Xem mẫu
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
BÙI THỊ THÙY
SỰ ÁM ẢNH CỦA KÍ ỨC
TRONG TIỂU THUYẾT
GA KÝ ỨC – PHONG ĐIỆP
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH
HÀ NỘI - 2016
- LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo,
TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh – ngƣời đã luôn quan tâm, động viên và tận tình
hƣớng dẫn tôi trong quát trình thực hiện khóa luận này.
Tôi chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt
là các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Bùi Thị Thùy
- LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của cô
giáo - TS Nguyễn Thị Tuyết Minh. Tôi xin cam đoan:
Đây là kết quả nghiên cứu tìm tòi của riêng tôi.
Đề tài không trùng với kết quả có sẵn của bất cứ tác giả nào khác.
Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Bùi Thị Thùy
- MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài:........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP TRONG ĐỜI SỐNG
VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ........................................................... 7
1.1. Giới thuyết về tiểu thuyết ........................................................................... 7
1.1.1 Khái niệm ................................................................................................. 7
1.1.2. Sự ra đời của tiểu thuyết ........................................................................ 8
1.1.3. Đặc điểm của tiểu thuyết ........................................................................ 8
1.2. Tiểu thuyết đƣơng đại Việt Nam ............................................................. 10
1.2.1. Về phƣơng diện nội dung ...................................................................... 10
1.2.2. Về phƣơng diện nghệ thuật ................................................................... 12
1.3. Tác giả Phong Điệp và tiểu thuyết Ga ký ức ........................................... 13
1.3.1. Tác giả Phong Điệp ............................................................................... 13
1.3.2. Tiểu thuyết Ga ký ức ............................................................................. 17
1.3.2.1. Hoàn cảnh ra đời ................................................................................ 17
1.3.2.2. Tóm tắt tiểu thuyết Ga ký ức .............................................................. 19
CHƢƠNG 2: CẢM THỨC KÍ ỨCVỚI NỘI DUNG TƢ TƢỞNG ............... 21
VÀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM GA KÝ ỨC ........................ 21
2.1. Nhan đề Ga ký ức ..................................................................................... 21
- 2.1.1. Khái lƣợc về nhan đề ............................................................................ 21
2.1.2. Nhan đề Ga ký ức .................................................................................. 21
2.2. Tình huống truyện khơi gợi kí ức ............................................................ 22
2.2.1. Khái niệm tình huống truyện ............................................................... 22
2.2.2. Tình huống truyện Ga ký ức ................................................................. 23
2.3. Nhân vật và sự ám ảnh của kí ức ............................................................. 25
2.3.1. Khái lƣợc về nhân vật văn học .............................................................. 25
2.3.2. Nhân vật trong Ga ký ức ....................................................................... 26
2.4. Thời gian và không gian nghệ thuật với mạch kí ức................................ 40
2.4.1. Khái niệm thời gian và không gian nghệ thuật ..................................... 40
2.4.2. Thời gian và không gian nghệ thuật trong Ga ký ức............................. 41
2.5. Giọng điệu hoài nhớ ................................................................................. 48
2.5.1. Khái niệm giọng điệu ............................................................................ 48
2.5.2. Giọng điệu trong Ga ký ức .................................................................... 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................
- MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Cùng với sự phát triển của lịch sử - xã hội, đời sống văn học thế
giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng, cũng đang biến đổi từng ngày
với những cách tân đáng kể trên cả hai bình diện nội dung và hình thức. Văn
học đƣơng đại đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới cánh nhìn nhận,
cánh tiếp cận con ngƣời và hiện thực đời sống, khám phá con ngƣời trong
những mối quan hệ đa dạng và phức tạp. Điều đáng nói nhất là văn học đã
quan tâm nhiều hơn tới những thân phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức
tạp, đời thƣờng. Song song với sự đổi mới ở phƣơng diện nội dung, các nhà
văn cũng không ngừng tìm tòi những cách thức thể hiện mới mẻ. Mỗi tác
phẩm văn học muốn sống trong lòng độc giả, tồn tại cùng thời gian đòi hỏi
ngƣời nghệ sĩ phải không ngừng sáng tạo, cách tân tạo nên sự độc đáo, khác
biệt. Do vậy, xu hƣớng cách tân văn học cả về nội dung tƣ tƣởng lẫn hình
thức luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà văn, đặc biệt là một số cây
bút nhƣ: Nguyễn Huy Thiệp, Dƣơng Hƣớng, Bảo Ninh, Nguyễn Bình
Phƣơng, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh và một số cây bút trẻ, trong đó phải kể
đến Phong Điệp với tiểu thuyết Ga ký ức.
1.2. Phong Điệp là một cây bút cần mẫn. Chị đã xuất bản 20 đầu sách
với 10 tập truyện ngắn, 4 tiểu thuyết, 2 tập đối thoại văn học, 3 tập truyện dài
cho thiếu nhi, một tập tản văn. Năm 2015, Phong Điệp ra mắt cuốn tiểu thuyết
có tựa đề rất “vang bóng một thời” là Ga ký ức. Đây là cuốn tiểu thuyết mới
nhất của Phong Điệp, là sự biểu hiện cụ thể cho sự trƣởng thành về tƣ duy
nghệ thuật, tính chuyên nghiệp, khả năng làm dày dặn vốn sống, linh hoạt và
sáng tạo trong ngôn ngữ, đặc biệt là ý thức tự làm mới của ngòi bút trẻ này.
Tác phẩm gây đƣợc sự chú ý của độc giả không chỉ bởi hình thức kết cấu “ba
trong một” mà còn ở phƣơng diện nội dung. Cảm thức tìm về thời quá vãng
của Ga ký ức có nhiều điểm đáng chú ý. Với mong muốn góp thêm tiếng nói
1
- vào sự khẳng định sáng tác của Phong Điệp, chúng tôi lựa chọn đề tài Sự ám
ảnh của ký ức trong tiểu thuyết Ga ký ức của Phong Điệp. Nghiên cứu thành
công vấn đề này, khóa luận mong muốn đóng góp thêm một cách tiếp cận,
một hƣớng khám phá về giá trịnội dung và nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết Ga
ký ức. Qua đó, có thể thấy đƣợc đóng góp của nhà văn trẻ này đối với thể loại
tiểu thuyết đƣơng đại Việt Nam.
1.3. Kết quả nghiên cứu còn hỗ trợ cho chúng tôi với tƣ cách là một
ngƣời giáo viên Ngữ văn tƣơng lai sẽ giảng dạy tốt hơn các tác phẩm văn học
đặc biệt là tác phẩm văn xuôi Việt Nam đƣơng đại ở trƣờng phổ thông. Bởi
vì, quá trình thực hiện đề tài cũng chính là quá trình ngƣời viết đƣợc rèn luyện
tốt hơn các kĩ năng, thao tác tƣ duy phân tích tác phẩm văn học, khám phá
đƣợc cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chƣơng và thấy đƣợc tài năng của
từng nghệ sĩ.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học là tấm gƣơng phản ánh đời sống, qua văn học ta nhận ra các
mảng hiện thực, có cả ánh sáng xen bóng tối, lòng vị tha, sự ích kỷ, niềm vui
và nỗi buồn. Nhà văn Thạch Lam đã từng viết: “Đối với tôi, văn chương
không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên. Trái lại,
văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa
tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc
thêm trong sạch và phong phú hơn”. Và cuốn tiểu thuyết Ga ký ức với đề tài
là câu chuyện đang diễn ra của thời đại, nói về đô thị hóa và con ngƣời biến
đổi trong xã hội đó. Phong Điệp đã đem đến văn chƣơng sự mới lạ, hiểu biết,
trải nghiệm về cuộc sống: “Viết với tôi trước hết là một thúc giục, một nhu
cầu tự thân, Ga ký ức là nỗi ám ảnh của tôi suốt nhiều năm qua. Những câu
chuyện ở đó, những số phận ở đó, nó có sự khác biệt rõ rệt với những tác
phẩm trước đây viết về cùng đề tài này. Hình thức thể hiện của cuốn tiểu
thuyết cũng sẽ gợi nhiều tò mò cho độc giả. Ga ký ức ở đâu? Liệu có một nơi
2
- nào như thế không? Tôi khai thác đề tài này theo cách chưa ai từng làm. Và
tôi thích sự liều lĩnh này”[24].
Trả lời phỏng vấn của phóng viên về cấu trúc tác phẩm, Phong Điệp
nói: “Với tư cách là người dựng nên Ga ký ức, thì lang thang trong “những
ngày buồn của bản thân, gia đình, làng xóm những năm của thập niên 80 thế
kỷ trước hay lặn vào các trò chơi cấu trúc, phiêu lưu trong thế giới của hư
cấu, tưởng tượng đều có vai trò quan trọng như nhau; và cùng góp phần
mang lại cảm xúc trọn vẹn nhất cho độc giả. Ga ký ức với ba chương gắn với
cuộc đời của ba nhân vật chính. Đó là những mảnh ghép không thể thiếu để
các nhân vật gặp nhau để câu chuyện về quá khứ và hiện thực đối diện nhau,
và cất lên tiếng nói của mình” [21].Phải sống đến một chặng thời gian nhất
định, phải trải qua nhiều tâm trạng, cảm xúc, phải tiếp xúc với rất nhiều
ngƣời, nhiều cuộc đời, cùng độ chín nhất định về tuổi tác, tôi mới có thể nghĩ
đến và bắt tay vào việc tái hiện ký ức từ quá khứ của mình và những ngƣời
khác, nhà văn Phong Điệp chia sẻ [18].
Ga ký ức là tác phẩm vừa ra đời năm 2015 nên hiện chƣa có công trình
nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu. Rải rác trên các báo và tạp chí có một vài bài
báo giới thiệu và trao đổi về tác phẩm.Nhà văn Bảo Ninh cho rằng: “Không
chỉ hay ở nội dung và văn phong, Ga ký ức còn độc đáo và mới lạ trong cấu
trúc”. Cũng theo Bảo Ninh, tiểu thuyết này là một “bức tranh sống động và
ám ảnh thể hiện được sâu sắc những biến chuyển của thời cuộc từ bao cấp
sang kinh tế thị trường” [20].
Nhà phê bình Nguyễn Hòa nhận xét: “Với tôi Ga ký ức là một biểu thị
cụ thể cho sự trưởng thành về tư duy nghệ thuật, tính chuyên nghiệp, khả
năng làm dày dặn vốn sống, linh hoạt và sáng tạo trong ngôn ngữ, đặc biệt là
ý thức tự làm mới của ngòi bút Phong Điệp” [15]. Trân trọng cách nhìn và
đánh giá cao cách khai thác, thể hiện của nhà văn Phong Điệp, Nguyễn Hòa
cho rằng: “Những câu chuyện được thêu dệt nên trong tiểu thuyết Ga ký ức
3
- không nặng nề, u ám hay mang con mắt hằn học, mà được truyền tải nhẹ
nhàng, ấm áp, có cả những chi tiết mang dư vị hài hước, cả một chút tự trào
với nhân vật cô bé dường như mang ít nhiều hình bóng ấu thơ của tác giả”
[18].
Nhà thơ Bùi Kim Anh cho biết, bà đọc miệt mài tiểu thuyết Ga ký ức
để tự mình sống lại những hình ảnh, câu chuyện bản thân, gia đình trong
những năm tháng khó khăn chung của thời cuộc. Những gì mà rất nhiều ngƣời
đã trải qua thời bao cấp là vô cùng phong phú, nhƣng những điều mà Phong
Điệp thu lƣợm đƣợc để đƣa vào tác phẩm của mình đã là đáng kể.
Nhà văn Lê Phƣơng Liên đề cao những trải nghiệm, khai thác thực tế
của Phong Điệp khi thể hiện nhiều câu chuyện, chi tiết đời sống thời bao cấp
và mong chờ “con tàu” của Phong Điệp sẽ còn vƣơn đến những chặng đƣờng
xa, những sân ga mới bằng sự tích lũy nhiều hơn nữa trên những nẻo đƣờng
của đất nƣớc [18].“Cũng là sự hồi tƣởng kí ức nhƣng tác giả viết theo lối
tƣơng đối nhanh, đƣa ra ba nhân vật khác nhau, ba tuyến đi khác nhau và cuối
cùng hội tụ lại ở một điểm "sân ga kí ức". Nó không bày sẵn trên câu chữ hay
ở cái kết mà nó đòi hỏi ngƣời đọc phải nhận ra đƣợc những điều mới, những
điều cần phải suy ngẫm"[23].
Nhìn chung, những ý kiến trên đây mới dừng lại ở nhận xét chung, lời
giới thiệu về tác phẩm. Tiếp thu gợi ý của các nhà nghiên cứu, trong khóa
luận này chúng tôi đi sâu nghiên cứu: Sự ám ảnh của kí ức trong tiểu thuyết
Ga ký ức - Phong Điệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu sự ám ảnh của ký ức
trong tiểu thuyết Ga ký ức, từ đó chỉ ra nét đặc sắc trong nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
4
- - Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu nét độc đáo của tiểu
thuyết Ga ký ức, từ đó nhận diện những cách tân của tiểu thuyết Việt Nam
đƣơng đại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là tiểu thuyết Ga ký ức của
Phong Điệp, do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2015.
- Cảm thức ký ức đƣợc biểu hiện ở nhiều yếu tố, song ở phạm vi khóa
luận này, chúng tôi chỉ tập trung triển khai ở một số phƣơng diện: nhan đề,
tình huống truyện, nhân vật, thời gian và không gian nghệ thuật, ngôn ngữ,
giọng điệu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp hệ thống
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận là công trình khoa học đầu tiên tìm hiểu sự ám ảnh của ký ức
trong tiểu thuyết Ga ký ức của Phong Điệp, qua các phƣơng diện: nhan đề,
tình huống truyện, nhân vật, thời gian và không gian nghệ thuật, ngôn ngữ,
giọng điệu…
Thông qua tiểu thuyết Ga ký ức, ngƣời viết thấy đƣợc những cách tân
của tiểu thuyết đƣơng đại Việt Nam. Hi vọng, đề tài này sẽ đƣợc dùng nhƣ
một tài liệu hữu ích cho những ai yêu thích tác giả Phong Điệp và mong muốn
tìm hiểu về tiểu thuyết của chị.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
khóa luận đƣợc triển khai ở hai chƣơng:
5
- Chƣơng 1: Tiểu thuyết của Phong Điệp trong đời sống văn xuôi Việt
Nam đƣơng đại
Chƣơng 2: Cảm thức ký ức trong nội dung tƣ tƣởng và hình thức nghệ
thuật tác phẩm Ga ký ức
6
- NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
TIỂU THUYẾT CỦA PHONG ĐIỆP
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Giới thuyết về tiểu thuyết
1.1.1 Khái niệm
Theo Bách khoa toàn thư:“Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư
cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã
hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất
tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề
xác định” [25].
Nhà nghiên cứu Nga Belinskicho rằng: "Tiểu thuyết là sử thi của đời
tư" chỉ ra khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập
trung vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển
của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian
nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách [25].
Giáo trình Lí luận văn học định nghĩa:“Tiểu thuyết là hình thức tự sự
cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn
rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của
nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đứa xã hội, miêu tả cụ thể
các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [7; 387].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học:“Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn
có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời
gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái
hiện nhiều tính cách đa dạng” [5; 328].
7
- Nhƣ vậy, có thể thấy các khái niệm trên đều đi đến một điểm chung:
Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời
sống xã hội, số phận cá nhân một cách sâu rộng, đồng thời tái hiện nhiều tính
cách đa dạng.
1.1.2. Sự ra đời của tiểu thuyết
Ở châu Âu, tiểu thuyết xuất hiện vào thời kỳ xã hội cổ đại tan rã và văn
học cổ đại suy tàn. Cá nhân con ngƣời lúc ấy không còn cảm thấy lợi ích và
nguyện vọng của mình gắn liền với cộng đồng xã hội cổ đại, nhờ vấn đề của
đời sống riêng tƣ đặt ra gay gắt. Giai đoạn phát triển mới của tiểu thuyết châu
Âu bắt đầu từ thời Phục hƣng (thế kỷ XIV – XVI) và đến thế kỷ XIX với sự
xuất hiện của các nghệ sĩ bậc thầy nhƣ Xtăng-đan, Ban-dắc, Thac-cơ-rây,
Đích-kenx, Gô-gôn, L.Tôn-xtôi, Đốt-xtôi-ép-xki, tiểu thuyết đã đạt tới sự nảy
nở trọn vẹn.
Ở Việt Nam, tiểu thuyết phát triển muộn. Mãi tới đầu thế kỷ XVIII, với
sự xuất hiện của Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí,
nƣớc ta mới có tác phẩm có quy mô tiểu thuyết (nhiều hồi, hàng trăm nhân
vật, bao quát một quãng thời gian dài hàng trăm năm). Tuy nhiên, xét về
nhiều mặt, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí vẫn
thuộc phàm trù tiểu thuyết cổ điển phƣơng Đông. Phải sang đầu thế kỷ XX,
nhất là với dòng văn học lãng mạn và hiện thực phê phán, ở Việt Nam mới có
tiểu thuyết hiện đại.
1.1.3 Đặc điểm của tiểu thuyết
So với các thể khác của loại hình tự sự thì đặc điểm tiêu biểu nhất của
tiểu thuyết là nhìn cuộc sống từ góc độ đời tƣ. Đặc trƣng này thoạt đầu đƣợc
hình thành ngay trong tiểu thuyết cổ đại. Càng về sau, đời tƣ càng trở thành
tiêu điểm để miêu tả cuộc sống một cách tiểu thuyết. Tùy theo từng thời kỳ
phát triển, cái nhìn đời tƣ có thể sâu sắc tới mức thể hiện đƣợc hoặc kết hợp
đƣợc với các chủ đề thế sự hoặc lịch sử dân tộc. Nhƣng yếu tố đời tƣ càng
8
- phát triển thì tính chất tiểu thuyết càng tăng, ngƣợc lại, yếu tố lịch sử dân tộc
càng phát triển thì chất sử thi càng đậm đà.
Nét tiêu biểu thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ, trƣờng ca,
thơ trƣờng thiên, anh hùng ca là chất văn xuôi, tức là một sự tái hiện cuộc
sống không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tƣởng hóa. Miêu tả cuộc sống nhƣ một
thực tại cùng thời, đang sinh thành, tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi
yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm
thƣờng, nghiêm túc và bình thƣờng, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Chất văn
xuôi nhƣ vậy thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết.
Thứ ba, cái làm cho nhân vật của tiểu thuyết khác với các nhân vật sử
thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện trung cổ là ở chỗ: nhân vật tiểu thuyết là
“con ngƣời nếm trải”, tƣ duy, chịu khổ đau, dằn vặt của cuộc đời trong khi
các nhân vật kia thƣờng là nhân vật hành động. Tiểu thuyết miêu tả con ngƣời
đang biến đổi trong hoàn cảnh, con ngƣời đang trƣởng thành do cuộc đời dạy
bảo. Những Luy-xiêng Xo-ren, Gô-ri-ô của Ban-dắc, An-na Ka-rê-ni-na của
L.Tôn-xtôi, Gri-gô-ri Mê-lê-khốp của Sô-lô-khốp, Thứ của Nam Cao đều là
những con ngƣời nếm trải và tƣ duy, vì vậy mà rất “tiểu thuyết”.
Thứ tƣ, thành phần chính của tiểu thuyết không phải chỉ là cốt truyện
và tích cách nhân vật nhƣ ở truyện vừa và truyện ngắn trung cổ. Ngoài hệ
thống sự kiện, biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu tả suy tƣ
của nhân vật về thế giới, về đời ngƣời, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình
cảm, mọi chi tiết về quan hệ giữa ngƣời và ngƣời, về đồ vật, môi trƣờng, nội
thất…
Thứ năm, tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách về giá trị giữa ngƣời trần
thuật và nội dung trần thuật của anh hùng ca, để miêu tả hiện thực nhƣ cái
hiện tại đƣơng thời cuả ngƣời trần thuật. Chính đặc điểm này làm cho tiểu
thuyết trở thành một thể loại dân chủ, cho phép ngƣời trần thuật có thể có thái
độ thân mật, thậm chí suồng sã đối với nhân vật của mình.
9
- Cuối cùng, với các đặc điểm đã nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học có
khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn
học khác. Tiểu thuyết thế kỷ XIX – XX đã cung cấp nhiều mẫu mực về sự
tổng hợp đó. Chẳng hạn tiểu thuyết sử thi-tâm lí của L.Tôn-xtôi (Chiến tranh
và hòa bình), tiểu thuyết kịch của Đốt-xtôi-ép-xki, tiểu thuyết tâm lí-trữ tình
của Mác-xen Pru-xtow (Đi tìm thời gian đã mất), tiểu thuyết thế sự-trữ tình
của Go-rơ-ki (Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi), tiểu
thuyết sử thi-trữ tình của Hê-ming-uê (Chuông nguyện hồn ai), tiểu thuyết sử
thi của Sô-lô-khốp (Sông Đông êm đềm), tiểu thuyết trí tuệ của T.Man, tiểu
thuyết huyền thoại của G.Mác-két. Ngoài ra, còn có thể nói tới tiểu thuyết tƣ
liệu, tiểu thuyết chính luận…
Chính hiện tƣợng tổng hợp trên đã làm cho thể loại tiểu thuyết cũng
đang vận động, không đứng yên. Nhà nghiên cứu Xô Viết Ba-khơ-tin cho
rằng, tiểu thuyết là “thể loại duy nhất đang hình thành và chƣa xong xuôi”.
1.2. Tiểu thuyết đƣơng đại Việt Nam
1.2.1 Về phương diện nội dung
Những năm 80 của thế kỷ XX đánh dấu bƣớc chuyển mạnh của văn
xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng, với đề tài nổi lên là gia đình, tình yêu,
những vấn đề đạo đức – thế sự, hƣớng vào các giá trị nhân bản, mạnh dạn đề
xuất những chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với thời đại. Tiểu thuyết Việt
Nam đƣơng đại so với tiểu thuyết trong thời kỳ chiến tranh đã có nhiều
chuyển biến mới trong đề tài, cốt truyện, nhân vật, đến thể loại và thi pháp.
Đó là sự chuyển hƣớng dần từ tƣ duy sử thi sang tƣ duy thế sự, chuyển từ cảm
hứng ngợi ca, khẳng định, sang chiêm nghiệm suy tƣ. Ta đã quen cái nhìn
rạch ròi thiện – ác, bạn – thù trong thời kỳ trƣớc thì trong tiểu thuyết đƣơng
đại là cái nhìn đa chiều phức tạp về hiện thực và số phận con ngƣời. Vẫn còn
tiểu thuyết mang tinh thần sử thi nhƣng không mấy thành công. Đề tài lịch sử
đang dần nhƣờng chỗ cho đề tài thế sự và đời tƣ gắn với nhu cầu công bố kinh
10
- nghiệm cá nhân. Tiểu thuyết đã dám nhìn vào những mảnh vỡ, những bi kịch
nhân sinh, những mặt tối của cuộc sống bằng cái nhìn trung thực và táo bạo.
Hiện thực về con ngƣời trở nên phong phú nhiều chiều. Bên cạnh “con ngƣời
ý thức” còn có “con ngƣời vô thức”, bên cạnh “con ngƣời tự nhiên” có “con
ngƣời tâm linh”, có ngƣời “lớn hơn thân phận mình”, lại có ngƣời “bé nhỏ
hơn tính ngƣời của mình”. Biết bao vênh lệch trong thói quen, trong chuẩn
mực giá trị, biết bao bi kịch chƣa hề xuất hiện trong chiến tranh, bao vấn đề
bề bộn, phức tạp thời hậu chiến – đó là những bức xúc, nhức nhối mà văn học
hôm nay cố gắng phản ánh. Nhà văn không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm cộng
đồng nhƣ trƣớc đây. Họ phải dựa cả vào kinh nghiệm cá nhân, vào trực giác,
lắng nghe những mách bảo của tiềm thức, tìm đến những suy đoán dự cảm,
thậm chí vƣợt khỏi thói quen và chuẩn mực thông thƣờng khi phản ánh và lý
giải hiện thực – cái hiện thực đầy biến ảo trong muôn ngàn dạng thái của
những số phận đời tƣ, những tình trạng đạo đức xã hội. Trong tác phẩm Thời
xa vắng, Lê Lựu không chỉ đặt vấn đề nhân cách con ngƣời mà còn phân tích
tác động ngặt nghèo của hoàn cảnh khiến con ngƣời bị hoàn cảnh nhào nặn
thành kẻ buông xuôi, không tự định đoạt đƣợc cuộc sống của mình. Các nhà
văn quan tâm nhất tới số phận con ngƣời và bi kịch đời thƣờng của họ, đó là
bi kịch giữa khát vọng và thực tại, giữa sự cố gắng vƣơn lên và sự bị kìm
hãm, nhân bản và phi nhân bản… Những mạch ngầm và ghềnh thác của mỗi
phận ngƣời trong và sau chiến tranh đƣợc khai thác toàn vẹn hơn (Nỗi buồn
chiến tranh – Bảo Ninh); với cuộc sống hiện tại (Mảnh đất lắm người nhiều
ma – Nguyễn Khắc Trƣờng...
Khám phá cái thế giới sâu thẳm của con ngƣời cá nhân trở thành cảm
hứng sáng tạo mạnh mẽ của các nhà văn. Tiểu thuyết giai đoạn này đã “quan
niệm con ngƣời cá nhân nhƣ một nhân cách, một nhân cách kiểu mới. Đó là
những con ngƣời vừa có khiếm khuyết, bất toàn; vừa đẹp đẽ, thánh thiện. Đặc
biệt, ở giai đoạn văn học này, các cây bút đã đi vào khám phá con ngƣời tự
11
- nhiên và những chiều sâu bí ẩn của tâm linh, tiềm thức, vô thức. Các sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình
Phƣơng… đều nhấn mạnh phƣơng diện bản thể tự nhiên của con ngƣời, tạo
nên tiếng nói đa thanh đầy “hòa âm” và “nghịch âm” trong tiểu thuyết đƣơng
đại.
1.2.2 Về phương diện nghệ thuật
Cùng với sự đổi mới về nội dung, các nhà văn đã cố gắng tìm tòi, thể
hiện những cách tân về phƣơng diện nghệ thuật. Bên cạnh những cốt truyện
giàu kịch tính là những cốt truyện giàu tâm trạng. Những tác phẩm tiếp nối
truyền thống có kết cấu cốt truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, có kết thúc
(Thời xa vắng - Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều ma– Nguyễn Khắc
Trƣờng, Vầng lửa ngũ sắc – Ngô Văn Phú, Cỏ thiêng – Hồng Phi…). Bên
cạnh đó, những tiểu thuyết đƣợc làm mới với cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, mơ
hồ, co giãn, khó tóm tắt, khó kể lại, kết thúc mở (Ngược dòng nước lũ – Ma
Văn Kháng, Ăn mày dĩ vãng – Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh,
Chim én bay – Nguyễn Trí Huân, Cơ hội của chúa – Nguyễn Việt Hà…).
Đối tƣợng phản ánh của văn học cũng đã đƣợc di chuyển từ một “quá
khứ tuyệt đối” sang một hiện tại chƣa hoàn thành cùng những nhân vật chƣa
hoàn kết. Từ vai trò đại diện cho sức mạnh, tầm vóc, trí tuệ và vẻ đẹp cộng
đồng đến sự đại diện cho bản chất NGƢỜI trong mỗi cá nhân, vị trí của nhân
vật đã có sự di chuyển từ khoảng cách cao cả tôn kính tới sự gần gũi đời
thƣờng. Đó không phải là sự hạ thấp nhân vật, trái lại đó là cách thể hiện toàn
vẹn hơn các nhân vật, là sự khẳng định tính dân chủ, tích cực của văn chƣơng,
khiến cho văn chƣơng trở về gần hơn với cuộc đời, với con ngƣời. Chức năng
khái quát tính cách của nhân vật cũng mờ nhạt hơn mà thay vào đó nhân vật
chủ yếu đƣợc nhà văn gửi gắm một tƣ tƣởng nào đó (Thiên sứ - Phạm Thị
Hoài), là phƣơng tiện để nhìn lại quá khứ (Bước qua lời nguyền – Tạ Duy
Anh)… Để khắc họa chân dung nhân vật đầy đặn hơn, các nhà văn đã sử dụng
12
- kỹ thuật đồng hiện, độc thoại nội tâm (Ăn mày dĩ vãng – Chu Lai), đa giọng
điệu (Đi tìm nhân vật – Tạ Duy Anh)…
Con ngƣời không còn thuần túy là đối tƣợng văn học ngợi ca mà còn là
đối tƣợng để nhà văn nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đối chứng. Do đó,
giọng điệu trần thuật từ trang trọng tôn kính chuyển sang thân mật, suồng sã
đời thƣờng. Lối viết đa thanh, phức điệu cũng đƣợc sử dụng triệt để. Bên cạnh
đối thoại, độc thoại nội tâm cũng là một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong
quá trình tự ý thức của nhân vật, đi sâu vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn của
nhân vật. Đặc biệt kỹ thuật dòng ý thức sử dụng thời gian đồng hiện, hồi ức,
hoài niệm, dòng suy tƣởng, những giấc chiêm bao… để nhân vật tự bộ lộ
những miền sâu kín của tâm hồn nằm ngoài vòng kiểm soát của ý thức con
ngƣời. Nhà văn khơi sâu vào cõi tâm linh, vô thức của con ngƣời, khai thác
“con ngƣời ở bên trong con ngƣời”. Thủ pháp này thể hiện rõ trong các tiểu
thuyết Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Chim én
bay (Nguyễn Trí Huân), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài)…
Nhƣ vậy, giai đoạn này các nhà văn đã có những cố gắng tìm tòi, có sự
cách tân cả về phƣơng diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật làm cho diện
mạo tiểu thuyết trở nên phong phú, đa diện hơn.
1.3. Tác giả Phong Điệp và tiểu thuyết Ga kí ức
1.3.1. Tác giả Phong Điệp
Nhà văn Phong Điệp,tên thật là Phạm Thị Phong Ðiệp, sinh ngày
06/06/1976 tại Nam Ðịnh; Cử nhân Luật, Cử nhân Kinh tế và là Hội viên Hội
Nhà Văn Việt Nam. Hiện chị làm việc tại báo Văn nghệ Trẻ - Hội Nhà văn
Việt Nam.
Phong Điệp đến với văn chƣơng từ khi còn là học sinh chuyên Văn của
trƣờng PT Trần Đăng Ninh, TP Nam Định. Tốt nghiệp Đại học Luật nhƣng
Phong Điệp lại đƣợc biết đến với tƣ cách là một nhà văn, nhà báo, biên tập
viên…
13
- Phong Điệp học giỏi và nổi tiếng từ rất sớm. Chị viết văn từ lúc mới 12
tuổi. Khi đó, đã từng có hẳn một chƣơng trình của đài truyền hình Trung ƣơng
về cô bé yêu văn chƣơng Phong Điệp đƣợc phát sóng, và chị trở thành thần
tƣợng của không ít bạn bè. Nhƣng rồi chị chọn ngành Luật để theo học. Và
ngành Luật, với đặc thù riêng của nó, ít nhiều có ảnh hƣởng đến tính cách của
chị: khoa học, chuẩn mực, hợp lý.
Sau một vài cay đắng tuổi trẻ, chị nhanh chóng giã từ những đám đông
ồn ào, tự thiết lập cho mình một thái độ sống kiệm lời và viết. Chị có khả
năng viết song song cùng lúc nhiều cuốn sách, tốc độ viết của chị rất nhanh,
chị còn trẻ mà lúc nào cũng nhƣ đang chạy đua với thời gian vậy. Nhìn vào
danh mục tác phẩm của Phong Điệp có thể nhận ra chị đã cần mẫn nhƣ thế
nào trên cánh đồng chữ.
Chúng ta không khó để tìm ra ví dụ về một ngƣời viết trẻ nào đó nổi
đình nổi đám chỉ bởi những phát ngôn gây sốc, những “pha” làm hàng quái
chiêu, những trò PR tiểu xảo để gây chú ý, những ngộ nhận, lầm tƣởng một
cách đáng thƣơng về sự nổi tiếng, mà không phải bằng tác phẩm. Còn Phong
Điệp đã chọn lấy một cách thể hiện mình đúng nhất, là viết và thấm thía mọi
giá trị của đời sống trong việc viết.Trang phongdiep.net, từ một trang web cá
nhân của Phong Điệp nay đã trở thành một diễn đàn về văn học nghệ thuật có
uy tín, đƣợc nhiều ngƣời truy cập.
Bằng sự nhạy cảm của ngƣời phụ nữ cầm bút và những vui buồn đã trải
nghiệm, Phong Điệp nhận ra giá trị của hạnh phúc. Rằng, hành trình tìm kiếm
tình yêu, hạnh phúc thật chẳng dễ dàng gì, và nếu bạn đang sở hữu nó, hãy
biết nâng niu, giữ gìn. Có một gia đình, một ngƣời chồng để yêu thƣơng và
những đứa con ngoan luôn nhắc nhở chị, ngoài vai trò là một nhà báo, nhà
văn, chị còn là một ngƣời phụ nữ của gia đình. Ngƣời cầm bút viết văn, nói
lòng bình yên thì có lẽ không ai tin. Nhƣng Phong Điệp đang có một cuộc
sống bình yên, ít nhất là theo cách mà chị muốn tạo ra. Và chị chăm chút cho
14
- đời sống ấy, thậm chí bảo vệ nó, để mỗi khi ngồi vào bàn viết, trƣớc trang
giấy chị thấy mình không bị vƣớng bận và đƣợc “bay” hoàn toàn trong thế
giới của riêng mình.
Là chủ nhân của 20 đầu sách ở nhiều thể loại khác nhau, từ truyện
ngắn, tiểu thuyết cho đến truyện dài cho thiếu nhi hay tản văn và đối thoại văn
học... Phong Điệp tỏ ra trƣờng sức và bền bỉ với những trang viết nối liền tuổi
thanh xuân của mình trong suốt gần 20 năm qua.
Phong Điệp có những tác phẩm sau đây:
Tập truyện ngắn: Khi ta hai mươi (NXB Trẻ, 1996)
Tập truyện ngắn: Ma mèo (NXB Trẻ, 1997)
Tập truyện ngắn: Người phía bên kia đường (NXB Trẻ, 2000)
Tập truyện ngắn: Phòng trọ (NXB Thanh niên, 2001)
Tập truyện ngắn: Giấc mơ bay qua cửa sổ (NXB Kim Đồng, 2002)
Tập truyện ngắn: Người của ngày hôm qua (NXB Kim Đồng, 2003)
Tập truyện ngắn: Vườn hoang (NXB Thanh niên, 2005)
Truyện dài: Lạc chốn thị thành (NXB Trẻ, 2005)
Tản mạn văn học: Mạn đàm văn chương thời @ (NXB Thanh niên,
2007)
Tập truyện ngắn: Kẻ dự phần (NXB Hội Nhà văn, Công ty Bách Việt
hợp tác xuất bản năm 2008; NXB Văn học tái bản năm 2013, NXB Riveeneu
xuất bản tại Pháp 2014, dịch giả Nguyễn Phƣơng Ngọc chuyển ngữ)
Tập truyện ngắn và tản văn Delete (in chung với nhà văn Nguyễn Việt
Hà, NXB Rivenuve – Pháp, 2013)
Tiểu thuyết: Blogger (NXB Hội Nhà văn, Công ty Bách Việt hợp tác
xuất bản 2009, NXB Văn học tái bản năm 2013)
Truyện thiếu nhi: Nhật kí Sẻ đồng, Chào em bé (NXB Kim Đồng,
2011)
15
nguon tai.lieu . vn