Xem mẫu

  1. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG TRONG KIỂM TOÁN – NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM AN INVESTIGATION OF THE AUDIT EXPECTATION GAP IN VIETNAM ThS. Nguyễn Thu Hoài Trường Đại học Thương mại nguyenhoai@tmu.edu.vn Tóm tắt Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán đã được nghiên cứu ở nhiều quốc gia với các định nghĩa, cấu trúc, thành phần và các nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Mục đích của bài viết này là chứng minh sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán giữa kiểm toán viên và người sử dụng báo cáo tài chính tại Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong nghiên cứu này tương tự như phương pháp của Best và cộng sự (2001), Dixon và cộng sự (2006). Kết quả nghiên cứu đã cho thấy bằng chứng về sự tồn tại khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán tại Việt Nam liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc phát hiện và ngăn chặn gian lận, xét đoán của kiểm toán viên trong lựa chọn thủ tục kiểm toán, độ tin cậy của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính được kiểm toán, mức độ hữu ích của báo cáo kiểm toán. Bài viết này đóng góp vào sự hiểu biết về bản chất phức tạp của khoảng cách kỳ vọng bằng cách xem xét sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng trong bối cảnh kinh tế và văn hóa của Việt Nam. Từ khóa: khoảng cách kỳ vọng, kiểm toán, kiểm toán độc lập Abstract The Audit Expectation Gap (AEG) has been investigated in many countries through differ- ent definitions as well as the various expressions of the structure, boundaries of each component, and its associated influencing factors. The purpose of this paper is to investigate the existence of an audit expectation gap between auditors and financial statement users in Vietnam. The re- search method adopted in this study is identical to that used by Best et al (2001), Dixon et al (2006). The results found evidence of audit expectation gap in Vietnam in the areas of auditor responsibilities for fraud prevention, auditor judgment in the selection of audit procedures, the reliability of audit and audited financial statements and the usefulness of audit. This paper con- tributes to the understanding of the diverse nature of the expectation gap by examining the dif- ferent economic and cultural setting of Vietnam. Keywords: audit expectation gap, audit, independence audit. 1. Giới thiệu Kiểm toán độc lập từ lâu đã gắn liền với vai trò bảo đảm độ tin cậy của thông tin trên báo cáo tài chính được phát hành. Tuy nhiên, người sử dụng thông tin lại có những kỳ vọng khác 1086
  2. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 nhau về mức độ đảm bảo mà kiểm toán viên độc lập cung cấp. Trong thực tế, một số người sử dụng báo cáo tài chính cho rằng kiểm toán viên cung cấp một sự đảm bảo “tuyệt đối”, chính vì vậy họ yêu cầu kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với sự đảm bảo này. Kỳ vọng này của người sử dụng thông tin một phần xuất phát từ lịch sử hình thành phát triển của kiểm toán. Trong giai đoạn phát triển ban đầu, kiểm toán cung cấp sự đảm bảo gần như tuyệt đối đối với các gian lận (Epstein và Geiger, 1994). Sau này, mặc dù nghề nghiệp kiểm toán đã có sự chuyển đổi từ vai trò phát hiện gian lận bằng cách kiểm tra toàn bộ nghiệp vụ và số dư sang vai trò đưa ra sự xác minh về mức độ trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính, nhận thức của người sử dụng thông tin vẫn không thay đổi. Đây cũng là một trong những yếu tố tạo ra khoảng cách kỳ vọng giữa kiểm toán viên và người sử dụng thông tin về chức năng của kiểm toán. Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán không phải là một vấn đề mới nhưng khoảng cách này đang có xu hướng trở thành một trong những yếu tố gây thiệt hại không nhỏ cho nghề nghiệp kiểm toán. Sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng có ảnh hưởng rất lớn tới niềm tin của công chúng đối với nghề nghiệp kiểm toán cũng như gây ra những vụ kiện tụng kéo dài giữa người sử dụng thông tin với kiểm toán viên. Porter và cộng sự (2005) đã cho rằng khi độ tin cậy, uy tín của nghề nghiệp kiểm toán bị suy giảm đến một mức độ nào đó, vai trò của nghề nghiệp này sẽ trở thành vô dụng. Các nghiên cứu liên quan tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán có một lịch sử lâu dài với rất nhiều tài liệu khám phá khái niệm này từ khoảng năm 1960 cùng với các góc độ tiếp cận, quan điểm nghiên cứu khác nhau. Như Beattie (1998) nhấn mạnh rằng nhận thức về tính độc lập của kiểm toán viên là một thành phần cơ bản của khoảng cách kỳ vọng. Trong khi đó, Humphrey và cộng sự (1992) lại cho rằng khoảng cách kỳ vọng gồm 4 phần cơ bản: (1) trách nhiệm của kiểm toán viên, (2) chất lượng kiểm toán, (3) cấu trúc và quy định của kiểm toán, (4) bản chất và ý nghĩa của thông điệp truyền tải qua báo cáo kiểm toán. Ngoài ra, khoảng cách kỳ vọng cũng có một cấu trúc khá phức tạp. Theo Porter và Gowthrope (2004), khoảng cách kỳ vọng bao gồm khoảng cách hợp lý và khoảng cách thực tế, trong đó khoảng cách thực tế bao gồm khoảng cách thiếu hụt chuẩn mực và khoảng cách thiếu hụt chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên, cho dù tiếp cận khoảng cách kỳ vọng từ nhiều góc độ khác nhau, kết quả của tất cả các nghiên cứu đều cho thấy sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng trong thực tế. Điều quan trọng là phải hiểu được khu vực nào người sử dụng thông tin đang kỳ vọng cao nhất để có thể đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm thu hẹp khoảng cách này. Chính vì vậy, mục tiêu chính của nghiên cứu này là nhằm kiểm tra sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán giữa kiểm toán viên và người sử dụng báo cáo tài chính tại Việt Nam. Những phát hiện của nghiên cứu sẽ được so sánh với bằng chứng về khoảng cách kỳ vọng trong các nghiên cứu của Best và cộng sự (2001), Fadzly và Ahmed (2004), Dixon và cộng sự (2006). 2. Tổng quan nghiên cứu Khái niệm khoảng cách kỳ vọng đã được một số nhà nghiên cứu đưa ra như Liggio (1974), Ủy ban Cohen (1978), Humphrey (1992), Porter (1993), McEnroe và Martens (2001)… Trong số các định nghĩa của khoảng cách kỳ vọng, định nghĩa của Porter (1993) được đánh giá là phổ biến nhất và được trích dẫn nhiều nhất trong các nghiên cứu có liên quan. Theo Porter (1993), 1087
  3. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 khoảng cách kỳ vọng là sự khác biệt giữa kỳ vọng của xã hội đối với kiểm toán viên và kết quả công việc kiểm toán theo nhận thức của họ. Porter (1993) xác định hai thành phần chính của khoảng cách kỳ vọng bao gồm khoảng cách hợp lý và khoảng cách thực tế. Trong đó: (1) Khoảng cách hợp lý: là sự khác biệt giữa những gì xã hội mong đợi kiểm toán viên đạt được và những gì mà kiểm toán viên có thể đạt được một cách hợp lý. (2) Khoảng cách thực tế: là khoảng cách giữa những gì mà xã hội có thể kỳ vọng một cách hợp lý mà kiểm toán viên có thể đạt được và những gì mà họ nhận thức về kết quả công việc của kiểm toán viên trong thực tế. Trong khi đó, Humphrey (1992) lại cho rằng khoảng cách kỳ vọng là khoảng cách giữa những gì công chúng và người sử dụng báo cáo tài chính tin là thuộc về trách nhiệm kiểm toán viên và những gì kiểm toán viên tin là thuộc về trách nhiệm của mình. Hay McEnroe và Martens (2001) đưa ra khái niệm khoảng cách kỳ vọng là sự khác biệt giữa những gì mà công chúng và người sử dụng báo cáo tài chính nhận thức về trách nhiệm của kiểm toán viên và những gì mà kiểm toán viên tin rằng đó là trách nhiệm của họ. Trên cơ sở xem xét những định nghĩa khác nhau về khoảng cách kỳ vọng, do mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá sự tồn tại của khoảng cách này tại Việt Nam giữa kiểm toán viên và người sử dụng báo cáo tài chính, nghiên cứu dựa vào khái niệm khoảng cách kỳ vọng của Porter (1993) và được coi là thuộc về thành phần khoảng cách hợp lý theo quan điểm này. Trong số các nghiên cứu thực nghiệm, các nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng liên quan đến trách nhiệm kiểm toán viên là nổi bật hơn cả với số lượng các nghiên cứu rất lớn. McEnroe và Martens (2001) cho thấy người sử dụng thông tin vẫn cho rằng kiểm toán viên chịu trách nhiệm đảm bảo ngăn ngừa và phát hiện gian lận. Humphrey (1992) cũng lưu ý rằng trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến gian lận là một vấn đề đáng quan tâm trong khoảng cách kỳ vọng, vì rõ ràng công chúng có xu hướng kỳ vọng quá mức đối với kiểm toán viên. Tương tự, Koh và Woo (2001) đánh giá khoảng cách kỳ vọng giữa kiểm toán viên và nhà quản lý đơn vị được kiểm toán, nghiên cứu dã cho thấy khoảng cách đáng kể giữa ban giám đốc và kiểm toán viên liên quan đến trách nhiệm ngăn ngừa và phát hiện gian lận, các hành vi bất hợp pháp. Bên cạnh đó, các nghiên cứu liên quan đến báo cáo kiểm toán cũng rất đa dạng, phong phú. Trong khi một số nghiên cứu đề cập tới thông điệp được truyền tải qua báo cáo kiểm toán, một số nghiên cứu khác xem xét về mức độ hữu ích mà báo cáo này mang lại cho người sử dụng thông tin. Bailey và cộng sự (1983) đã đánh giá nhận thức của người sử dụng thông tin về các từ ngữ được sử dụng trong báo cáo. Kết quả nghiên cứu cho thấy những thay đổi về cách sử dụng từ đã tạo ra sự khác biệt đáng kể trong nhận thức của người sử dụng về thông tin của báo cáo kiểm toán. Các nghiên cứu của Best và cộng sự (2001), Fadzly và Ahmed (2004) cũng cho thấy tồn tại khoảng cách kỳ vọng liên quan đến mức độ tin cậy và hữu ích của báo cáo kiểm toán đối với quản lý doanh nghiệp. Tại Việt Nam, số lượng các nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng là không nhiều. Nghiên cứu của Vũ Hữu Đức và Võ Thị Minh Nguyệt (2012) đã xem xét sự khác biệt trong nhận thức của người sử dụng thông tin và kiểm toán viên đối với các thuật ngữ sử dụng trong báo cáo kiểm toán và kết quả cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa kiểm toán viên và người sử dụng liên quan đến các thuật ngữ như “trọng yếu”, “đảm bảo hợp lý”. Hay nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Khánh 1088
  4. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Dung (2016) được thực hiện dựa trên phương pháp đo lường khoảng cách kỳ vọng liên quan đến trách nhiệm kiểm toán viên của Porter (1993), kết quả cũng cho thấy tồn tại khoảng cách kỳ vọng cũng như các trách nhiệm cấu thành nên các bộ phận của khoảng cách này tại Việt Nam. Nghiên cứu này sẽ đánh giá khoảng cách kỳ vọng trên các phương diện trách nhiệm kiểm toán viên, mức độ tin cậy và mức độ hữu ích của báo cáo kiểm toán, báo cáo tài chính được kiểm toán nhằm có được cái nhìn bao quát hơn về khoảng cách kỳ vọng tại Việt Nam. 3. Khuôn mẫu lý thuyết về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán 3.1. Lý thuyết xung đột vai trò Lý thuyết xung đột vai trò cung cấp lý giải cho sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng. Lý thuyết được xây dựng dựa trên các giả định kiểm toán viên được yêu cầu giám sát các báo cáo tài chính của khách hàng và công chúng mong đợi kiểm toán viên chuyên tâm với vai trò này (Koo và Sim, 1999). Kiểm toán viên phải đối mặt với các mâu thuẫn về vai trò vì trước hết họ phải tuân thủ các quy định và nguyên tắc nghề nghiệp. Mặt khác, kiểm toán viên phải phục vụ lợi ích của người sử dụng thông tin và chăm sóc lợi ích cho họ và vì vậy, vai trò của kiểm toán viên lại bị chi phối bởi những kỳ vọng khác nhau của các nhóm lợi ích khác nhau. Davidson (1975) cho rằng kỳ vọng của người sử dụng thông tin đối với kiểm toán viên là thay đổi theo thời gian. Koo và Sim (1999) cho rằng xung đột vai trò có thể làm gia tăng khoảng cách tồn tại giữa kiểm toán viên và người sử dụng thông tin. Người sử dụng mong đợi kiểm toán viên phục vụ họ và phát hiện ra tất cả các gian lận trong hoạt động của doanh nghiệp hay đảm bảo hiệu quả của hẹ thống kiểm soát nội bộ, duy trì sổ sách kế toán… trong khi thực tế, kiểm toán viên không thể đáp ứng được tất cả các mong đợi này. 3.2. Lý thuyết phản hồi của người đọc Lý thuyết hồi ứng người đọc dựa trên giả định rằng không một ai đọc hiểu chính xác một văn bản,người đọc được xem như một thông dịch viên tích cực cho nội dung thông điệp trong văn bản đó, và họ có thể suy luận ra nhiều ý nghĩa khác nhau cho văn bản dựa vào tâm lý, suy nghĩ hoặc động cơ của chính họ (Wright, 2012). Scott (1994) cũng cho rằng động cơ, mong muốn và sở thích của người sử dụng thông tin có thể ảnh hưởng tới cách họ giải thích thông điệp truyền tài qua báo cáo kiểm toán. Lý thuyết này cho thấy kiểm toán viên, chủ ngân hàng, và người cho vay có nền tảng khác nhau, do đó, họ có thể nhìn nhận báo cáo kiểm toán khác nhau. Báo cáo kiểm toán có chứa các ngôn ngữ có thẻ gây ra sự hiểu nhầm cho người đọc. Chính vì vậy, lý thuyết này có thể giải thích một trong các lý do của khoảng cách kỳ vọng giữa các bên liên quan và kiểm toán viên liên quan đến thông điệp được truyền tải qua báo cáo kiểm toán. Scott (1994) tin rằng chính nền tảng khác nhau của người sử dụng thông tin đã dẫn đến khoảng cách giao tiếp cơ bản giữa người phát hành và người sử dụng báo cáo kiểm toán, dẫn đến sự hiểu sai và có khả năng là những vụ kiện tụng đối với nghề nghiệp kiểm toán. 3.3. Lý thuyết niềm tin cảm tính Lý thuyết này được phát triển bởi giáo sư người Hà Lan Theodore Limperg. Lý thuyết này đề cập cả nhu cầu kiểm toán lẫn việc cung cấp dịch vụ này. Limperg (1999) cho rằng nhu 1089
  5. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 cầu dịch vụ kiểm toán là hệ quả trực tiếp của sự tham gia của các bên có liên quan bên ngoài vào công ty. Đổi lại với những đóng góp của các cổ đông, họ yêu cầu ban lãnh đạo công ty phải có trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên, thông tin mà ban giám đốc cung cấp có thể bị sai lệch do có sự khác biệt giữa lợi ích của Ban giám đốc và của các bên liên quan bên ngoài nên cần phải kiểm tra mức độ tin cậy của các thông tin này. Limperg (1999) cũng cho rằng công việc kiểm toán nên được thực hiện theo kỳ vọng hợp lý của những bên có liên quan bên ngoài đơn vị được kiểm toán. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này tương tự như phương pháp đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây của Schelluch (1996), Best và cộng sự (2001), Dixon và cộng sự (2006). Như vậy, sau khi thu thập và phân tích dữ liệu về khoảng cách kỳ vọng tại Việt Nam, nhóm tác giả có thể so sánh kết quả nghiên cứu này với các nghiên cứu trước đó để thấy được sự khác biệt. Trong nghiên cứu này, để đo khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán tại Việt Nam, các câu hỏi được sử dụng đã được dịch về tiếng Việt và có chỉnh sửa trong cách diễn giải. Bảng hỏi được thiết kế nhằm đảm bảo rằng dữ liệu chính xác cần thiết sẽ được thu thập từ những người trả lời để đạt được các mục tiêu của nghiên cứu này. Cấu trúc của bảng hỏi được giữ theo nghiên cứu của Best và cộng sự (2001) và sử dụng thang đo Likert năm điểm. Bảng hỏi được chia thành 2 phần, phần đầu tiên thu thập dữ liệu nhân khẩu học như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và nghề nghiệp của người được hỏi, phần thứ hai gồm 16 câu hỏi liên quan đến trách nhiệm kiểm toán viên, độ tin cậy và hữu ích của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính được kiểm toán. Trong nghiên cứu này, những người được hỏi được chia thành 2 nhóm: kiểm toán viên và người sử dụng thông tin. Trong đó, người sử dụng thông tin bao gồm các nhà đầu tư, nhân viên ngân hàng, nhà phân tích tài chính và công chúng nói chung.Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện trong quá trình lựa chọn đối tượng khảo sát. Dựa trên tỷ lệ phản hồi của các nghiên cứu trước đây như của Best và cộng sự (2001), Dixon và cộng sự (2006), tác giả gửi 100 bảng hỏi cho mỗi nhóm đối tượng khảo sát. Nghiên cứu sử dụng SPSS20.0 để phân tích dữ liệu được thu hồi với thống kê mô tả, kiểm định T-test. 5. Phân tích và thảo luận kết quả nghiên cứu 5.1. Kết quả thống kê nhân khẩu học Nghiên cứu đã phát 100 phiếu điều tra cho kiểm toán viên và 100 phiếu cho nhóm người sử dụng thông tin. Kết quả thu về tổng số 83 phiếu trả lời trong đó có 35 phiếu trả lời của kiểm toán viên và 48 phiếu của nhóm sử dụng thông tin. Theo số liệu của bảng 1, 100% kiểm toán viên và 60.4% người sử dụng thông tin có bằng cấp kế toán, kiểm toán. Như vậy, với số lượng người có kiến thức kế toán - kiểm toán lớn sẽ giúp việc khảo sát đạt được độ tin cậy cao hơn. Bên cạnh đó, kết quả của bảng 2 cho thấy 45.7% kiểm toán viên có tuổi nghề từ 6 đến 10 năm, và chỉ có 8.6% có tuổi nghề trên 16 năm. Tương tự, nhóm người sử dụng thông tin có tuổi nghề từ 6 -10 năm chiếm tỷ trọng lớn nhất với 35.4% và thấp nhất là nhóm có tuổi nghề trên 16 năm với 14.6%. Nhìn chung các đối tượng khảo sát có kinh nghiệm nghề nghiệp là khá tốt, có sự hiểu biết nhất định trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. 1090
  6. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Bảng 1: Thống kê mô tả nhân khẩu học Số phiếu thu hồi Bằng cấp kế toán Số phiếu điều Nhóm tra đã phát n %^ Có Không Kiểm toán viên 100 35 35 35 0 Người sử dụng 100 48 48 29 19 Tổng số 200 83 41,5 64 19 Bảng 2: Kinh nghiệm nghề nghiệp của đối tượng khảo sát Tuổi nghề Số lượng Tỷ lệ % 1-5 22 26.5 6-10 33 39.8 11-15 18 21.7 16+ 10 12.0 Tổng số 83 100.0 5.2 Kết quả về khoảng cách kỳ vọng Theo phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu của Schelluch (1996), Best và cộng sự (2001) hay Dixon và cộng sự (2006), bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào được phát hiện trong điểm trung bình giữa nhóm kiểm toán viên và nhóm người sử dụng thông tin đều cho thấy sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng. Bảng 3, 4, 5 đưa ra kết quả đo lường khoảng cách kỳ vọng tại Việt Nam liên quan đến trách nhiệm kiểm toán viên, mức độ tin cậy và mức độ hữu ích của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính được kiểm toán. Khoảng cách kỳ vọng liên quan đến trách nhiệm kiểm toán viên. Bảng 3 cung cấp kết quả của các phản hồi về 7 câu hỏi được đưa ra từ phía kiểm toán viên và người sử dụng thông tin. Theo kết quả từ bảng 3, khoảng cách kỳ vọng được phát hiện giữa kiểm toán viên và người sử dụng thông tin liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc phát hiện gian lận (câu 1), ngăn chặn gian lận (câu 5), hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán (câu 2) và việc kiểm toán viên sử dụng các xét đoán nghề nghiệp trong việc lựa chọn các thủ tục kiểm toán (câu 7). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào giữa kiểm toán viên và người sử dụng thông tin liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc duy trì hồ sổ sách kế toán (câu 3), lập báo cáo tài chính (câu 4) và kiểm toán viên đảm bảo khách quan và không thiên vị (câu 6). 1091
  7. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Bảng 3: Khoảng cách kỳ vọng liên quan đến trách nhiệm kiểm toán viên Giá trị trung bình Câu hỏi của hồi đáp Kiểm toán Người viên sử dụng 1. Kiểm toán viên chịu trách nhiệm phát hiện ra tất cả các gian lận 4.51 3.69* tại đơn vị được kiểm toán 2. Kiểm toán viên chịu trách nhiệm về hiệu quả của hệ thống kiểm 4.40 3.92* soát nội bộ tại đơn vị được kiểm toán 3. Kiểm toán viên chiu trách nhiệm duy trì các sổ sách kế toán 4.43 4.27 4. Nhà quản lý chịu trách nhiệm lập báo cáo tài chính 1.46 1.56 5. Kiểm toán viên không chịu trách nhiệm ngăn chặn gian lận tại 1.83 3.44* đơn vị được kiểm toán 6. Kiểm toán viên đảm bảo khách quan và không thiên vị 2.03 2.35 7. Kiểm toán có thực hiện các xét đoán nghề nghiệp trong việc lựa 2.20 2.69 chọn các thủ tục kiểm toán *Ghi chú: * Tồn tại sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê với p ≤ 0.05 Kết quả nghiên cứu cho thấy kiểm toán viên tin rằng họ có trách nhiệm thấp hơn rất nhiều trong việc phát hiện và ngăn chặn gian lận so với quan điểm của người sử dụng thông tin. Kết quả này cũng đã được chỉ ra trong các nghiên cứu của Best và cộng sự (2001), Fadzly và Ahmed (2004) hay Dixon và cộng sự (2006). Đối với khoảng cách kỳ vọng liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc đảm bảo hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của Best và cộng sự (2001), Fadzly và Ahmed (2004) hay Dixon và cộng sự (2006) tại Singapore và Malaysia. Khoảng cách kỳ vọng liên quan đến việc kiểm toán viên sử dụng các xét đoán nghề nghiệp trong lựa chọn thủ tục kiểm toán cũng đã được chỉ ra trong các nghiên cứu trước đây của Best và cộng sự (2001), Dixon và cộng sự (2006). Khoảng cách kỳ vọng liên quan đến mức độ tin cậy của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính được kiểm toán Bảng 4: Khoảng cách kỳ vọng liên quan đến mức độ tin cậy Giá trị trung bình của hồi đáp Câu hỏi Kiểm toán Người viên sử dụng 8. Người sử dụng thông tin có thể tin tưởng hoàn toàn rằng báo cáo 2.11 2.81* tài chính không còn tồn tại sai sót trọng yếu 1092
  8. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 9. Kiểm toán viên không nhất trí với chính sách kế toán được sử dụng 4.29 4.08 trong báo cáo tài chính 10. Mức độ đảm bảo của kiểm toán viên đã được chỉ ra rõ ràng 1.71 2.71* 11. Báo cáo tài chính cung cấp cách nhìn trung thực và khách quan 2.34 2.15 12. Đơn vị được kiểm toán không tồn tại gian lận 4.03 3.17* 13. Mức độ công việc kiểm toán đã thực hiện được công bố rõ ràng 2.20 2.25 Ghi chú: * Tồn tại sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê với p ≤ 0.05 Bảng 4 cung cấp chi tiết về kết quả của các phản hồi từ phía kiểm toán viên và người sử dụng thông tin liên quan đến mức độ tin cậy của báo cáo kiểm toán cũng như báo cáo tài chính được kiểm toán. Kết quả cho thấy không có bằng chứng về khoảng cách kỳ vọng tại Việt Nam liên quan đến việc kiểm toán viên không nhất trí với các chính sách kế toán được sử dụng trong báo cáo tài chính (câu 9), báo cáo tài chính là trung thực và khách quan (câu11) và mức độ công việc kiểm toán đã được chỉ ra rõ ràng trong báo cáo kiểm toán (câu 13). Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa 2 nhóm đối tượng khảo sát trong các vấn đề: đảm bảo báo cáo tài chính không còn sai sót trọng yếu (câu 8), mức độ đảm bảo của kiểm toán viên đã được chỉ ra rõ ràng (câu 10), đơn vị không còn gian lận (câu 12). Phát hiện này của nghiên cứu là trái ngược với kết quả của Best và cộng sự (2001) với kết quả cho thấy tồn tại khoảng cách kỳ vọng liên quan đến sự nhất trí của kiểm toán viên đối với chính sách kế toán hay báo cáo tài chính là trung thực, khách quan. Mặt khác, theo bảng 4, kiểm toán viên có niềm tin cao hơn đáng kể so với người sử dụng thông tin về việc liệu đơn vị kiểm toán không còn tồn tại gian lận, điều này phù hợp với kết quả từ các nghiên cứu của Best và cộng sự (2001), Fadzly và Ahmed (2004), Dixon và cộng sự (2006). Khoảng cách kỳ vọng liên quan đến mức độ hữu ích của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính được kiểm toán. Bảng 5: Khoảng cách kỳ vọng liên quan đến mức độ hữu ích Giá trị trung bình Câu hỏi của hồi đáp Kiểm toán Người viên sử dụng 14. Báo cáo tài chính đã kiểm toán không hữu ích trong việc giám 4.26 3.94* sát hoạt động của đơn vị được kiểm toán 15. Báo cáo tài chính đã kiểm toán hữu ích cho việc ra các quyết 4.63 4.58 định 16. Đơn vị được kiểm toán được quản lý tốt 2.94 3.17 Ghi chú: * Tồn tại sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê với p ≤ 0.05 1093
  9. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Mức độ hữu ích của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính được kiểm toán được xem xét trên các phương diện: hữu ích trong việc đưa ra các quyết định, giám sát hoạt động của đơn vị và đảm bảo đơn vị được quản lý tốt. Bảng 5 cho thấy không tồn tại khoảng cách kỳ vọng liên quan đến mức độ hữu ích của báo cáo tài chính được kiểm toán trong việc ra các quyết định (câu 15) cũng như quan điểm đơn vị được kiểm toán được quản lý tốt (câu 16). Đồng thời, kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa 2 nhóm đối tượng khảo sát liên quan đến báo cáo tài chính được kiểm toán không hữu ích trong việc giám sát các hoạt động tại đơn vị được kiểm toán. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Best và cộng sự (2001), Fadzly và Ahmed (2004). Nhìn chung, kết quả của nghiên cứu đã cho thấy tồn tại một khoảng cách kỳ vọng đáng kể giữa kiểm toán viên và người sử dụng thông tin tại Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực trách nhiệm phát hiện và ngăn chặn gian lận của kiểm toán viên. Bên cạnh đó, khoảng cách kỳ vọng có tồn tại nhưng ở mức độ thấp hơn liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên đối với hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên thực hiện xét đoán nghề nghiệp trong lựa chọn thủ tục kiểm toán, mức độ đảm bảo báo cáo tài chính không còn tồn tại sai sót trọng yếu, báo cáo tài chính được kiểm toán là không hữu ích trong việc giám sát hoạt động của đơn vị. 6. Kết luận Như vậy, với mục đích là cung cấp bằng chứng về mức độ và bản chất của khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán tại Việt Nam, nghiên cứu đã cho thấy sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng với mức độ tương đối cao. Trong đó, khoảng cách kỳ vọng là đáng kể về mặt thống kê liên quan đến trách nhiệm phát hiện và ngăn chặn gian lận của kiểm toán viên. Những phát hiện này đã đặt ra yêu cầu đối với nghề nghiệp kiểm toán cũng như các cơ quan ban hành chuẩn mực cần có các hành động thích hợp nhằm thu hẹp khoảng cách này trong tương lai nhằm gia tăng niềm tin của công chúng đối với kiểm toán. Nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như cỡ mẫu còn nhỏ, chỉ gồm 2 nhóm đối tượng khảo sát là kiểm toán viên và người sử dụng thông tin. Nghiên cứu cũng chưa chỉ ra được sự khác biệt trong kỳ vọng giữa các nhóm đối tượng khảo sát có kinh nghiệm nghề nghiệp khác nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt: Nguyễn Ngọc Khánh Dung (2016), Khoảng cách kỳ vọng kiểm toán: trách nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Trường ĐH Kinh tế TPHCM. Vũ Hữu Đức & Võ Thị Như Nguyệt (2012), Khoảng cách thông tin trên BCKT – nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. Tiếng Anh Bailey, K.E., Bylinski, J.H. and Shields, M.D. (1983), “Effects of audit report wording changes on the perceived message”, Journal of Accounting Research, Vol. 21, Spring, pp. 355-70 1094
  10. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Beattie V, Brandt R, Fearnley S (1998), “Auditor independence and the expectations gap: Some evidence of changing user perceptions”, Journal of Financial Regulation and Compliance 6(2): 159–170 Best PJ, Buckby S, Tan C (2001), “Evidence of the audit expectation gap in Singapore”, Managerial Auditing Journal 16(3): 134–144. Cohen Commission (1978), “ Report of the Commission on Auditors’ Responsibilities; Conclusions and Recommendations”, New York: American Institute of Certified Public Ac- countants Davidson, L. (1975), “The role and responsibilities of the auditor: perspectives, expecta- tions and analysis”, Unpublished background paper for the Commission on Auditors’ Responsi- bilities. Dixon R, Woodhead AD, Sohliman M (2006), “An investigation of the expectation gap in Egypt”, Managerial Auditing Journal 21(3): 293–302. Epstein MJ, Geiger MA (1994), “Investor views of audit assurance: recent evidence of the expectation gap”, Journal of Accountancy 177(1, January): 60–66. Elliott Richard & Elliott Christine (2005), “Idealized images of the male body in advertis- ing: a reader-response exploration”, Jounrnal of marketing communications, vol.11, No. 1, March 2005, 3-19 Fadzly MN, Ahmad Z (2004), “Audit expectation gap. The case of Malaysia”, Managerial Auditing Journal 19(7): 897–915 Hayes, R., Dassen, R., Schilder, A. & Wallage, P. (2005), “Principles of auditing.”, An introduction to International Standards on Auditing. 2nd ed. Gosport: Prentice-Hall Hermanson RH, Stephen E, Strawser R (1993), “Auditing Theory and Practice”, Third Edition, Homewood, Boston, US Humphrey C, Moizer P, Turley S (1992), “The audit expectations gap – Plus ca change, Plus c’est la meme chose”, Critical Perspectives on Accounting 3(2): 137–161. Humphrey C, Moizer P, Turley S (1993), “The audit expectations gap in Britain: An empirical investigation”, Accounting and Business Research 23(91A): 395–411 Jensen, M. & W. Meckling (1976), “Theory of a firm: managerial behaviour, agency costs and ownership structure”, Journal of Financial Economics 3:4, 305–360, Koo, C. M. & Sim, H. S. (1999), “On the Role Conflict of Auditors in Korea”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, 12 (2), 206-219. Koh HC, Woo ES (1998), “The expectation gap in auditing”, Managerial Auditing Journal 13(3): 147–154 Liggio C (1974), “The expectation gap: The accountant’s Waterloo”, Journal of Contem- porary Business 3(3): 27–44. McEnroe JE, Martens SC (2001), “Auditors’ and investors’ perceptions of the “expectation gap””, Accounting Horizons 15(4): 345– 358. 1095
  11. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Monroe GS, Woodliff DR (1994), “An empirical investigation of the audit expectation gap: Australian evidence”, Accounting and Finance 34(1): 47–74. Porter B (1993), “An empirical study of the audit expectation-performance gap”, Account- ing and Business Research 24(93): 49–68. Porter B, Gowthorpe C (2004), “Audit expectation-performance-gap in the United King- dom in 1999 and comparison with the gap in New Zealand in 1989 and in 1999”, (The Institute of Chartered Accountants of Scotland) Salehi M (2011), “Audit expectation gap: Concept, nature and trace”, African Journal of Business Management Vol. 5(21), pp. 8376-8392, 23 September, 2011 Schelluch, P. (1996), “Long-form audit report messages: further implications for the audit expectation gap”, Accounting Research Journal, Vol. 9 No. 1, pp. 48-55 Scott, Linda M. (1994), “Images in Advertising: The Need for a Theory of Visual Rheto- ric”, Journal of Consumer Research, 21 (September), 274-290. 1096
nguon tai.lieu . vn