Xem mẫu

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ====== NGUYỄN THỊ HOÀI LINH THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 – 2009) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam HÀ NỘI, 2019
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ====== NGUYỄN THỊ HOÀI LINH THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 – 2009) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN VĂN DŨNG HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức và cá nhân, gia đình, bạn bè. Em xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử - Trường ĐHSP Hà Nội 2, các thầy cô là giảng viên khoa Lịch sử cùng các thầy, cô giáo giảng dạy chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Dũng - Người đã tận tình quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này trong suốt thời gian vừa qua. Khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009)” là một đề tài hay và hấp dẫn. Song do còn nhiều hạn chế về thời gian cũng như khả năng tìm kiếm của, tiếp nhận thông tin của bản thân vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy cô và các bạn đọc xem xét và đóng góp ý kiến. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Hoài Linh
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học do mình thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy giáo - TS Nguyễn Văn Dũng, Trưởng khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà Nội 2. Nếu tôi sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 5 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Hoài Linh
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 3 3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ........................................................... 5 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 6 5. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................... 7 6. Bố cục của khóa luận ........................................................................................... 7 Chương 1................................................................................................................. 9 GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 - 1995) 9 1.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 - 1995 ........................................................................... 9 1.1.1. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trước năm 1989 ........................................................................................................................ 9 1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 – 1995 ........................................................................................ 12 1.1.3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trong 10 năm đầu đổi mới .. 15 1.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 1995) .............................................................................................................................. 18 1.2.1. Về mở rộng quy mô hệ thống giáo dục các cấp ............................................ 18 Về quy mô trường, lớp học các cấp ....................................................................... 18 Về số lượng học sinh, giáo viên của các cấp .......................................................... 20 1.2.2. Một số chuyển biến về chất lượng giáo dục ở các cấp học .......................... 24 1.3. Nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 1995) .................................................................................................................. 25 1.3.1. Thành tựu .................................................................................................... 25 1.3.2. Hạn chế........................................................................................................ 27 1.3.3. Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 - 1995) .......................................................................................... 28 Tiểu kết chương 1:................................................................................................. 29 Chương 2 GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1996 - 2009) ......................................................................................................... 30
  6. 2.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996- 2009) ................................................................................................... 30 2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1996 – 2009 ........................................................................................ 30 2.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ........................................................................................ 34 2.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 – 2009) .............................................................................................................................. 36 2.2.1. Tình hình biết đọc biết viết .......................................................................... 36 2.2.2. Tình hình đi học........................................................................................... 38 2.2.3. Trình độ giáo dục đạt được .......................................................................... 41 2.3. Một số nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 - 2009) .................................................................................................. 44 2.3.1. Thành tựu .................................................................................................... 44 2.3.2. Hạn chế........................................................................................................ 47 2.3.3 Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 - 2009) .......................................................................................... 48 Tiểu kết chương 2 :................................................................................................ 50 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 51 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 53
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong đời sống xã hội, sự nghiệp giáo dục luôn có vai trò quan trọng đặc biệt đối với mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. “Giáo dục, đào tạo góp phần nâng cao trình độ dân trí, và tạo ra nguồn lao động chất lượng cao để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội đi lên của mỗi quốc gia”. Đương thời, các nhà tư tưởng triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã coi giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm. Trong tác phẩm: “Bàn về chế độ hợp tác” của V. I. Lênin, ông viết: “Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ: trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của chúng ta vào cuộc đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính quyền... thì trọng tâm công tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy vào hoạt động giáo dục” [27, tr.428]. Nelson Mandela- một vị anh hùng tài ba đã lãnh đạo nhân dân Nam Phi thoát khỏi ách nô lệ. Ông đã phát biểu rằng: "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể dùng để thay đổi thế giới”, ông hiểu rõ rằng, khi nhận thức của người dân còn thấp, nền giáo dục chưa đạt hiệu quả cao thì khi một cuộc cách mạng diễn ra thì kết quả đi tới thành công là con số không, nếu có thì cũng chỉ là thành công mang tính nhất thời, không bền vững, không kéo dài được lâu. Cho nên, chỉ có đầu tư vào giáo dục thì mới thay đổi được nhận thức của người dân và mang lại cho họ một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Ở nước ta cũng vậy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta đã sớm có ý thức về “tầm quan trọng của giáo dục” và quan niệm rằng: “giáo dục - đào tạo là nhân tố cốt yếu, động lực thúc đẩy đất nước phát triển”. Chính vì vậy, ngay từ thời Lê, Thân Nhân Trung đã khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà vươn cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Bởi vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc gây dựng người tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí là việc làm đầu tiên” [17, tr.84]. Kế thừa và phát huy truyền thống trọng giáo dục, trọng nhân tài của ông cha ta, kể từ khi nước nhà ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn quan tâm tới giáo dục và khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” vì sự phát triển đi lên của đất nước (trích trong Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII), bởi lẽ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” [10, tr.77]. Cùng với vai trò quan trọng đó, Đảng đã xác định 3 mục tiêu tiên quyết của 1
  8. sự nghiệp giáo dục đó là: “nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” trong đó, phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu có ý nghĩa hàng đầu. Trung du và Miền núi phía Bắc Việt Nam nằm ở phía Bắc của đất nước, là nơi sinh sống tập trung của các dân tộc thiểu số với trình độ phát triển khác nhau và có vị trí quan trọng đối với lịch sử của dân tộc. Trong thời kì đổi mới, cùng với nhân dân miền Bắc, nhân dân các dân tộc trên địa bàn của khu vực đã đóng góp hết sức mình vào công cuộc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu mà miền Bắc đạt được trong thời kì này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đóng góp không hề nhỏ của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa miền Bắc nói chung và giáo dục ở các tỉnh Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng. Hơn nửa thế kỷ qua, nền giáo dục nước ta nói chung và thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng, đặc biệt là sau công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa 1986 thì sự nghiệp giáo dục nước ta cũng đang có những bước phát triển quan trọng cả về chất và lượng. Những thành tựu đó góp phần vào việc “nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nguồn lực có chất lượng cao cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới toàn diện đất nước”. Mặc dù đạt được nhiều kết quả tốt như vậy nhưng nền giáo dục Việt Nam đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập như: “cơ sở vật chất - kĩ thuật còn lạc hậu, chưa đảm bảo, thiếu; chất lượng giáo dục còn kém, nhu cầu học tập cũng như điều kiện để phát triển giáo dục giữa các vùng miền có sự chênh lệch lớn, sự mất cân đối về tình hình biết đọc, biết viết, tình hình đi học, trình độ học vấn, trình độ khoa học kĩ thuật, số lượng giáo viên còn thiếu v.v…”, đặc biệt ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc còn tồn tại khá rõ nét so với các vùng miền khác trong cả nước. Trước những thành tựu và thách thức nói trên, yêu cầu đặt ra cho nền giáo dục nước ta nói chung và cả ngành giáo dục của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng là cần nắm rõ thực trạng giáo dục của từng vùng, miền và của cả nước để kịp thời đưa ra các giải pháp mang tính chất đột phá cả về quy mô cũng như chất lượng giáo dục. Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục trong giai đoạn 1986 đến nay, cùng với số liệu đề cập khá rõ ràng của Tổng cục thống kê Việt Nam qua các năm nhưng vẫn chưa có một công trình sử học nào trình bày một cách có hệ 2
  9. thống, toàn diện thực trạng của giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc Việt Nam trong giai đoạn (1989 – 2009). Với lý do đó, tác giả đã chọn “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của sự nghiệp giáo dục trong quá trình phát triển của đất nước nên vấn đề giáo dục luôn là đề tài nhận được sự quan tâm, chú ý của nhiều tác giả, các công trình nghiên cứu khai thác ở các khía cạnh khác nhau đã được thực hiện, đặc biệt là từ sau năm 1986. Một số công trình nghiên cứu về giáo dục Việt Nam đã được thực hiện như: Cuốn sách: “Tổng kết đánh giá 15 năm đổi mới giáo dục (1986 – 1996)” của Bộ Giáo dục và Đào tạo được ban hành năm 1996. Công trình này tập hợp những báo cáo của các địa phương sau 10 năm tiến hành đổi mới giáo dục và được trình bày một cách cụ thể và có hệ thống. Cuốn sách “Giáo dục Việt Nam 1945-2005, tập I” của Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2000. Công trình đã mô tả bức tranh về hoạt động giáo dục của cả nước từ bậc mầm non cho tới đại học theo từng giai đoạn lịch sử; quá trình xây dựng và phát triển của giáo dục ở từng vùng tự do, tạm chiến, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; những đóng góp của công tác giáo dục đối với cuộc kháng chiến của dân tộc; các cuộc cải cách giáo dục trong lịch sử. Ngoài ra, công trình còn đề cập đến sự hình thành, phát triển của ngành giáo dục ở các tỉnh, thành phố trong cả nước theo từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, nội dung trình bày mang tính chất khái lược giáo dục của các vùng miền trong cả nước là chủ yếu chứ không cụ thể của một vùng miền nào đó. Chính vì vậy, lượng thông tin về tình hình giáo dục của các địa phương ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2009 rất hạn chế. Cuốn sách: “Giáo dục Việt Nam 1945 – 2010” của tác giả Phạm Minh Hạc được xuất bản năm 2000. Cuốn sách gồm 2 tập giúp chúng ta có được một cái nhìn tổng quát về quá trình xây dựng, từng bước trưởng thành của nền giáo dục nước nhà; đồng thời nêu được những nét đặc trưng của sự nghiệp giáo dục của các tỉnh thành qua các thời kì lịch sử. Cuốn sách: “Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945-1992)” của Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2005 đã đề cập có hệ thống, chi tiết các ngành học diễn ra từ 3
  10. năm 1945 đến 1995. Trong từng ngành học, cuốn sách trình bày về: lịch sử hình thành, cách thức tổ chức quản lí, chương trình học, loại hình đào tạo cũng như những đóng góp của từng ngành học đối với xã hội; vấn đề giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, vấn đề hợp tác trong lĩnh vực giáo dục v.v… Tuy nhiên, công trình cũng mới dừng lại ở mức độ khái quát về giáo dục của cả nước nói chung nên giáo dục ở miền núi phía Bắc nói riêng không trình bày cụ thể, rõ nét. Cuốn sách: “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945-1995)” của Bộ giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2006. Công trình mô tả bức tranh tương đối toàn diện về sự phát triển của ngành giáo dục Việt Nam từ khi nước ta giành được độc lập, tự do năm 1945 đến những năm bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước năm 1995. Đồng thời, công trình cũng mô tả một cách khá chi tiết và có hệ thống từ các ngành học cho đến việc xây dựng, phát triển giáo dục ở các vùng trong cả nước. Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có đề cập tới giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã được xuất bản như: Cuốn sách “Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc” của Viện Dân tộc học xuất bản năm 2007. Công trình đã tổng hợp các bài viết của nhiều nhà khoa học, trong đó đề cập đến nhiều nội dung: dân cư và lao động; phát huy các thế mạnh để phát triển kinh tế, thế yếu của các tỉnh miền núi phía Bắc; phát triển văn hóa và giáo dục, kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng ở các tỉnh miền núi. Cuốn sách cũng nêu lên thực trạng, khó khăn, tiềm năng của các tỉnh miền núi phía Bắc; đề ra các biện pháp nhằm xây dựng, phát triển miền núi trên các lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Cuốn sách Lịch sử giáo dục Việt Nam (năm 2008), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội của tác giả Bùi Minh Hiền đã trình bày có hệ thống các giai đoạn phát triển của giáo dục Việt Nam, đồng thời cũng xác định mục tiêu, định hướng nhằm phát triển giáo dục Việt Nam trong thời kì mới. Ở Việt Nam xu hướng nghiên cứu về thực trạng, thành tựu, hạn chế, những biện pháp, đề xuất cải tổ, đưa ra các định hướng là một xu hướng chung được giới nghiên cứu lựa chọn nhiều để làm đề tài nghiên cứu của mình. Trong suốt chiều dài lịch sử của sự nghiệp giáo dục nói chung và từ sau khi đổi mới đất nước 1986 đến năm 2000 nói riêng, trên các tạp chí văn hóa - xã hội và giáo dục đề cập khá nhiều, với mật độ bài viết dày đặc, có thể kể đến các tạp chí như: Tạp chí giáo dục, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Tạp chí khoa học hay Tạp chí khoa học xã hội… Các bài viết về giáo dục trên các tạp chí này có giá trị to lớn như một công trình khảo cứu góp một 4
  11. phần tư liệu chuyên sâu về giáo dục Việt Nam từ khi cả nước bước vào thời kì đổi mới đất nước. Có thể thấy rằng, các công trình nghiên cứu về lịch sử ngành giáo dục nói chung và giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc còn khá ít nói riêng là những nguồn tư liệu quan trọng giúp tác giả có thể tìm hiểu, nghiên cứu, sử dụng để thực hiện đề tài: “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009)” của mình. Tuy nhiên tính đến hiện tại, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào thuộc mã ngành Lịch sử Việt Nam, trình bày một cách có hệ thống về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 - 2009). 3. Đối tƣợng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ 1989 đến 2009. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, khóa luận cần tập trung vào những nhiệm vụ sau: những yếu tố tác động tới nền giáo dục của khu vực: tình hình kinh tế - xã hội; chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục và quá trình thực hiện chủ trương trên được áp dụng ra sao để thấy được thực trạng giáo dục của khu vực, từ đó nhận xét thành tựu và hạn chế của giáo dục trong những năm thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt từ năm 1989 trở đi khi hệ thống giáo dục phổ thông thống nhất 12 năm trên toàn quốc. Đồng thời, chỉ ra được một số tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009). 3.3. Phạm vi nghiên cứu Về mặt nội dung: Khóa luận tập trung nghiên cứu những yếu tố tác động đến giáo dục; thực trạng của giáo dục; những thành tựu, hạn chế của giáo dục; tác động của giáo dụ đến khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 - 2009. Về không gian: Khóa luận nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, theo quy định của Tổng cục Thống kê gồm có 13 tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Thái, Cao Bằng, Hà Bắc, Hòa Bình, Lào Cai, Quảng Ninh, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Yên Bái. 5
  12. Về mặt thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009. Năm 1989 là thời điểm quan trọng đối với lịch sử Việt Nam kể từ sau ngày nước nhà thống nhất, 2 miền Nam, Bắc sum họp một nhà. Lúc này nền kinh tế Việt Nam đã chuyển hẳn từ chế độ “quan liêu bao cấp” sang cơ chế thị trường. Đồng thời, sau khi nước nhà thống nhất đến năm 1989, thì hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trên toàn quốc mới được thống nhất, mà trước đó giáo dục hai miền Nam, Bắc khác nhau: từ năm 1954, ở miền Bắc, Nhà nước áp dụng hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm, còn ở miền Nam là 12 năm. Năm 2009 là năm đất nước hoàn thành những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển giáo dục trong thời kì đổi mới và đề ra những định hướng, biện pháp phát triển cho ngành giáo dục giai đoạn 2009 - 2020. Đồng thời cũng là năm mà Tổng cục thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư đã thực hiện Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, trong đó có chuyên khảo giáo dục Việt Nam - đó là nguồn tài liệu thống kê hữu ích cho việc nghiên cứu. 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tư liệu Nguồn tư liệu mà tác giả sử dụng gồm có nguồn tư liệu gốc và các nguồn tư liệu khác cụ thể như sau: Nguồn tư liệu gốc quan trọng và sử dụng chủ yếu nhất trong khóa luận chính là các tư liệu, số liệu được khai thác từ Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê qua các năm như 1989, 1992, 1995, 2000, 2009…; Chuyên khảo giáo dục Việt Nam lấy 15% số liệu mẫu từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 và từ hai cuộc tổng điều tra trước đó là 5% năm 1989 và 3% năm 1999 của Tổng cục thống kê. Nguồn tài liệu này cho ta biết những số liệu chính xác và bao quát nhất về tình hình giáo dục cả nước. Dựa vào đó tác giả có cơ sở để phục dựng lại bức tranh về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009. Bên cạnh nguồn tư liệu gốc, khóa luận đã khai thác và sử dụng các tư liệu, văn kiện của Đảng trong những năm như: 1991 - 1995; 1996 - 2000; 2001 - 2005, 2006 - 2010. Nguồn tài liệu này cho tác giả biết các chủ trương, chính sách của Đảng đối với kinh tế - xã hội cũng như những đường lối, chủ trương về giáo dục nước ta từ sau đổi mới đến nay. 6
  13. Nguồn tư liệu tiếp theo đó là các công trình (sách, báo, báo cáo đánh giá, tổng kết…) của các nhà nghiên cứu, các tổ chức đã được công bố liên quan trực tiếp tới giáo dục cũng như các mặt khác như kinh tế - xã hội. Qua các nguồn tư liệu này, tác giả có cái nhìn sâu sắc, thấu đáo hơn về quá trình chuyển mình của đất nước trên các lĩnh vực. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các luận văn, luận án cùng với các tạp chí, tác phẩm, bài viết của nhiều tác giả viết có liên quan đến đề tài. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đa dạng và phong phú nêu trên, đã góp phần rất lớn cho tác giả trong việc thực hiện đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng. Lịch sử và lôgic và hai phương pháp chủ đạo được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu và trình bày khóa luận. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, thống kê, vẽ biểu đồ, so sánh,…để làm rõ thực trạng và nhận xét về giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 – 2009. 5. Đóng góp của khóa luận Thứ nhất, khóa luận phác họa lại có hệ thống bức tranh thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009. Thứ hai, khóa luận góp phần tìm hiểu những thành tựu, hạn chế của giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng. Thứ ba, khóa luận góp phần thấy được tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009). Cuối cùng, khóa luận góp phần bổ sung và làm phong phú thêm nguồn tài liệu lưu trữ nhằm phục vụ quá trình nghiên cứu, giảng dạy và đánh giá, tổng kết về lịch sử Việt Nam trong giai đoạn tiến hành đổi mới cũng như lịch sử giáo dục Việt Nam nhất là giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc thời kì sau đổi mới. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo của khóa luận thì khóa luận được cấu trúc thành 2 chương: 7
  14. Chương 1: Giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989- 1995) Chương 2: Giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996- 2009). 8
  15. Chƣơng 1 GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 - 1995) 1.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 - 1995 Khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc tính đến năm 1991 có 13 tỉnh, bao gồm Hà Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Vĩnh Phú, Cao Bằng, Bắc Thái, Lạng Sơn, Lai Châu, Hòa Bình, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai, Hà Bắc. Tổng dân số trung bình cả nước là 67774,1 nghìn người, trong đó dân số trung bình khu vực là 11565,8 nghìn người [21, tr.9]. Vùng tập trung chủ yếu là dân tộc ít người như: Tày, Nùng, Dao, Thái, Mường…Đây không chỉ là nơi có vị trí chiến lược cách mạng quan trọng trong lịch sử đất nước mà nơi đây còn là vùng giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái phong phú và đa dạng giúp phát triển nền kinh tế - xã hội. Sau khi đất nước tiến hành đổi mới năm 1986, được sự quan tâm sát xao của Đảng cùng với đó là mọi nỗ lực cố gắng của nhân dân các địa phương trên địa bàn của khu vực, đã đạt được những thành tựu vượt bậc trên nhiều lĩnh vực trong đó phải kể đến đó là giáo dục. 1.1.1. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trước năm 1989 Tính đến năm 1989, nước ta đã đi qua 3 cuộc cải cách giáo dục: cuộc cải cách lần thứ nhất diễn ra bắt đầu từ năm 1950, mục đích nhằm xây dựng một nền giáo dục của dân và vì dân; lần thứ 2 bắt đầu từ 1956, nhằm hướng tới đào tạo ra những thế hệ thanh niên có đủ năng lực và phẩm chất tốt, có cả đức và tài; và cuộc cải cách lần thứ 3 bắt đầu từ 1979, đã tiến hành cải cách toàn diện về mục tiêu, nội dung, nguyên lý, phương pháp và cơ cấu hệ thống giáo dục, đào tạo; đặc biệt trong thời gian này hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm đã được hình thành trong cả nước. Qua các đợt cải cách giáo dục nói trên, mỗi cuộc cải cách đổi mới giáo dục thì đều có nội dung, tính chất phù hợp với xu thế phát triển của đất nước nói chung và thế giới nói riêng, đã phản ánh kết quả khả quan cả về thành tựu cũng như hạn chế của công tác giáo dục nước nhà. Xét về mặt bằng chung của cả nước thì tỉ lệ biết chữ đã tăng lên đáng kể và tỉ lệ mù chữ đã dần giảm xuống ở mức tương đối, nhờ vậy phần nào đã xóa bỏ nạn mù 9
  16. chữ, nâng cao dần trình độ dân trí cho người dân được thể hiện rõ qua bảng số liệu dưới đây: Bảng 1: Tổng số ngƣời mù chữ từ 10 tuổi trở lên qua 2 đợt tổng điều tra dân số của nƣớc ta năm 1979, 1989 Đơn vị: nghìn người (%) Năm 1979 Năm 1989 Biết chữ Mù chữ Biết chữ Mù chữ Nam 16086 (90%) 1620 (10%) 19854 (93%) 15337 (7%) Nữ 15816 (84%) 1817 (19%) 20512 (84%) 3854 (16%) Tổng số 31902 (85%) 5437 (15%) 40366 (88%) 5391 (12%) Nguồn: Tổng cục Thống kê: Tổng điều tra dân số Việt Nam, “Kết quả điều tra mẫu” năm 1979, 1989. Nhưng điều đáng lo ngại ở đây là mặc dù tổng số người mù chữ trong cả nước không lớn nhưng phần đông trong số họ lại sinh sống tập trung ở những vùng xa xôi, hẻo lánh ở miền núi cao. Do vậy, tỷ lệ biết chữ của khu vực còn thấp so với các vùng khác trong cả nước. Chẳng hạn, ở Hà Giang, Tuyên Quang, tổng số người mù chữ trong độ tuổi 15 – 35 chiếm 34% nhưng con số tương tự ở những huyện vùng cao của tỉnh này đều trên 50% rất nhiều, Ở Tuyên Quang có nhiều xã trắng về giáo dục, số người mù chữ còn lớn. Trong năm học đầu tiên sau khi đất nước thống nhất 1975 – 1976, quy mô học sinh trong cả nước là 10.831 nghìn học sinh tham gia học tập ở cả ba cấp học. Đến năm 1985 – 1986 số học sinh tham gia học tập của cả nước đã lên đến 12.034 nghìn học sinh [19, tr.307]. Tuy nhiên ở khu vực miền xuôi, trẻ em trong độ tuổi đến trường tham gia học tập đạt khoảng 98% thì ở Miền núi, trung du chỉ đạt 80%. Số trẻ em trong độ tuổi đi học tập trung nhiều ở đồng bằng chiếm 70%, còn miền núi phía Bắc, mới có từ 50 – 60% số trẻ em đi học. Ở vùng cao, biên giới phía Bắc tỷ lệ này còn thấp hơn (từ 20 -30%), nhiều xã chỉ có đến lớp 2 từ nhiều năm nay. Đáng chú ý nhất là học sinh bị lưu ban còn chiếm tỉ lệ cao” [26, tr.3]. Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giữa các địa bàn, khu vực khác nhau cũng có sự chênh lệch. Ở những tỉnh thuộc khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa do điều kiện khó khăn về mọi mặt nên tỷ lệ này còn khá cao. Trái lại, ở những tỉnh, thành 10
  17. phố nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển thì tỷ lệ này chỉ duy trì ở mức thấp hơn. Điều này đã được minh chứng qua một số tỉnh, thành phố điển hình như tại Hà Nội “tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ học lần lượt là 4,77% và 4,17%. Ngược lại ở các tỉnh miền núi như Hà Tuyên tỷ lệ này lần lượt là 8,65% và 25,79%, tại Lai Châu là 11,83%, và 30,36%” [20, tr.417]. Tại một số tỉnh, nhiều trường đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và đang đi vào giai đoạn phổ cập giáo dục cấp trung học cơ sở thì ở một số địa bàn thuộc các tỉnh thuộc khu vực Miền núi, trung du do điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, vì vậy công việc phổ cập giáo dục tiểu học của vùng còn hạn chế. Điển hình ở một số tỉnh thuộc vùng miền núi, các tỉnh khu vực phía Bắc dao động trong khoảng 20 – 30%. Cũng có những xã trẻ em chưa học qua lớp 2 [4, tr.17]. Ở tỉnh Yên Bái vào những năm 1987 – 1988, học sinh cấp II bỏ học trên 22,4%. Cơ sở vật chất - kỹ thuật có những bước tiến lớn trong việc xây dựng, sửa chữa, nâng cấp và bảo vệ. Tính đến năm 1985 các tỉnh của khu vực đã có hàng vạn trường được xây dựng, rải khắp địa bàn của cả nước. Ở tỉnh Lạng Sơn trong năm học 1985 – 1986 đã có “17 trường cấp III ở tất cả các huyện, thị. Các xã đều có trường phổ thông cơ sở, trên địa bàn tỉnh có 9 trường phổ thông lao động, 3 trường dân tộc nội trú ở các huyện, 1 trường phổ thông lao động, 1 trường văn hóa tại tỉnh” [1, tr.222]. Tuy nhiên cơ sở vật chất, hệ thống trường, lớp nói chung sau năm 1975 vẫn còn nghèo nàn và thiếu thốn như hệ thống trường, lớp học kiên cố chưa có nhiều chủ yếu được xây dựng một cách tạm bợ, vật liệu xây dựng nên chủ yếu được làm từ tre, nứa, lá; số phòng, lớp học thiếu, trong khi đó số lượng học sinh ngày một tăng qua các năm, vì vậy học sinh phải học gộp hoặc tăng ca, có nơi còn một số trường học ba ca/ một ngày, lớp học thiếu ánh sáng, kích thức bàn ghế không tương xứng với người học…; cơ sở kĩ thuật phục vụ quá trình học tập của học sinh cũng như quá trình dạy học của giáo viên không được đảm bảo, còn thiếu thốn, nơi có ít dụng cụ thí nghiệm thì lại chưa dùng tốt, chưa bảo quản tốt. Chất lượng giáo dục còn kém, cách khá xa so với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội. Ở các tỉnh, huyện miền núi xa xôi hẻo lánh thì nhiều khi số lượng sách giáo khoa thậm chí không có đủ cho học sinh, thiết bị dạy và học còn thiếu nhiều, nội dung chương trình mang tính truyền thống, nặng về lý thuyết hơn là thực tiễn, số lượng giáo viên căn bản còn thiếu trầm trọng, trình độ chưa cao,… do vậy chất lượng giáo dục thấp hơn nhiều so với các vùng khác của cả nước, có những lúc 11
  18. chất lượng giáo dục không bao giờ vượt qua mức 30%, chỉ đạt tầm 25 cho đến 30% [17, tr.210]. Trong kí ức của mình, nhà giáo ưu tú Cao Văn Tư - nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai đã chia sẻ như sau: “những năm 80 và 90, đời sống kinh tế - xã hội ở Lào Cai rất khó khăn, gây trở ngại lớn cho sự nghiệp giáo dục. Ngày đó, số người mù chữ toàn tỉnh chiếm tới 52% dân số, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi ra lớp mới đạt 35,7%, đặc biệt toàn tỉnh có tới 14 xã trắng về giáo dục. Nhiều trường tiểu học ở vùng cao chỉ có lớp 1, lớp 2, rất ít trường hoàn chỉnh tới lớp 5. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất trường, lớp học hết sức thiếu thốn, chủ yếu là nhà tranh, vách đất, bàn ghế được ghép từ những thanh tre, nứa, vầu. Nhưng khó khăn nhất vẫn là số lượng đội ngũ giáo viên, bởi những năm 80 có nhiều giáo viên bỏ việc, chuyển vùng”[34]. Tựu chung lại, trước năm 1989 tình hình giáo dục của khu vực đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Năm 1975, nước ta hoàn thành thống nhất đất nước, tuy nhiên do hoàn cảnh chiến tranh trước và sau đó là chiến tranh Biên giới phía Bắc năm 1979, một số hệ thống trường lớp xây dựng trong thời kì trước đã bị phá hủy, không được cải tạo hoặc xây dựng lại do vậy không đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh đặc biệt là khi số lượng học sinh ngày càng tăng lên qua các năm, nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học. Ở các vùng sâu, vùng xa của khu vực do điều kiện kinh tế còn nghèo nàn, đời sống người dân vô cùng khổ cực cũng tác động một phần không nhỏ tới giáo dục, tình trạng lưu bạn, bỏ học diễn ra, công tác vận động học sinh đến trường còn nhiều khó khăn, số lượng trường lớp, giáo viên, trang thiết bị cũng như chính sách thu hút đầu tư còn nhiều hạn chế… 1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 – 1995 Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến lớn, sau gần 5 năm thực hiện đường lối đối mới (1986 – 1990), nước ta đã đạt được một số thành tựu cơ bản nhưng vẫn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn. Trước tình hình đó, yêu cầu bức thiết đặt ra đối với lĩnh vực kinh tế - xã hội là phải cần phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, nhằm mục đích phát huy những mặt mạnh, khắc phục những yếu kém, hoàn thành mục tiêu chiến lược đề ra. Trước những yêu cầu đó, tại Đại hội lần thứ VII (1991) Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những kết quả mà giai đoạn trước đạt được, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm 12
  19. vụ cho kế hoạch 5 năm tiếp theo (1991 – 1995). Tiếp đó, Đảng ta luôn bổ sung, thay đổi chính sách để phù hợp với tình hình mới. Mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 tiếp theo được Đảng xác định cần: “vượt qua thử thách, ổn định và phát triến kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” [9]. Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng ta đã vạch ra định hướng chiến lược cho khu vực như sau: “Khu vực Trung du và Miền núi chuyển sang kinh tế hàng hóa, phát huy thế mạnh của vùng như thế mạnh lâm nghiệp; hình thành vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, gắn với công nghiệp chế biến, phát triển chăn nuôi, khai khoáng. Đẩy mạnh việc khai thác khoáng sản và thủy năng, hình thành những trung tâm công thương nghiệp và đô thị gắn với các tổ hợp kinh tế lãnh thổ: than ở Đông Bắc, hóa chất, phân bón, luyện kim, điện ở Tây Bắc và trung du phía Bắc, thủy điện và khai khoáng ở Tây Nguyên. Riêng đối với khu vục miền núi, Nhà nước hỗ trợ về đầu tư, mở mang giao thông vận tải, bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người dân tộc, đồng thời thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền lương... để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”[8]. Mục đích cuối cùng nhằm thúc đẩy kinh tế vùng phát triển. Về chính sách xã hội, ta chủ trương thực hiện đồng bộ chiến lược dân số trên cả ba mặt: “quy mô, cơ cấu và sự phân bố dân số; giảm tỷ lệ tăng dân số mỗi năm khoảng 0,4 - 0,6 phần nghìn. Hướng giải quyết việc làm là sử dụng tối đa tiềm năng lao động; chú trọng phát triển những ngành thu hút nhiều lao động như nuôi trồng chế biến nông - lâm - thuỷ sản, hàng xuất khẩu...Người lao động chủ động tìm và tạo ra việc làm” [11]. Thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng nêu trên, khu vực đã có một số chuyển biến rõ nét: Về kinh tế: Với sự cố gắng, nỗ lực vươn lên không chỉ ở ban lãnh đạo, mà điều trọng tâm là ở nhân dân, họ đã cùng nhau vượt qua những khó khăn, thử thách, nhằm phát huy được những thế mạnh của khu vực mình, tạo ra sự tăng trưởng nhanh trong đời sống kinh tế, xã hội của vùng. Ở một số địa phương đã xây dựng được các khu công nghiệp lớn, cùng với đó là sự xuất hiện của thị trấn, thị xã mọc lên ngày càng nhiều. Nhiều gia đình từ đồng bằng đã di cư lên miền núi sinh sống và lao động, họ đã đưa kỹ thuật canh tác 13
  20. mới vào sản xuất như thâm canh tăng vụ và một số ngành nghề tiểu thủ công. Dân cư của khu vực dần tiếp cận được những thành tựu của khoa học - kỹ thuật. Tuy nhiên, mức tăng trưởng kinh tế - xã hội tại địa bàn của khu vực còn rất thấp. Kinh tế phát triển chậm chạp, tình trạng tự do di chuyển định cư vẫn chưa được khắc phục; đại bộ phận dân cư trong vùng còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn trong đời sống sinh hoạt thường ngày; tình trạng nghèo đói, không được đi học do vậy nạn mù chữ chiếm số lượng lớn; bệnh dịch chưa được đẩy lùi, nhiều tiêu cực xã hội phát sinh. Trên địa bàn các tỉnh thành đã xuất hiện các khu kinh tế phát triển theo hướng quốc doanh đặc biệt là ở lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, tuy nhiên năng suất còn thấp, chất lượng hiệu quả không cao; người dân địa phương thậm chí còn thiếu đất để canh tác trong khi đó tình trạng bao chiếm đất đai lại diễn ra phổ biến, đất chưa được sử dụng còn nhiều, tình trạng này đã gây ra mâu thuẫn; nạn chặt phá, khai thác rừng diễn ra bừa bãi và nghiêm trọng… Cơ sở hạ tầng đặc biệt là đường giao thông đi lại ở miền núi, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh hệ thống đường qua lại chưa đảm bảo và còn trắc trở, nhiều tuyến đường chưa thông suốt và nối liền giữa các tỉnh, các vùng với nhau vì vậy đã kìm hãm việc giao lưu, trao đổi qua lại với nhau. Các điểm công nghiệp có quy mô tương đối lớn trong vùng đã được hình thành, hoạt động trên các lĩnh vực khai khoáng, than, công trình thủy điện, hóa chất, chế biến lâm sản,... Tuy nhiên, chúng lại hoạt động một cách biệt lập, chưa lôi cuốn cả vùng phát triển. Về xã hội: Cơ cấu dân cư có nhiều biến đổi, tính đến năm 1995 dân số trung bình của khu vực là 9522,9 người [20]. Bảng 2: Cơ cấu dân số của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc 1991- 1995 Đơn vị % 1991 1992 1993 1994 1995 Đông Bắc 11,68 11,67 11,67 11,66 11,67 Tây Bắc 2,8 2,83 2,84 2,85 2,86 Nguồn: [22] 14
nguon tai.lieu . vn