Xem mẫu

  1.   Khóa luận tốt nghiệp                                                       Niên khóa 2014   ­2018 Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình, tôi xin bày tỏ lòng  biết  ơn sâu sắc đến thầy giáo Th.S Trần Viết Nhi  – người đã trực  tiếp hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ, động viên, chỉ  bảo tận tình tôi   trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Đồng thời, tôi xin chân thành cảm  ơn quý Thầy, Cô trong khoa  Giáo dục mầm non, trường Đại học Sư phạm Huế đã tạo điều kiện  thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Với vốn   kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ  là nền tảng  cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để  tôi bước vào đời một cách vững chắc và tự tin. Tôi xin chân thành cảm  ơn tập thể  trường Mầm non Hoa Mai,   trường Mầm non I và trường Mầm non Phú Hội  – Thành phố Huế  đã tạo điều kiện giúp đỡ  tôi trong quá trình điều tra và thu thập số  liệu để hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm, hỗ  trợ, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và làm khóa  luận tốt nghiệp. Mặc dù đã cố  gắng hết sức, song vì thời gian có hạn và kiến  thức chuyên môn còn nhiều hạn chế nên khóa luận cũng không tránh  khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành   từ  phía thầy cô và các bạn để  đề  tài khóa luận của tôi được hoàn  thiện hơn. Cuối cùng, tôi xin kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và  thành công trong sự nghiệp đào tạo những thế hệ tri thức tiếp theo   trong tương lai. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Huế, ngày 1 tháng 5 năm 2018 SVTH: Võ Thị Tường Vy
  2. Khóa luận tốt nghiệp                                                       Niên khóa 2014   ­2018 Sinh viên Võ Thị Tường Vy SVTH: Võ Thị Tường Vy
  3. Khóa luận tốt nghiệp                                                       Niên khóa 2014   ­2018 MỤC LỤC Phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục Danh mục viết tắt Danh mục bảng biểu Danh mục biểu đồ, sơ đồ SVTH: Võ Thị Tường Vy
  4. Khóa luận tốt nghiệp                                                       Niên khóa 2014   ­2018 DANH MỤC VIẾT TẮT STT VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ 1. GV : Giáo viên 2. GVMN : Giáo viên mầm non 3. KPKH : Khám phá khoa học 4. MN : Mầm non 5. MG : Mẫu giáo 6. NXB : Nhà xuất bản 7. TCHT : Trò chơi học tập 8. TGĐV : Thế giới động vật 9. Tr : Trang SVTH: Võ Thị Tường Vy
  5. Khóa luận tốt nghiệp                                                       Niên khóa 2014   ­2018 DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ SVTH: Võ Thị Tường Vy
  6. Khóa luận tốt nghiệp                                                       Niên khóa 2014   ­2018 SVTH: Võ Thị Tường Vy
  7. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mầm non là lứa tuổi có vai trò quan trọng trong suốt quá trình phát triển   của cuộc đời mỗi con người, giáo dục mầm non từ  lâu được xem là bậc học  đầu tiên trong hệ thống giáo dục Quốc dân Việt Nam đặt nền móng cho sự phát  triển toàn diện nhân cách, chuẩn bị cho trẻ tiếp tục học tập và phát triển ở các  bậc học tiếp theo.  Bên cạnh các lĩnh vực phát triển thể  chất, ngôn ngữ, tình  cảm – xã hội và thẩm mỹ,  lĩnh vực phát triển nhận thức đặc biệt được chú  trọng trong giáo dục trẻ em  ở độ  tuổi này, đặc biệt là trẻ  mẫu giáo (MG) 5­6   tuổi. Khám phá khoa học (KPKH) là hoạt động thường xuyên của trẻ ở trường   mầm non, có vai trò quan trọng trong việc khơi gợi trí tò mò, bồi dưỡng niềm  đam mê khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh,  đồng thời hình thành và phát  triển các kỹ  năng tìm hiểu, khám phá và các năng lực trí tuệ  như quan sát, đo  lường,  so sánh,  phân loại, phán đoán, suy luận, chia sẻ  thông tin dưới nhiều  hình thức khác nhau và kết luận. Nội dung cho trẻ mầm non KPKH trong chương trình GDMN Việt Nam   hiện hành khá phong phú và đang dạng, trong đó khám phá về  TGĐV là một   nội dung quan trọng, đặc biệt là đối với trẻ  MG 5­6 tuổi. TGĐV muôn màu  muôn vẻ, đa dạng về tên gọi, đặc điểm hình dáng bên ngoài, điều kiện sống,   tập tính, cách vận động, nguồn thức ăn, hình thức sinh sản, quá trình phát   triển, lợi ích – tác hại, cách chăm sóc – bảo vệ... Tìm hiểu, khám phá những   điều này giúp trẻ hiểu và biết cách ứng xử phù hợp với các loài động vật nói   chung, thế giới xung quanh nói riêng. Để giúp trẻ lĩnh hội những kiến thức nói  trên, đòi hỏi nhà giáo dục cần sử dụng đa dạng các phương pháp, biện pháp,  phương tiện, hình thức giáo dục đa dạng và hiệu quả, trong đó cần chú trọng   các biện pháp mang tính vui chơi. SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 7
  8. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 “Học bằng chơi, chơi mà học” là phương châm xuyên suốt trong tổ chức  các hoạt động giáo dục trẻ  mầm non, đặc biệt là trẻ  MG 5­6 tuổi – độ  tuổi  mà hoạt động chủ  đạo là vui chơi.  Ở  độ  tuổi này, trẻ  đã có thể  nhận thức   những đặc điểm, mối liên hệ  bản chất của sự  vật hiện tượng và biết vận   dụng kiến thức có được vào các tình huống thực tiễn hay giả  định để  giải  quyết vấn đề. Điều này cho thấy sử dụng các trò chơi một cách hợp lý sẽ góp  phần kích thích hứng thú, phát triển các năng lực nhận thức, khám phá cho trẻ,   giúp trẻ ghi nhớ nội dung kiến thức một cách tích cực, chủ động và hình thành   thái độ hành vi phù hợp đối với thế giới xung quanh.  Thực tế  cho thấy hầu hết giáo viên mầm non đã sử  dụng các trò chơi  KPKH thường xuyên trong tổ  chức hoạt động KPKH nói chung, KPKH về  TGĐV nói riêng. Tuy nhiên, hệ  thống trò chơi mà giáo viên tham khảo, sử  dụng còn nghèo nàn, chưa được cập nhật một cách thường xuyên nên đôi lúc   còn nhàm chán  mệt mỏi, căng thẳng, không gây hứng thú  đối với trẻ. Hơn  nữa, hầu hết giáo viên gặp phải khó khăn trong việc  nghiên cứu thiết kế các  trò chơi dành cho trẻ MG lớn KPKH về TGĐV, dẫn đến việc sử dụng lặp đi  lặp lại mộ số trò chơi trong thời gian dài, dẫn đến hiệu quả hoạt động không  như mong đợi. Vì vậy, việc thiết kế hệ thống trò chơi KPKH về TGĐV cho  trẻ 5 – 6 tuổi là một vấn đề quan trọng và cần thiết nhằm làm phong phú thêm   thư  viện trò chơi KPKH về  TGĐV cho trẻ, giúp giáo viên tận dụng được   nguồn trò chơi trước mắt, sau đó có thể  tự  mình thiết kế  thêm các trò chơi  tương tự. Xuất phát từ những lí do trên, đề tài “Thiết kế trò chơi KPKH về TGĐV   cho trẻ MG 5 – 6 tuổi ” đã được lựa chọn để nghiên cứu nhằm đánh giá thực  trạng sử dụng và thiết kế trò chơi KPKH về TGĐV cho trẻ MG 5­6 tuổi của   GVMN, qua đó thiết kế một hệ thống trò chơi KPKH về TGĐV cho trẻ  MG  5­6 tuổi làm nguồn tư liệu hữu ích cho GVMN. SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 8
  9. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ  sở  nghiên cứu lí luận và thực tiễn của việc thiết kế  trò chơi  KPKH về TGĐV cho trẻ MG 5 – 6 tuổi, từ đó thiết kế một số trò chơi KPKH  nhằm cung cấp, chính xác hóa biểu tượng về TGĐV cho trẻ MG 5 – 6 tuổi. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Quá trình tổ  chức hoạt động KPKH về  TGĐV cho trẻ  MG 5 ­ 6 tuổi  ở  trường mầm non. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Trò chơi KPKH về TGĐV cho trẻ MG 5 – 6 tuổi. 4. Giả thuyết khoa học Nếu thiết kế được các trò chơi tập trung vào nội dung KPKH về TGĐV  với mục đích chơi và luật chơi phù hợp, hành động chơi đa dạng, sáng tạo,  phù hợp với khả năng của trẻ thì sẽ  góp phần kích thích hứng thú, phát triển  tư duy và hình thành biểu tượng đúng, đầy đủ và khái quát về TGĐV cho trẻ. 5. Phạm vi nghiên cứu 5.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu Đề  tài t ập trung t hi ết k ế  trò ch ơi h ọc t ập KPKH v ề  TGĐV cho trẻ  MG 5­6 tu ổi. 5.2. Giới hạn về mẫu nghiên cứu Nghiên cứu trên 40 giáo viên (GV) đứng lớp MG 5 ­ 6 tuổi tại 3 trường  mầm non trên địa bàn Tp Huế: Trường MN Hoa Mai (18 GV), trường Mầm   Non I (12 GV), trường MN Phú Hội (10 GV). 5.3. Giới hạn về thời gian nghiên cứu SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 9
  10. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 Nghiên cứu từ tháng 10/2017 đến tháng 5/2018 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 6.1. Nghiên cứu cơ  sở lí luận của việc thiết kế trò chơi KPKH về  TGĐV   cho trẻ MG 5 – 6 tuổi 6.2. Khảo sát thực trạng thiết kế và sử dụng trò chơi KPKH về TGĐV cho   trẻ MG 5 – 6 tuổi 6.3. Thiết kế trò chơi KPKH về TGĐV cho trẻ MG 5 – 6 tuổi 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận Thu thập tài liệu, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp tài liệu có liên quan  nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài nghiên cứu. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Nhằm thu thập thông tin có liên quan bằng cách khảo sát, phân tích, đánh  giá thực trạng của đề tài: 7.2.1. Phương pháp điều tra Tiến hành điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến đối với 40 GV đang phụ  trách các lớp MG lớn (5 ­ 6 tuổi)  ở 3 trường mầm non trên địa bàn thành phố  Huế: Trường MN Hoa Mai (18 GV), trường Mầm Non I (12 GV), trường MN   Phú Hội (10 GV). Phiếu điều tra được xây dựng sẵn, gồm 13 câu hỏi đóng và   mở  với nhiều lựa chọn nhằm thu thập những thông tin, tìm hiểu nhận thức   của giáo viên về việc thiết kế trò chơi KPKH về TGĐV cho trẻ MG 5 – 6 tuổi   cũng như những yếu tố  ảnh hưởng đến quá trình thiết kế trò chơi KPKH về  TGĐV. Quá trình điều tra tiến hành vào tháng 3 năm 2018. 7.2.2. Phương pháp quan sát SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 10
  11. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 Tiến hành quan sát, dự  giờ  bằng phiếu quan sát quá trình tổ  chức hoạt   động KPKH của giáo viên và trẻ MG 5 ­ 6 tuổi nhằm tìm hiểu việc tham gia   trò chơi trong hoạt động KPKH về  môi trường xung quanh, những biểu hiện   của trẻ khi tham gia trò chơi và cách tổ chức trò chơi cũng như  cách sử dụng   trò chơi của giáo viên. 7.2.3. Phương pháp phỏng vấn Trao đổi, trò chuyện với giáo viên để  nắm bắt thêm những thông tin về  lớp, trẻ; về những thuận lợi, khó khăn cũng như ý kiến, đề xuất của giáo viên   về việc thiết kế trò chơi KPKH về TGĐV cho trẻ MG 5 – 6 tuổi. 7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm Nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên, kế hoạch giáo dục, trò  chơi do giáo viên thiết kế, ... để  tìm hiểu thực trạng thiết kế  và sưu tầm,  nghiên cứu thiết kế những trò chơi KPKH về TGĐV của GVMN. 7.3. Phương pháp thống kê toán học Các số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu được chúng tôi xử  lý, phân tích bằng phép toán thống kê. 8. Cấu trúc đề tài Bố  cục khóa luận gồm có các phần Mục lục, Mở  đầu, Nội dung, Kết  luận và kiến nghị, Tài liệu tham khảo, Phụ  lục.  Phần nội dung khóa luận  được chia làm 3 chương như sau:  Chương 1: Cơ sở lí luận của việc thiết kế trò chơi KPKH về TGĐV cho  trẻ MG 5 – 6 tuổi Chương 2: Thực trạng thiết kế trò chơi KPKH về TGĐV cho trẻ MG 5 – 6  tuổi Chương 3: Thiết kế trò chơi KPKH về TGĐV cho trẻ MG 5 – 6 tuổi SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 11
  12. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 12
  13. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC THIẾT KẾ TRÒ CHƠI  KHÁM PHÁ KHOA HỌC VỀ THẾ GIỚI ĐỘNG VẬT  CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ MG, trong các trò chơi thì trò chơi  KPKH có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển năng lực và trí tuệ của trẻ như:  luyện giác quan, phát triển trí nhớ, ngôn ngữ, tư  duy, khả  năng phản  ứng   nhanh nhẹn, chính xác, nhờ vậy việc nghiên cứu, tổ chức hướng dẫn trò chơi   thu hút được sự  quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên thế  giới. Tuy nhiên chỉ  có những vấn đề  xoay quanh việc nói về  hoạt động vui  chơi của trẻ MG, các công trình nghiên cứu về trò chơi cụ thể như học thuyết   của Ph.Siller, nhà giáo dục N.K.Crupxkai, nhà giáo I.A.Komenxki, ... Để có cái   nhìn bao quát và cụ  thể  về  vấn đề  nghiên cứu, tôi tổng hợp các xu hướng   nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến việc nghiên cứu thiết kế  trò   chơi như sau: 1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.1.1. Nghiên cứu lí thuyết về trò chơi trẻ em Tính theo thời gian học thuyết đầu tiên về trò chơi là học thuyết “sức dư  thừa”của Ph.Siller và G.Spencer, ông là một nhà thơ  Đức nổi tiếng và còn là   một triết học. Ông coi trò chơi là cơ  sở  của các loại hình nghệ  thuật và trò   chơi là một hoạt động hết sức cần thiết của trẻ. Trò chơi là con đường tích   lũy những biểu tượng cụ  thể  về  thế giới xung quanh, các trò chơi phải vừa   sức, mang tính chất trực quan không gò bó trẻ. SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 13
  14. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 Những nhà giáo dục học tiến bộ  của Nga K.D.Usinxky (1824 ­ 1870) và  E.Ichikhieva (1806 ­ 1944) đã xuất phát từ nhận thức duy vật về bản chất trò  chơi, xem trò chơi là phương tiện giáo dục trẻ, công nhận khả  năng sự  cần   thiết phải có sự tổ chức hướng dẫn của người lớn đối với trẻ. [17] Nhà giáo I.A.Komenxki (1592 ­ 1670) Người tiệp Khắc: ông xem trò chơi  như một hoạt động hết sức cần thiết của trẻ, là phương tiện phát triển năng   lực, trí tuệ... Trò chơi còn là phương tiện, là con đường giúp trẻ  xích lại gần   nhau, tạo niềm vui chung cùng bạn bè. Từ đó ông khuyên các bậc cha mẹ, cô   giáo cần có thái độ  đúng mực trong việc hướng dẫn trẻ chơi nhằm phát huy  vai trò tích cực của trò chơi đối với sự phát triển của trẻ. Nhà giáo dục N.K.Crupxkai, bà cho rằng trò chơi là phương thức nhận  biết thế giới, là con đường dẫn dắt trẻ đi tìm chân lí, trẻ không chỉ  học trong  lúc học mà còn học cả  trong lúc chơi vì “chơi với trẻ  vừa là học, vừa là lao   động, vừa là hình thức giáo dục nghiêm túc... ”. Trò chơi là phương tiện nhận  thức về thế giới xung quanh của trẻ. [17] Ngay từ  thế  kỉ  XVII – XVIII những nhà giáo dục vĩ đại I.A.Komenxki   (1592­1670), J.J Rutxô (1712 – 1778), G.Pestalogi (1746 – 1670) đã coi trò chơi  là một hoạt động hết sức cần thiết của trẻ. Vì tuổi MG là thời kì phát triển   các giác quan nên người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ chơi, tiếp xúc với thế  giới xung quanh và tri giác bằng các giác quan (nghe, nhìn, ngửi, sờ  mó) với  những hành động cụ thể. Nhà giáo dục học Xô Viết lỗi lạc N.K.Krupxkaia coi  trò chơi đối với trẻ MG là học tập là lao động, là hình thức giáo dục nghiêm   túc. Và   cũng   đã   có   rất   nhiều   các   nhà   tâm   lí   học   khác   ở   phương   tây   như  Catherin Garvery, Rubin và các cộng sự, Jones và reynold, Docket Sua... cũng  đã đặt trò chơi vào trung tâm của chương trình giáo dục mầm non. 1.1.1.2. Nghiên cứu ứng dụng trò chơi vào quá trình giáo dục trẻ mầm non SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 14
  15. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 Quan điểm sử  dụng trò chơi vào mục đích học tập đã được khẳng định   ngay từ  cuối thế kỉ  XVIII trong khuynh hướng sư phạm tư sản ti ến bộ xu ất   hiện  ở  Đức với các nhà sư  phạm như  I.B.Bazedora, X.G.Zalxama... Các nhà  giáo dục này sử  dụng nhiều loại trò chơi khác nhau phù hợp đặc điểm lứa   tuổi của trẻ nhằm làm cho trẻ chú ý hơn đến việc học. Nhà giáo dục người Nga cho rằng “Trẻ  học vì là chơi, chơi để  mà học,  chơi mang lại niềm vui cho trẻ”. Khi trẻ ph ải chơi theo s ự áp đặt của người   lớn thì lúc ấy trò chơi không còn là trò chơi theo ý nghĩa của nó nữa. Theo E.L.Uđanxova – nhà giáo dục Xô Viết, trong tác phẩm “Trò chơi dạy   học cho trẻ em MG” đã cho rằng: “Nhờ sử dụng các trò chơi học  tập (TCHT)  mà quá trình dạy học trở thành một hình thức vui chơi vừa sức và hấp dẫn đối   với trẻ  MG, nhiệm vụ  học tập được giải quyết trong quá trình chơi”. Với  quan niệm đó tác giả đã đưa ra gần 200 TCHT phổ biến nhằm phát triển tiếng  nói và dạy trẻ học tính toán.  Trên   thế   giới,   nhiều   nhà   sư   phạm   nổi   tiếng   như   F.   Phroebel,   M.  Moontessori,   O.   Decroly,  E.I  Chikhieve,   R.I.   Giukovxkaia,   A.P.   Uxova,   A.I.  Xôrôkina...  đã giành nhiều tâm huyết cho việc soạn thảo ra các hệ  thống   TCHT có giá trị và dùng chúng để giáo dục và dạy học cho trẻ MG và các hệ  thống trò chơi ấy vẫn còn ý nghĩa giáo dục cho đến ngày nay. [16] Các nhà giáo dục có nhiều công trình nghiên cứu về  trò chơi, theo học  thuyết trò chơi là phương tiện giáo dục và nó giữ  vai trò quan trọng trong   việc giáo dục trí tuệ  cho trẻ. Cho nên cần đượ c vui chơi dưới sự  hướng  dẫn của người lớn. Theo luận điểm của các nhà lý luận dạy học Xô Viết  nổi tiếng Mnskatlin và I.ta – Leener, trong trò chơi người lớn cần hướng  dẫn cho trẻ chơi theo l ứa tu ổi, không áp đặt trẻ. Không chơi hộ  trẻ, để  trẻ  tự chơi theo ý thức và sự hiểu biết của mình để trẻ  tự làm chủ  những điều  mà chúng biết, làm giàu biểu tượng thiên nhiên. SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 15
  16. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước Trước nhiệm vụ đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo của   ngành giáo dục, cùng với xu thế đổi mới các hoạt động giáo dục trong trường   mầm non theo hướng “tích hợp theo chủ đề”, “lấy trẻ làm trung tâm”, ... trong   các trường mầm non hiện nay đã thúc đẩy nhiều nhà tâm lí, giáo dục Việt   Nam đi sâu nghiên cứu về trò chơi và ứng dụng chúng trong công tác dạy học  MG. Nội dung nghiên cứu tập trung vào các hướng: 1.1.2.1. Nghiên cứu về sử dụng trò chơi trong giáo dục trẻ mầm non Ở nước ta,vấn đề trò chơi nói chung và TCHT của trẻ MG được các nhà   tâm lí học và giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Nhóm tác giả Nguyễn Thạc,   Nguyễn Ngọc Trâm, Trần Lan Hương đã sưu tầm và biên soạn từ  chương  trình giáo dục sớm Kidsmart IBM “Tuyển tập các trò chơi phát triển cho trẻ  MG”, bên cạnh các trò chơi là lời gợi ý mang tính chất gợi mở, tạo cơ hội cho  cả cô và trẻ cùng học cùng chơi. Có thể nói đây là bước khởi đầu cho việc tổ  chức trò chơi theo hướng mới, hòa nhập với các nước trong khu vực. Đinh Văn Vang cũng khẳng định vai trò rất quan trọng của trò chơi đối với   sự phát triển của trẻ “TCHT là phương tiện, con đường cơ bản để phát triển   trí tuệ cho trẻ mầm non... ”. [15] Nguyễn Ánh Tuyết đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về trò chơi nói  chung và TCHT nói riêng. Tác giả  đặc biệt quan tâm đến ý nghĩa phát triển   của TCHT. Các nghiên cứu này còn chỉ  ra việc lựa chọn trò chơi sao cho nội  dung chơi, thao tác chơi phù hợp với lứa tuổi. Tác giả  đã khẳng định thế  mạnh của TCHT về  phương diện phát triển trí tuệ, nhận thức về  thế  giới  xung quanh một cách độc đáo ở trẻ. Từ đó lĩnh hội các khái niệm, biểu tượng  mới về  thế  giới xung quanh, có những kỹ  năng phù hợp đối với đối tượng.   [3], [14] Nguyễn Thị Hòa, Nguyễn Ánh Tuyết, Đinh Văn Vang đã làm rõ bản chất,  ý nghĩa, vai trò của TCHT đối với trẻ. TCHT là phương tiện, con đường cơ  SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 16
  17. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 bản để  phát triển trí tuệ  trẻ  MG. Bên cạnh đó còn khẳng định vai trò của  TCHT đến sự  phát triển các chức năng tâm lí của trẻ MG: giác quan, tư  duy,   tưởng tượng, trí nhớ, chú ý, ngôn ngữ. [3] Ngoài ra  còn  một  số  luận văn,  khóa  luận,  hàng  loạt  những công trình   nghiên cứu về  TCHT của trẻ  MG trong dạy học theo hướng đổi mới được  đăng tải trên các báo, tạp chí nghiên cứu giáo dục, kỉ  yếu, hội thảo và trên  mạng Internet. Một số công trình nghiên cứu về trò chơi của trẻ mầm non như  là hình thức, phương tiện, biện pháp, phương pháp giáo dục toàn diện nhân   cách cho trẻ. 1.1.2.2.  Nghiên cứu việc thiết kế  và sử  dụng trò chơi trong hoạt  động   khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 5 ­ 6 tuổi Có rất nhiều đề  tài nghiên cứu đã thực hiện và có thể  là đang thực hiện  những đề tài xoay quanh vấn đề này. Bởi vấn đề nghiên cứu thiết kế trò chơi   không còn xa lạ gì với các nhà nghiên cứu, những nhà tâm lí học, ... Tuy nhiên,  việc thiết kế đó có thật sự dựa vào trẻ, có thật sự đạt hiệu quả cao không thì  điều đó mới thực sự quan trọng. Và mỗi đề tài, mỗi cá nhân nghiên cứu sẽ thu   nhận được những kết quả khác nhau, có những điểm mới và những điểm kế  thừa: Nguyễn Thiều Dạ Hương (2014) đã thiết kế một số TCHT và đưa ra cách  sử  dụng TCHT trong hoạt động khám phá môi trường xung quanh nhằm phát  triển khả  năng khái quát hóa cho trẻ  5 – 6 tuổi. Tác giả  đưa ra các cơ  sở  lí   luận cũng như nghiên cứu về thực trạng vấn đề rất rõ ràng. Và từ đó thiết kế  hệ thống trò chơi cho trẻ cũng như đưa ra được cách sử dụng các trò chơi đó.   [4] Trần Thị  Huyền (2016) với đề  tài “Thiết kế  TCHT trên máy tính hướng  dẫn trẻ mầm non khám phá TGĐV”, đã nêu rõ các cơ sở lí luận của vấn đề và  thiết kế  một số trò chơi giúp trẻ khám phá TGĐV. Công trình cũng đã đi sâu   SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 17
  18. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 vào tìm hiểu cơ sở khoa học và nguyên tắc cũng như quy trình thiết kế TCHT.   [5] Nguyễn Thị Thanh Tâm (2013) đã đưa ra mục tiêu nghiên cứu là tìm ra cơ  sở  khoa học của quy trình thiết kế  và sử  dụng TCHT nhằm củng cố  biểu   tượng về  động vật cho trẻ  5 – 6 tuổi. Tác giả  đã đi sâu tìm hiểu về  việc sử  dụng TCHT cho trẻ mầm non qua việc khảo sát thực trạng, đưa ra nguyên tắc  thiết kế và sử  dụng TCHT, đồng thời đã thiết kế  bộ  trò chơi. Tuy nhiên, tác   giả  chưa giải quyết trọn vẹn và thấu đáo các nhiệm vụ  đã đề  ra trong công  trình nghiên cứu của mình. Đó là tác giả chưa đưa ra quy trình thiết kế và sử  dụng TCHT một cách cụ thể, khoa học giúp các giáo viên mầm non và các nhà  sư phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. [13] Tác giả  Nguyễn Thị  Hòa, trong cuốn “Phát huy tính tích cực nhận thức  của trẻ  MG 5 – 6 tuổi trong TCHT”, cũng đã khẳng định về  vai trò và tầm  quan trọng của việc thiết kế và sử  dụng TCHT, cũng như  tiến trình tổ  chức,  cách thức tổ chức và một số biện phát nhằm phát huy tính tích cực nhận thức   của trẻ thông qua TCHT ở trường mầm non. Từ đó GV có thể ứng dụng việc   thiết kế và sử dụng TCHT trong các hoạt động giáo dục, sao cho phù hợp với  đặc điểm tâm – sinh lí của trẻ tại trường mầm non qua từng hoạt động cụ thể  của trẻ.[2] Như  vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về  TCHT trong hoạt động  KPKH. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu việc thiết kế trò   chơi KPKH về TGĐV cho trẻ 5 – 6 tuổi. Đó là những tư liệu để chúng tôi kế  thừa và phát huy trong nghiên cứu của mình về việc thiết kế  trò chơi KPKH   về TGĐV. 1.2. LÍ LUẬN VỀ  KHÁM PHÁ KHOA HỌC VỀ THẾ GIỚI ĐỘNG VẬT  CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI 1.2.1. Khái niệm “Khám phá khoa học” SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 18
  19. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 1.2.1.1. Khám phá Theo Vũ Cao Đàm (1998), khám phá là một hoạt động trong nghiên cứu  khoa học nhằm nhận ra cái vốn có quy luật xã hội, vật thể, hiện tượng và  nhận ra cái vốn có quy luật tự nhiên; Từ đó có thể tạo ra cái chưa từng có mới  về nguyên lý kỹ thuật và có thể áp dụng được (sáng chế). Theo từ  điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ  học do Hoàng Phê chủ  biên:   Khám phá là tìm thấy, phát hiện ra cái ẩn giấu, bí mật. 1.2.1.2. Khoa học Có nhiều cách tiếp cận khác nhau theo các phương diện nghiên cứu khác  nhau về khái niệm khoa học: Theo từ  điển Wikipedia, khoa học là các nỗ  lực thực hiện phát minh, và  tăng lượng tri thức hiểu biết của con người về cách thức hoạt động của thế  giới vật chất xung quanh. Tri thức trong khoa h ọc là toàn bộ  lượng thông tin  mà các nghiên cứu đã tích lũy được. Khái niệm khoa học được chấp nhận phổ  biến rằng khoa học là tri thức tích cực đã được hệ thống hóa. Trần Thị  Ngọc Trâm và Nguyễn Thị  Nga (2010)  cho rằng:  “Khoa học là  kiến thức, hiểu biết thế giới; là quá trình tìm hiểu, khám phá thế  giới. Khoa  học với trẻ nhỏ là quá trình tìm hiểu, khám phá thế giới”. [10] Theo Bùi Phương Nga – Lương Việt Thái (2011): “Khoa học là những hình  thức, những phương thức hiểu biết về thế  giới xung quanh, giải đáp những  câu trả lời về các sự vật, hiện tượng trong thế giơi tự nhiên.” [8] Theo từ điển Giáo dục học của Nhà xuất bản từ điển Bách khoa, khoa học   là lĩnh vực hoạt động của con người nhằm tạo ra và hệ  thống hóa những tri   thức khách quan về thực tiễn, là một trong những hình thái ý thức xã hội bao   gồm cả  hoạt động để  thu hái kiến thức mới lẫn cả  kết quả  của hoạt động   SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 19
  20. Khóa luận tốt nghiệp                                                        Niên khóa 2014   ­2018 ấy, tức là toàn bộ  những tri thức khách quan làm nên nền tảng của một bức   tranh về thế giới.  Như  vậy, khoa học được xác định là hệ  thống tri thức tích cực có được  thông qua quá trình tìm tòi, phát hiện, khám phá thế giới xung quanh. 1.2.1.3. Khái niệm Khám phá khoa học Thuật ngữ KPKH thực sự được chính thức được sử  dụng trong chương   trình GDMN mới từ năm 2009, thay cho thuật ngữ Làm quen với môi trường  xung quanh ở các chương trình GDMN trước đó. Theo đó, có nhiều quan điểm  tiếp cận khác nhau về khái niệm này. Trong quyển “Các hoạt động KPKH của trẻ  mầm non” thì hoạt động  KPKH là quá trình trẻ tích cực tham gia hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế giới   tự nhiên. Đó là quá trình quan sát, so sánh, phân loại, thử nghiệm, dự đoán, suy  luận, thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định, ...  Theo Hồ  Thị Tường Vân thì hoạt động KPKH của trẻ mầm non là hoạt  động nhận thức nhằm chiếm lĩnh hệ  thống tri thức, là quá trình tim tòi, phát  hiện, khám phá thế  giới xung quanh bằng quan sát, so sánh, phân loại, thử  nghiệm, dự đoán, suy luận, thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định,   kết luận tăng hiểu biết cá nhân. Có thể thấy rằng, hầu hết các cách tiệp cận tđều đề  cập đến khái niệm   KPKH với các nội hàm như sau: (1) KPKH là hình thức nghiên cứu về đối tượng nhằm tìm tòi những bản   chất vốn có và phát hiện ra cái mới của đối tượng bằng việc tích cực tìm tòi,  thử nghiệm, khám phá thế giới xung quanh. (2) KPKH là hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm phát hiện ra tri thức  về thế giới xung quanh. SVTH: Võ Thị Tường Vy Trang 20
nguon tai.lieu . vn