản trong khoảng thời gian Cần Thơ đã “dƣỡng” cả thể xác và Kiều Thanh Quế ở Cần Thơ. Có thể, tâm hồn con ngƣời yêu nƣớc, nặng những tác phẩm nói trên đã đƣợc viết tình với văn chƣơng. “Nƣớc trong” từ trƣớc đó nhƣng đến thời gian này của Cần Thơ đã làm trôi đi mọi bức mới đƣợc xuất bản. Dù thế nào đi bối do kẻ thù mang đến, đƣa ông về chăng nữa, thành tựu kể trên đã đến với niềm đam mê hoạt động học thuật. với Kiều Thanh Quế lúc đang ở Cần “Gạo trắng” Cần Thơ tiếp sức cho Thơ. Chắc chắn, kết quả ấy đã tạo khát vọng đóng góp vì sự nghiệp văn nên những dấu ấn kỷ niệm khó phai học nƣớc nhà. Ân tình ấy Kiều Thanh trong ông, lúc sinh thời, khi nhớ về Quế không thể nào quên! Lấy tên một Cần Thơ. Chúng tôi không xem đây là ngƣời Cần Thơ để ký khi viết Thi hào công trình đƣợc ra đời khi Kiều Thanh Tagore chỉ là trả ân ngƣời nghĩa. Quế ở Cần Thơ. Chỉ muốn nhắc đến Ghép chung hai địa danh Cantho- những thành tựu mà Kiều Thanh Quế Baria thành một dòng mới là khắc sâu đón nhận đƣợc trong những ngày bị ân tình với vùng đất, đã từng cƣu quản thúc, để nhân đó, bàn đến tâm mang ông lúc hoạn nạn, tiếp nguồn và tài của ông. Sáng tác trƣớc, trong cảm hứng ông trong cảnh nguy nan. hay sau khi rời khỏi Cần Thơ không Đúng nhƣ điều mà Chế Lan Viên đã phải là yếu tố quan trọng làm nên tâm, chiêm nghiệm: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất tài của Kiều Thanh Quế. Bởi cái tâm, ở. Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Với cái tài đƣợc thể hiện xuyên suốt trong Kiều Thanh Quế, không chỉ là một mọi công trình của tác giả. Vì thế,
  7. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 29 chọn một vài công trình tiêu biểu, có nên chất tài hoa cho ngƣời cầm bút. những liên hệ với thời gian và không Nhƣng chính cái tâm mới xui khiến gian đặc biệt, những ngày tháng sống đƣợc lòng nhiệt thành, cống hiến hết tại Cần Thơ, để cảm nhận đóng góp mình cho sự nghiệp chung. Kiều quý báu của Kiều Thanh Quế là Thanh Quế đọc rất nhiều sách, báo. chuyện khả dĩ. Mặt khác, việc làm này Từ thơ đến văn xuôi; từ văn chƣơng còn góp phần khơi rõ hơn dấu ấn Cần nghệ thuật đến báo chí, biên khảo; từ Thơ trên những công trình nghiên cứu tác phẩm văn học Việt Nam đến văn văn học của Kiều Thanh Quế. học Trung Quốc, văn học của nhiều Duyên, tình với đất Cần Thơ, qua hai nƣớc phƣơng Tây, đặc biệt là văn học trƣờng hợp trình bày trong mục trên Pháp. Dƣờng nhƣ ông không muốn đã đủ để ghi nhận. Một lần nữa, có bỏ qua một tiếng động nhẹ nào trong thể khẳng định rằng: đất và ngƣời từng bƣớc đi của văn học nƣớc nhà. Cần Thơ đã trực tiếp hoặc gián tiếp Không chỉ đọc mà Kiều Thanh Quế hỗ trợ Kiều Thanh Quế giữ đƣợc ngọn còn có đƣợc những cảm nhận tinh tế, lửa đam mê nghiên cứu không bị gián những đánh giá khá xác thực. Cái tâm đoạn. Cho nên, dù ở trong Nam xa xôi, của ông là cái tâm của nhà phê bình có nhiều trở ngại, Kiều Thanh Quế không chỉ say mê mà còn có trách vẫn cộng tác đắc lực cho báo Tri Tân nhiệm lớn với nền văn học dân tộc. (ông bắt đầu tham gia báo Tri Tân từ Với ý thức trách nhiệm, ông mong số 23, ngày 14/11/1941), có thêm muốn lƣu giữ những thông tin để đời nhiều bài nghiên cứu, phê bình, góp sau có cơ sở nghiên cứu văn học sử. tiếng nói thể hiện quan điểm, tƣ tƣởng, Ông đã bỏ nhiều công sức để làm một cách cảm nhận về văn học nƣớc nhà cuộc “tính sổ văn học”, cho ra đời Ba và văn học của nhiều nƣớc khác. mươi năm văn học, vì nghĩ rằng “sẽ Muốn hiểu nỗi lòng ngƣời nghệ sĩ khó khăn biết bao nhiêu sau này cho sáng tác hãy đi vào thế giới ngôn từ, nhà văn học sử, nếu ông ta muốn tìm thế giới hình tƣợng trong tác phẩm. mà không ra một bản thống kê văn Muốn biết rõ tâm tình nhà phê bình học quốc ngữ trong vòng ba mƣơi hãy bắt đầu từ những trang văn của năm nay” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - họ. Cũng nhƣ ngƣời sáng tác, nhà Phan Mạnh Hùng, 2009: 174). Kiều phê bình chân chính khi cầm bút, ắt Thanh Quế cũng quan niệm cái tâm không khỏi ký ngụ tâm chí, hoài bão, của ngƣời cầm bút là rất quan trọng. ƣớc mơ. Kiều Thanh Quế là nhà phê Không chỉ đối với nhà phê bình, mà cả bình nhƣ thế. Những công trình ở ngƣời sáng tác. Theo ông, “không nghiên cứu của ông thể hiện niềm say có văn tâm thời không thể nào làm mê văn chƣơng, say mê nghiên cứu, đƣợc một bài đoản thiên tiểu thuyết tìm tòi, nhạy bén với mọi biến thiên đúng điệu và hay đƣợc, dẫu cho của văn học. Niềm say mê có thể làm chuyện có hay đi mấy cũng mặc” (dẫn
  8. 30 HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ… theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Đối với những ngƣời nhạy cảm, biết Hùng, 2009: 216). Chính vì thế, ông yêu cái đẹp trong cuộc sống, có niềm dành cả một phần đầu của chuyên đam mê cống hiến, chỉ cần một tiếng luận Phê bình văn học để bàn về “văn thở nhẹ của cuộc đời cũng đủ làm bật tâm”. Văn tâm mà Kiều Thanh Quế dậy nguồn cảm hứng trào dâng. Với muốn nhấn mạnh ở đây, xét cho cùng, Kiều Thanh Quế, một nhà nghiên cứu, chính là trách nhiệm lớn lao của phê bình văn học rất có tâm, thì chỉ ngƣời cầm bút đối với công việc mình một bƣớc khẽ trong chuyển động của đang làm. Vì thế, ngƣời cầm bút cần văn học cũng làm ông chú ý, quan có đủ “văn tâm, văn học và văn tài”. tâm, trăn trở. Để rồi nhanh chóng trở thành bao đề tài thiết thực cho những Kiều Thanh Quế còn mong muốn công trình nghiên cứu đáng ghi nhận. những cống hiến của các nhà văn Vì lẽ đó, chúng ta không khó lý giải tại đƣợc đánh giá đúng mực, công bằng. sao trong một thời gian ngắn, sống Ông đặt kỳ vọng ở những nhà phê với cảnh bị quản thúc, xa quê nhà, đối bình chân chính, mong mỏi họ sẽ là mặt với nhiều khó khăn, Kiều Thanh ngƣời có đủ tài, lực, tâm huyết để đƣa Quế vẫn có thể viết thật nhiều, khai các nhân tài bị lãng quên hay bị vùi thác thật nhiều vấn đề của văn học lấp trong định kiến, thoát ra khỏi bóng đƣơng thời và trƣớc đó. tối, giúp họ khẳng định đƣợc đóng góp vốn có. Tấm lòng của ông luôn Kiều Thanh Quế còn luôn ƣớc ao hƣớng về sự thịnh vƣợng của nền sách bằng chữ quốc ngữ phổ biến, để văn học Việt Nam. Vì thế, theo Kiều tất cả ngƣời Việt đều có thể đọc đƣợc. Thanh Quế, nhà phê bình phải giữ vai Ông cũng mong muốn văn học dịch trò hƣớng đạo viên, là chất xúc tác phát triển để tinh hoa văn học nƣớc mạnh mẽ, khích lệ ngƣời sáng tác. ngoài đến với ngƣời Việt sâu rộng Cốt sao cho nền văn học nƣớc nhà có hơn, văn học Việt Nam phát triển nhiều viên ngọc lấp lánh. mạnh hơn. Ông tin tƣởng: “Nƣớc ta Là ngƣời chân tâm với văn học, Kiều sau này hay dở thế nào đều nhờ ở Thanh Quế rất lo lắng trƣớc bao biểu sách dịch, và sự phiên dịch nó là nòng hiện xấu, có thể làm cản trở sự phát cốt khả dĩ đƣa văn học quốc ngữ đến triển chung của văn học Việt Nam. cõi hoàn mỹ” (dẫn theo Nguyễn Hữu Ông ái ngại trƣớc “cái lối văn chƣơng Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 207). rƣờm rà mà trống rỗng đang nhiễu hại Phê bình cũng là một hoạt động tiếp xứ này” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - nhận. Kiều Thanh Quế là nhà phê Phan Mạnh Hùng, 2009: 213). Ông bình có cách tiếp nhận vừa tinh tế, băn khoăn, trăn trở vì “cái thói nhân vừa khách quan. Ông luôn xem xét tuần nó nhiễu hại dƣờng kia” (dẫn vấn đề của văn học trong hoàn cảnh theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh nó ra đời và cũng biết đứng trên quan Hùng, 2009: 214). điểm thời đại với một thái độ trung
  9. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 31 hòa, để đánh giá sao cho công bằng. chí Trung Kỳ: “Thật là buồn!” (dẫn Ông cho rằng: “quan niệm về đẹp, về theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh nghệ thuật, tùy mỗi thời đại, mỗi xã Hùng, 2009: 179). Không riêng gì thời hội, mỗi cái khác nhau” (dẫn theo gian ở Cần Thơ, mà cả cuộc đời ngắn Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, ngủi gắn bó với sự nghiệp nghiên cứu, 2009: 213). Có lẽ nhờ thế và cùng với phê bình văn học, Kiều Thanh Quế đã cái tâm thiện, Kiều Thanh Quế thƣờng vui, buồn, sƣớng, khổ cùng với những có cách phê bình rất ôn hòa, khách thăng trầm của văn học nƣớc nhà. quan. Bao giờ ông cũng có khen chê Tâm hồn ông nhƣ hòa nhập vào số rạch ròi, đúng mực. Hiếm thấy hiện phận chung của văn học nƣớc nhà. tƣợng hạ bệ, chỉ trích nặng nề hay đả Nguyễn Du từng cho rằng “chữ tâm phá cay nghiệt nhƣ một số nhà phê kia mới bằng ba chữ tài”, nhƣng phải bình khác từng làm. Bởi thâm tâm ông có tài, tâm mới thỏa. Kiều Thanh Quế luôn hƣớng vào mục đích cuối cùng là vừa có tâm lại có tài. Cái tài của nhà nghiên cứu, phê bình để đƣa nền văn phê bình không từng “học nghề” học Việt Nam đến sự phát triển một nhƣng lại rất chuyên nghiệp. Ở vào cách hoàn mỹ. Đôi khi, ông cũng cái thời mà hoạt động phê bình còn buông lời trách móc: “Tự lực văn hết sức non trẻ, Nam Bộ lại là nơi đoàn mỗi năm có phát giải thƣởng hiếm hoi ngƣời đặt chân vào địa hạt văn chƣơng khuyến khích nhân tài. vừa mới mẻ, vừa phức tạp này, Kiều Nhƣng rất tiếc giải thƣởng Tự lực Thanh Quế đã rất vững bƣớc trên văn đoàn chỉ là một giải tặng ròng hành trình gian nan, nhiều thách thức, cho các loại tiểu thuyết, phóng sự, chính là nhờ vào tài năng nhƣ là thiên thơ ca, kịch bản, chớ chẳng hề có bẩm. Ông nhƣ một tay lái tài hoa, nắm tặng cho một tập văn nghị luận, khảo vững quy luật sông nƣớc, biết rõ cách cứu phê bình nào! Phạm vi một giải chèo chống. Cho nên dù có phong ba, thƣởng văn chƣơng mà chật hẹp nhƣ vẫn đƣa thuyền băng băng lƣớt sóng, thế, thật đáng phiền hà lắm” (dẫn theo chẳng hề biết sợ gì cả. Các công trình Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, nghiên cứu của Kiều Thanh Quế đã 2009: 178). Cũng có lần, xuất phát từ chứng minh ông là một nhà phê bình sự lo lắng cho cái chung, Kiều Thanh có kiến thức uyên bác. Ông nắm rõ Quế không kiềm nén đƣợc cảm xúc, văn học trong và ngoài nƣớc. Để trở nên cay cú, bực dọc: “trình độ thấp nghiên cứu thành công văn học, Kiều kém của độc giả nƣớc ta đã giết chết Thanh Quế còn ý thức trau dồi kiến bao nhiêu tạp chí, tuần báo giá trị rồi?” thức của nhiều lĩnh vực khác. Nhờ thế, (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan ông rất am hiểu lịch sử, địa lý, văn Mạnh Hùng, 2009: 179). Con ngƣời hóa. Đặc biệt, Kiều Thanh Quế có nặng tình với văn chƣơng và trách trình độ ngoại ngữ đáng ngƣỡng mộ. nhiệm lớn với văn hóa dân tộc ấy, lắm Ông đã vận dụng tài tình vốn ngoại lúc phải xót xa trƣớc thất bại của báo ngữ vào việc nghiên cứu, phê bình.
  10. 32 HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ… Nhất là với công trình Thi hào Tagore. Quế thƣờng rất ngắn nhƣng không vì Ông có kỹ năng đọc sách rất tốt. Sự thế mà thiếu ý. Giọng văn đặc sệt thông minh, nhạy bén giúp ông đọc Nam Bộ nhƣng không có vẻ quê mùa, nhanh nên tiếp cận rất nhiều sách lƣợm thƣợm nhƣ một số tác giả cùng Đông Tây, thâu tóm đúng những gì thời. Kiều Thanh Quế thích dùng từ cần thiết để đem ra bàn. Hán Việt vì thế câu văn tự nhiên mà Dù chƣa qua trƣờng lớp đào tạo, vẫn trang trọng, mực thƣớc. Trong chƣa đƣợc trang bị một cách bài bản diễn đạt, ông có những liên tƣởng về phƣơng pháp nghiên cứu khoa học sinh động. Bàn về cách kết cấu trong nhƣng các công trình nghiên cứu của đoản thiên tiểu thuyết, để nhấn mạnh Kiều Thanh Quế đã thể hiện tính khoa tính chặt chẽ của nó, ông đã có một học khá cao. Các bài báo của Kiều liên tƣởng khá thú vị: “Đoản thiên tiểu Thanh Quế thƣờng ngắn gọn, đi thẳng thuyết trọng nhất ở chỗ kết cấu. Nếu vào vấn đề muốn nói, không biện giải kết cấu làm sao khi đọc dứt bài rồi ngƣời ta mới thấy manh mối đầu đuôi dài dòng nhƣng vẫn cung cấp đủ và chừng ấy manh mối đầu đuôi mới lƣợng thông tin cho ngƣời đọc tiếp càng ngày càng tỏ rõ thêm mãi, thời là nhận đúng vấn đề. Công trình Ba một bài đoản thiên tiểu thuyết hay. mươi năm văn học dù đƣợc hoàn Làm sao cho ngƣời đọc càng nhớ trở thành vào buổi bình minh của văn học lại câu chuyện, càng thấy mỗi câu mỗi quốc ngữ, công việc biên soạn văn lời, có ý nghĩa thâm trầm thấm thía học sử chƣa có nhiều thành tựu, Kiều hơn hồi đƣơng đọc; càng thấy mỗi Thanh Quế vẫn có đƣợc cách trình câu mỗi lời ở đúng vào chỗ của nó, bày khoa học, rõ ràng, theo một quan càng thấy rút ra câu nào, lời nào, thời điểm riêng, phác họa gƣơng mặt mới bài không còn vững nữa, cũng nhƣ của văn học Việt Nam qua từng thể trong một cái khung cửa vòng nguyệt loại. Cách làm này, giúp ngƣời đời xây bằng gạch không rút đƣợc viên sau có thể nhận diện sự thịnh vƣợng nào ra mà không làm sập khung cửa hoặc chậm tiến của từng thể loại. vậy” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Đồng thời, hình dung đƣợc tính đa Phan Mạnh Hùng, 2009: 216). Ngƣời dạng, phong phú của văn học quốc đọc thời nay, tiếp nhận trang văn của ngữ trong buổi đầu mới hình thành. Kiều Thanh Quế không cảm thấy quá Lập luận của Kiều Thanh Quế trong xa cách, chuyện nói ở thế kỷ trƣớc mà phê bình rất súc tích và chắc, mà cứ ngỡ nhƣ mới đây. cũng rất sinh động, dẫn dắt ngƣời đọc Ngƣời Việt có câu tục ngữ rất hay: đi vào sự chú ý, cuốn hút theo dõi đến “Ngọc lành hay có tỳ vết”, ở đời không cùng. Văn phê bình của Kiều Thanh có gì là toàn vẹn cả! Thậm chí ngƣời Quế gãy gọn, mộc mạc, chân tình. tài còn dễ lắm tật. Kiều Thanh Quế Một nét đặc biệt là đoạn văn trong bài không lắm tật nhƣ thói thƣờng của báo hay chuyên khảo của Kiều Thanh ngƣời đời. Và các công trình nghiên
  11. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 33 cứu, phê bình của ông không sao Mạnh Hùng, 2009: 209). Một điều thật tránh khỏi những hạn chế. Đọc tác đáng tiếc, Kiều Thanh Quế còn giữ phẩm của Kiều Thanh Quế, ta nhƣ khoảng cách khá xa với công chúng. đang ăn một bát cơm gạo mới thơm Ông xem họ là những ngƣời ít học, lừng, bất chợt chạm phải vài hạt sạn li kém hiểu biết, trình độ thấp. Không ít ti, khiến ta ngậm ngùi tiếc nuối. Ngoài lần, trong các bài viết của mình, Kiều cái văn phong “còn khá luộm thuộm, Thanh Quế cho rằng: “trình độ độc giả cũ kỹ” (Nguyễn Thị Thanh Xuân 2004: lúc bấy giờ thấp kém lắm” (dẫn theo 358), ông còn có những quan niệm, Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, kiến giải chƣa chuẩn xác, thể hiện sự 2009: 208). Và chính “trình độ thấp chủ quan nhất định. Trong Ba mươi kém của độc giả nƣớc ta đã giết chết năm văn học, Kiều Thanh Quế chọn bao nhiêu tạp chí, tuần báo giá trị” mốc thời gian năm 1914 - 1941 để (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan tính sổ ba mƣơi năm của văn học Mạnh Hùng, 2009: 179). quốc ngữ trong buổi đầu là thiếu hợp Văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ là bộ lý, không dựa trên một cơ sở nào phận đi tiên phong trong quá trình mang tính thuyết phục. Do vậy, công hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nhiều trình nghiên cứu, giới thiệu của ông cây bút tiểu thuyết, truyện ngắn ở chƣa thể khái quát đƣợc đặc trƣng Nam Bộ đã làm nên thành tựu xuất của văn học quốc ngữ trong chặng sắc trong giai đoạn mở đƣờng của đƣờng đầu. văn học quốc ngữ. Thế mà, dƣờng Là một cây bút tiêu biểu nhất của Nam nhƣ chƣa đƣợc Kiều Thanh Quế đánh Bộ thời bấy giờ, sinh ra, lớn lên và giá cao và ghi nhận đúng mực. Nhất viết văn trên vùng đất này nhƣng Kiều là vai trò đi tiên phong của văn xuôi Thanh Quế tỏ ra chƣa tin tƣởng nhiều quốc ngữ Nam Bộ. Khi đề cập đến vào văn học và các sinh hoạt văn hóa những tác phẩm tiểu thuyết quốc ngữ của Nam Bộ. Ông cộng tác đắc lực trong thời kỳ đầu, ông chỉ bàn đến Tố cho báo Tri Tân ở Hà Nội. Trong khi, Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Kiều báo chí Nam Bộ thời đó phát triển rất Thanh Quế nhấn mạnh: “Tiểu thuyết mạnh. Ở bài phụ lục “Chuyện buồn quốc ngữ bắt đầu thạnh hành từ năm cười ở làng báo Nam Kỳ ngày xưa”, 1924, phát đạt vào năm 1932” và Kiều Thanh Quế tích cực khai thác “1924: Tố Tâm ra đời” (Dẫn theo mặt trái của giới báo chí Nam Bộ. Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, Trong cái nhìn của ông, họ rất thực 2009: 186). Thực tế, trƣớc đó, từ năm dụng, thiếu tƣ cách của ngƣời làm 1910, Nam Bộ đã xuất hiện hàng loạt văn hóa: “hết công kích vị chủ bút nầy, tiểu thuyết, đánh dấu giai đoạn thịnh lại chỉ trích ông đầu bút kia”, đến mức hành của tiểu thuyết quốc ngữ, nhƣ: “phong trào cãi lộn ở làng báo Nam Hoàng Tố Anh hàm oan (1910) của Kỳ bấy giờ ngày một thêm kịch liệt” Trần Thiên Trung, Ai làm được (1912) (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan của Hồ Biểu Chánh, Hà Hương phong
  12. 34 HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ… nguyệt (1912) của Lê Hoằng Mƣu, Kiều Thanh Quế đã sớm về với đất Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo mẹ. Sự ra đi của ông là niềm tiếc nuối tặc (1917) của Biến Ngũ Nhy, Nghĩa lớn lao. Với tài năng ấy, tâm chí ấy lẽ hiệp kỳ duyên (1920) của Nguyễn ra nền phê bình, nghiên cứu văn học Chánh Sắt… Việt Nam còn đƣợc đón nhận nhiều Ông chủ trƣơng phát triển văn học công trình xuất sắc hơn nữa. Mặc dù dịch, đề cao các thành tựu văn học thời gian cống hiến quá ngắn ngủi nƣớc ngoài, nhằm hƣớng đến kích nhƣng Kiều Thanh Quế đã cung cấp thích sự phát triển văn học nƣớc nhà. cho những ngƣời nghiên cứu về sau Đó là tấm lòng đáng ghi nhận ở Kiều một nguồn tƣ liệu văn học sử vô cùng Thanh Quế. Tuy nhiên, đôi khi ông quý giá. Giới nghiên cứu học đƣợc ở quá đề cao nƣớc ngƣời, lại có phần ông rất nhiều, về phƣơng pháp, cách tự ti về nƣớc mình: “tủ sách dịch của lập luận, cũng nhƣ cách cấu trúc cho văn học quốc ngữ hãy còn kém tủ một bài phê bình. Đặc biệt, phong sách dịch ở các nƣớc lân bang nhiều cách phê bình mạnh dạn, dứt khoát, lắm – nhƣ ở Tàu và Nhật chẳng hạn” thẳng thắn mà ân cần, thành thật và (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan chân tình của ông luôn tạo đƣợc ấn Mạnh Hùng, 2009: 204). tƣợng đẹp trong lòng ngƣời đọc. Những gì Kiều Thanh Quế đã làm Tuy nhiên, những hạn chế nói trên đƣợc hôm qua, ngày nay các thế hệ không hề làm lu mờ đóng góp đáng tiếp nối đang ghi nhận. Đặt trong bối trân trọng của Kiều Thanh Quế đối với cảnh nửa đầu thế kỷ XX, những công sự nghiệp nghiên cứu, phê bình và trình của Kiều Thanh Quế rất đáng khảo cứu văn học. Chỉ là một chút tiếc ngƣỡng mộ, tôn vinh. Ông xứng đáng nuối! Cái tâm, cái tài của Kiều Thanh là niềm tự hào của văn học Nam Bộ. Quế vẫn luôn ngời sáng trong lịch sử Trong đó, đất và ngƣời Cần Thơ đã văn học nƣớc nhà. đóng góp ít nhiều cho sự phát triển 3. KẾT LUẬN văn tài Kiều Thanh Quế.  TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Hoài Anh. 2001. Kiều Thanh Quế - nhà phê bình văn học hiếm có của Nam Bộ, in trong Chân dung văn học. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn. 2. Bằng Giang. 1974. Mảnh vụn văn học sử. Sài Gòn: Nxb. Chân Lƣu. 2. Phạm Thế Ngũ. 1965. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Sài Gòn: Nxb. Quốc học Tùng thƣ. 3. Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng. 2009. Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam - Tuyển tập khảo cứu phê bình. Hà Nội: Nxb. Thanh niên. 4. Nguyễn Thị Thanh Xuân. 2004. Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. TPHCM. Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM.
nguon tai.lieu . vn