Xem mẫu

  1. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, nhân loại đang bước sang một kỷ nguyên mới kỷ nguyên của nền kinh tế thông tin và tri thức. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tác động mạnh mẽ tới mọi hoạt động của đời sống xã hội trong đó có hoạt động Thông tin – Thư viện. Đặc biệt, các thư viện trên thế giới đang có xu hướng tự động hóa nghiệp vụ hoặc chuyển sang các loại hình thư viện điện tử, thư viện số nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tri thức và thông tin không ngừng gia tăng nhanh chóng trong xã hội. Giờ đây các tài liệu trong thư viện không chỉ đơn thuần là các tài liệu truyền thống như sách báo, tạp chí mà còn bao gồm các loại tài liệu dạng số như: Cơ sở dữ liệu (CSDL) trên mạng, đĩa CD, DVD…Chính vì vậy mà công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số được các thư viện đặc biệt quan tâm và coi đây là vấn đề quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả cung cấp thông tin tới người dùng tin. Thư viện Quốc gia Việt Nam là Thư viện trung tâm của cả nước, là thư viện đứng đầu trong hệ thống thư viện công cộng, đi đầu trong công tác tự động hoá và ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin vào hoạt động của mình, ngoài việc hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ thì công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số cũng là một vấn đề đang được Thư viện đặc biệt quan tâm nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu tin ngày càng tăng cao và đa dạng. Nhận thấy được tầm quan trọng đó tôi đã quyết định chọn đề tài: “Số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của khóa luận nhằm tìm hiểu và bổ sung những kiến thức thực tế cho bản thân và góp một phần nhỏ bé vào việc tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện, phục vụ cho công tác nghiên cứu, giáo K51 Thông tin – Thư viện
  2. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy dục, đào tạo và các nhu cầu khác của người dùng tin góp phần vào sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là khảo sát thực trạng công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. Qua việc khảo sát đề tài sẽ phân tích, đánh giá, đưa ra một số nhận xét và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để giải quyết được mục đích đề ra, nhiệm vụ của khóa luận là: - Nêu được vị trí và vai trò của nguồn tài liệu số đối với sự phát triển của Thư viện Quốc gia Việt Nam. - Khảo sát thực trạng công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. - Nhận xét, đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. 3. Tình hình nghiên cứu theo hƣớng đề tài Cho đến nay đã có rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và tìm hiểu về Thư viện Quốc gia Việt Nam với các đề tài như: - “Nghiên cứu hoạt động tra cứu thông tin tại Thư viện Quốc gia Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn Thị Hoài Thu, khóa luận tốt nghiệp năm 2001. - “Công tác bảo quản vốn tài liệu ở Thư viện Quốc gia Việt Nam” của Ngô Thị Hằng Nga, khóa luận tốt nghiệp năm 2004 - “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động lưu chiểu ở Thư viện Quốc gia Việt Nam” của Nguyễn Thị Hảo, khóa luận tốt nghiệp năm 2004. K51 Thông tin – Thư viện
  3. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy - “Lịch sử phân loại tài liệu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam” của Vũ Quỳnh Nhung, khóa luận tốt nghiệp năm 2005. - “Công tác phát triển vốn tài liệu của Thư viện Quốc gia Việt Nam” của Nguyễn Thị Thu Hiền, khóa luận tốt nghiệp năm 2006. - “Tìm hiểu công tác tổ chức và phục vụ kho mở tại Thư viện Quốc gia Việt Nam” của Nguyễn Thị Thảo Hà, khóa luận tốt nghiệp năm 2008. - “Công tác tổ chức và bảo quản vốn tài liệu quý hiếm tại Thư viện Quốc gia Việt Nam” của Nghiêm Thị Bình, khóa luận tốt nghiệp năm 2008. Ngoài ra còn nhiều đề tài khác về Thư viện Quốc gia Việt Nam như: Nguồn nhân lực tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, tìm hiểu công tác xây dựng và phát triển vốn tài liệu… Tuy nhiên, đề tài về công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam thì chưa được nghiên cứu sâu và hoàn chỉnh. Vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài này nhằm tìm hiểu thực trạng công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số của Thư viện và vận dụng những kiến thức đã học từ nhà trường áp dụng vào một số hoạt động của Thư viện. Từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài được xác định là công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn về mặt không gian và thời gian là: “Công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: - Khóa luận được viết trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác Lê nin K51 Thông tin – Thư viện
  4. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế - Phương pháp trao đổi với cán bộ thư viện và phỏng vấn người dùng tin. - Phương pháp thống kê - Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu liên quan. 6. Ý nghĩa khoa học của đề tài - Về lý luận: Khóa luận làm rõ nội hàm các khái niệm liên quan đến tài liệu số: số hóa tài liệu, thư viện số, tài liệu số,...; Tầm quan trọng của công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số đối với thư viện. - Về thực tiễn: Đưa ra một số nhận xét và đề xuất giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ viết tắt, phụ lục thì bố cục chính của khóa luận được chia thành 3 chương: Chương 1: Thư viện Quốc gia Việt Nam và những vấn đề chung về tài liệu số. Chương 2: Thực trạng số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. Chương 3: Một số nhận xét và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. K51 Thông tin – Thư viện
  5. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 THƢ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI LIỆU SỐ Khái quát về Thƣ viện Quốc gia Việt Nam 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Tiền thân của Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQGVN) là Thư viện Trung ương Đông Dương trực thuộc Nha lưu trữ và Thư viện Đông Dương, được thành lập theo Nghị Định của toàn quyền Pháp Anbe Xarô (Alert Sarraut) ký ngày 29/11/1917. Trụ sở Nha đặt tại đường Boocnhi Đêboocđơ (Borguis Deborders) Hà Nội, mà trước đó là khu vực trường thi tuyển chọn nhân tài thời phong kiến rồi đến trụ sở Nha Kinh lược Bắc Kỳ, nay là số 31 phố Tràng Thi. Sau gần hai năm chuẩn bị, ngày 01/09/1919 Thư viện chính thức mở cửa phục vụ bạn đọc. Ngày 28/02/1935, Thư viện Trung ương Đông Dương đổi tên là Thư viện Pie Patxkiê (Pierre Pasquier), tên một viên Toàn quyền có nhiều đóng góp cho Thư viện. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định đổi tên Thư viện Pie Patxkie (Pierre Pasquire) thành Quốc gia Thư viện. Tháng 02/1947 Pháp chiếm lại Hà Nội Thư viện lại được đổi tên thành Thư viện Trung ương trực thuộc Phủ cao ủy Pháp tại Sài Gòn. Năm 1953, Thư viện Trung ương sát nhập vào Viện Đại học Hà Nội và đổi tên là Tổng Thư viện Hà Nội. Giữa năm 1954, trước khi rút chạy khỏi miền Bắc, thực dân Pháp đã đưa một phần kho sách của Tổng Thư viện vào Sài Gòn. K51 Thông tin – Thư viện
  6. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy Đến tháng 10/1954, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản Hà Nội, tiếp quản thư viện, trên văn bản mang tên là Thư viện Trung ương từ Bộ Giáo dục sang Bộ Tuyên truyền (sau là Bộ Văn hóa). Ngày 29/06/1957, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cho phép đổi tên Thư viện thành Thư viện Quốc gia Việt Nam. Ngày 28/11/1958, Thư viện chính thức mang tên Thư viện Quốc gia do Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định. Năm 1982, TVQGVN được Thư viện Liên hiệp quốc công nhận là Thư viện tàng trữ tài liệu Liên Hiệp Quốc của khu vực Đông Dương. Năm 2000, Thư viện Quốc gia chính thức gia nhập Hiệp hội Thư viện Quốc tế IFLA (International Federation of Library Association and Institution). Thư viện Quốc gia với bề dày hơn 90 năm xây dựng và phát triển, qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ Thư viện Trung ương đến Thư viện Quốc gia, bao giờ cũng là Thư viện hàng đầu của nước ta. Nó chính là Thư viện Khoa học Tổng hợp lớn nhất trong cả nước, là Thư viện đứng đầu trong Hệ thống Thư viện Công cộng nhà nước, là Thư viện tiêu biểu cho nền văn hóa của dân tộc, là trung tâm giao lưu các mối quan hệ giữa các Hệ thống Thư viện trong cả nước và quan hệ quốc tế. 1.1.2. Đội ngũ cán bộ Thƣ viện Quốc gia Việt Nam Như chúng ta đã biết, cán bộ thư viện là linh hồn của thư viện. Trong hệ thống giao tiếp “Tài liệu – Thư viện – Người sử dụng”, cán bộ thư viện là yếu tố cực kỳ quan trọng, vai trò của họ rất lớn. Nhiệm vụ của người cán bộ rất phức tạp. Trong mối quan hệ với tài liệu, cán bộ thư viện là người lựa chọn, xử lý, bảo quản, sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định, giới thiệu chúng với người sử dụng thư viện. K51 Thông tin – Thư viện
  7. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy Trong mối quan hệ với cơ sở vật chất – kỹ thuật, cán bộ thư viện tiến hành trang bị chuyên biệt cho các diện tích và luôn luôn giữ cho cơ sở vật chất – kỹ thuật ở tình trạng tốt nhất. Trong mối quan hệ với bạn đọc, cán bộ thư viện là người môi giới giữa sách và người đọc, là người tổ chức mối quan hệ giữa sách và người đọc, làm trung gian giữa bạn đọc với bạn đọc, họ không chỉ tuyên truyền giới thiệu một cách tích cực tài liệu mà còn nghiên cứu nhu cầu đọc, hướng dẫn đọc phù hợp với nhu cầu, đồng thời tạo ra các dịch vụ thỏa mãn các nhu cầu đó. Cán bộ thư viện là người tổ chức, tạo điều kiện tối ưu cho việc phối hợp thành công mối quan hệ giữa con người với thông tin, làm cho việc khai thác, sử dụng thông tin có hiệu quả, làm tăng giá trị thông tin. Như vậy, cán bộ thư viện không chỉ là cầu nối giữa sách và bạn đọc mà còn là cầu nối tài liệu với tài liệu, tài liệu với cơ sở vật chất – kỹ thuật, cơ sở vật chất – kỹ thuật với người đọc. Theo số liệu thống kê về số lượng cán bộ tại TVQGVN năm 2010 có tới 176 người. Họ là những người cán bộ có trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học có khả năng đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của Thư viện. Trong 176 cán bộ có: 1 cán bộ trình độ tiến sỹ, gần 20 cán bộ trình độ thạc sỹ, 70% cán bộ có trình độ đại học. Số lượng cán bộ cụ thể ở các phòng ban như sau: - Phòng lưu chiểu: 7 cán bộ - Phòng bổ sung: 7 cán bộ - Phòng phân loại – biên mục: 16 cán bộ - Phòng đọc sách: 26 cán bộ - Phòng Báo, tạp chí: 19 Cán bộ - Phòng Thông tin – tư liệu: 8 cán bộ - Phòng Nghiên cứu khoa học: 5 cán bộ - Phòng Quan hệ quốc tế: 4 cán bộ K51 Thông tin – Thư viện
  8. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy Ngoài ra còn có 1Giám đốc và 3 Phó Giám đốc cùng các phòng ban chức năng khác nhau nữa. 1.2. Tầm quan trọng của nguồn tài liệu số đối với sự phát triển của Thƣ viện Quốc gia Việt Nam 1.2.1. Một số khái niệm chung Ngày nay, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của sự bùng nổ thông tin. Trong thời gian gần đây có rất nhiều những khái niệm mới được dùng trong sách, báo, trên internet như thư viện điện tử, thư viện số, tài liệu điện tử, tài liệu số, số hóa…Các khái niệm này hiện nay đang được dùng chưa hoàn toàn thống nhất, do vậy, trong khóa luận cần làm rõ nội hàm các khái niệm này. - Thư viện điện tử (TVĐT): Khái niệm về thư viện điện tử được định nghĩa như sau: “Một hệ thống thông tin trong đó các nguồn thông tin đều có sẵn dưới dạng có thể xử lý được bằng máy tính và trong đó tất cả các chức năng bổ sung, lưu trữ, bảo quản, tìm kiếm, truy cập và hiển thị đều sử dụng công nghệ thông tin”. Sự xuất hiện khái niệm này có liên quan trực tiếp tới sự bùng nổ thông tin trên Internet và Web mang lại. Khái niệm này đang được các chuyên gia công nghệ thông tin sử dụng để chỉ toàn bộ hệ thống bất kể có dựa trên một thư viện truyền thống hay không. Môi trường kỹ thuật Internet hiện nay thậm chí cho phép một số người coi toàn thể nguồn thông tin trên mạng một lúc nào đó như một thư viện số ảo toàn cầu mà độc giả là toàn thể những người sử dụng mạng trên hành tinh và các công cụ tìm tin, sự hiện diện của Web bảo đảm các chức năng thư mục cho thư viện đó. Tuy nhiên sự khác biệt giữa Thư viện điện tử, Thư viện số với kho thông tin khổng lồ trên Internet đó là World Wide Web (www) thiếu hẳn những đặc điểm quan trọng của việc sưu tầm có chọn lọc và tổ chức thông tin chặt chẽ như trong thư viện điện tử và thư viện số. K51 Thông tin – Thư viện
  9. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy Thư viện điện tử cũng có thể hiểu theo nghĩa tổng quát: Là một loại hình thư viện đã tin học hóa toàn bộ hoặc một số dịch vụ thư viện; Là nơi người sử dụng có thể tới để tra cứu, sử dụng các dịch vụ thường làm như với một thư viện truyền thống nhưng đã được tin học hóa. Nguồn lực của Thư viện điện tử bao gồm cả tài liệu in giấy và tài liệu đã được số hóa. - Thư viện số (TVS): Theo Michael Lesk – 1997: “Các thư viện số là các bộ sưu tập thông tin số hóa được tổ chức. Chúng bao gồm việc cấu trúc và thu thập thông tin là các công việc mà các thư viện truyền thống vẫn luôn phải làm và các máy tính có nhiệm vụ trình bày các thông tin đó…Một thư viện số thực sự cũng tạo ra các nguyên tắc quản lý những yếu tố cấu thành thư viện và các phương thức tổ chức thư viện”. Theo Gladney – 1994: “Một thư viện số phải là tập hợp các thiết bị máy tính, lưu trữ, truyền thông cùng với các nội dung số và phần mềm để tái tạo, thúc đẩy và mở rộng các dịch vụ thông tin của các thư viện truyền thống chứa các tài liệu trên giấy và các vật mang tin khác vẫn làm như thu thập, biên mục, tìm kiếm, phân phát thông tin. Một dịch vụ thư viện số đầy đủ trọn vẹn phải bao gồm đảm bảo có cả các dịch vụ chính yếu của các thư viện truyền thống và khai thác tối đa các ích lợi của công nghệ lưu trữ số, tìm kiếm thông tin số và truyền thông số” Tựu chung lại, các thư viện số với mục đích đạt được các yêu cầu cao của xã hội đều phải: - Phục vụ một cách lý tưởng một cộng đồng hay một tập hợp cộng đồng người dùng tin xác định nào đó. - Không phải là một thực thể đơn độc. - Được cấu tạo bởi cấu trúc thống nhất, logic và tổ chức. - Kết hợp giữa việc học tập, giáo dục với quá trình truy cập. - Tận dụng tối đa yếu tố con người (cán bộ thư viện) cũng như các yếu tố công nghệ. K51 Thông tin – Thư viện
  10. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy - Tạo sự truy cập thông tin nhanh chóng và hiệu quả cùng với một loạt các phương thức truy cập đa dạng, đa chiều. - Cung cấp truy cập miễn phí (có thể đối với một cộng đồng người dùng tin xác định) - Sở hữu và quản lý, kiểm soát được các nguồn tài nguyên thông tin của mình (cũng có thể phải mua ở bên ngoài) - Có một tập hợp nguồn tài nguyên thông tin với các đặc điểm sau: + Lớn và ổn định. + Được tổ chức và quản trị tốt. + Có nhiều khổ mẫu và khuôn dạng khác nhau… - Tài liệu điện tử: Hiện nay khái niệm về tài liệu điện tử ở Việt nam vẫn còn rất mơ hồ, chưa có một khái niệm rõ ràng. Có thể xem tài liệu điện tử là tài liệu được trình bày và lưu trữ trên các vật mang tin điện tử và có thể truy cập được thông qua hệ thống máy tính điện tử và mạng máy tính. Các vật mang tin ở đây có thể là băng từ, đĩa từ, các bộ phận lưu trữ thông tin của máy tính. Sự ra đời của tài liệu điện tử là kết quả tất yếu của bùng nổ thông tin và bùng nổ công nghệ. - Tài liệu số (TLS): Theo từ điển giải nghĩa của Mindwrap, “Tài liệu số” là những tài liệu được lưu giữ bằng máy tính. TLS có thể được tạo lập bởi máy tính như việc xử lý các file văn bản, các bảng biểu hoặc chúng có thể được chuyển đổi sang dạng số từ những tài liệu dạng khác. TLS cũng được đề cập đến như là tài liệu điện tử. Từ định nghĩa trên cho thấy, TLS được xây dựng thông qua hai kênh: - Kênh 1: Tạo lập tài liệu gốc bằng máy tính thông qua việc xử lý các file văn bản, hình ảnh, bảng biểu,… K51 Thông tin – Thư viện
  11. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy - Kênh 2: Tạo lập TLS thông qua hình thức chuyển đổi định dạng các tài liệu đã được tạo lập ở dạng khác như (Scan, ghi âm,…) Tóm lại có thể hiểu TLS là tất cả những tài liệu được trình bày dưới dạng số mà máy tính có thể đọc được. Như vậy tài liệu số và tài liệu điện tử có thể xem như là hai khái niệm có cùng nội hàm và có thể được dùng thay thế cho nhau. - Số hóa: Thư viện Trường Đại học Cornell định nghĩa số hóa: “là quá trình tỷ biến các tài liệu in ấn trên giấy được chuyển sang dạng số, cho phép các trang thiết bị như máy tính để đọc, máy quét hình phẳng, camera số, camera động và một loạt các thiết bị khác được sử dụng để số hóa tài liệu”. Tóm lại: Số hóa là tiến trình chuyển tài liệu thư viện truyền thống, cụ thể là sách và văn bản sang dạng điện tử và lưu trữ trên máy tính. - Siêu dữ liệu: (tiếng Anh “METADATA”): Để mô tả tài nguyên thông tin số người ta dùng siêu dữ liệu (Metadata). Thuật ngữ “meta” xuất xứ là một từ Hy Lạp để chỉ một cái gì đó có bản chất cơ bản hoặc cao hơn. Vì vậy có thể hiểu “metadata” là dữ liệu về dữ liệu và được sử dụng thông thường nhất để mô tả tài nguyên thông tin trên web. Theo tiến sỹ Warwick Cathro, “siêu dữ liệu là những thành phần mô tả tài nguyên thông tin hoặc hỗ trợ thông tin truy cập đến tài nguyên thông tin”. Siêu dữ liệu được xác định là “dữ liệu mô tả các thuộc tính của đối tượng thông tin và trao cho các thuộc tính này ý nghĩa, khung cảnh và tổ chức. Siêu dữ liệu còn có thể định nghĩa là dữ liệu có cấu trúc về dữ liệu”. Gail Hodge định nghĩa siêu dữ liệu là “thông tin có cấu trúc mà nó mô tả, giải thích, định vị, hoặc làm cho nguồn tin trở nên dễ tìm kiếm, sử dụng và quản lý hơn. Siêu dữ liệu được hiểu là dữ liệu về dữ liệu hoặc thông tin về thông tin”. K51 Thông tin – Thư viện
  12. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy Theo Dempsey và Heery, 1997: “siêu dữ liệu là dữ liệu đi kèm với đối tượng thông tin và nó cho phép những người sử dụng tiềm năng có thể biết trước sự tồn tại cũng như đặc điểm của đối tượng thông tin này”. Nói tóm lại, siêu dữ liệu là thông tin mô tả tài nguyên thông tin. 1.2.2. Vai trò, vị trí của nguồn tài liệu số đối với sự phát triển của Thƣ viện Quốc gia Việt Nam - Tài liệu số trong thư viện chính là di sản văn hóa của dân tộc. Bởi cũng giống như các loại tài liệu truyền thống khác tài liệu số lưu giữ, truyền bá và bảo quản những giá trị văn hóa truyền thống của nhân loại từ đời này qua đời khác. Đồng thời nó còn là cơ sở quan trọng để phục vụ bạn đọc; phục vụ các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…của đất nước. - Xây dựng và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số sẽ tạo khả năng truy cập và bảo quản thông tin cho thư viện từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của thư viện và rồi người sử dụng sẽ trở nên năng động hơn trong việc tìm kiếm thông tin bởi bởi khả năng truy cập nhanh chóng và dễ dàng bằng cách sử dụng các tiện ích tìm kiếm của máy tính điện tử. - Tài liệu số giúp thư viện tăng tính linh hoạt và khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin thể hiện ở chỗ một bản tài liệu số có thể cùng lúc phục vụ cho nhiều đối tượng khác nhau, không phụ thuộc vào số lượng người dùng, thời gian và vị trí địa lý của người học. Từ đó họ chủ động trong việc sắp xếp thời gian học tập, họ có thể lấy được tài liệu qua hệ thống mạng thông tin ở mọi lúc, mọi nơi. - Tiết kiệm thời gian và kinh phí: Thư viện đỡ tốn kinh phí xây dựng kho tàng, kinh phí bổ sung tài liệu, bảo quản và kinh phí trả lương cho người phục vụ. Hơn thế nữa là giúp cho người dùng tin được dễ dàng thuận tiện, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc trong việc tìm thông tin. Họ có thể ngồi ngay tại nhà hay phòng làm việc cũng có thể truy cập được tài liệu từ khắp nơi trên thế giới. K51 Thông tin – Thư viện
  13. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy - Đối với công tác bảo quản trong thư viện thì nó giúp bảo quản được phiên bản gốc của tài liệu, giữ gìn và tăng tuổi thọ của tài liệu quý hiếm bằng việc giảm hao mòn, rách nát do quá trình tiếp xúc trực tiếp với tài liệu của người sử dụng. TLS ngăn chặn những rủi ro hủy hoại do thời gian, thiên tai, khí hậu và tần suất sử dụng. - Nguồn tài liệu số giúp thư viện mở rộng đối tượng phục vụ: Phạm vi phục vụ các tài liệu của thư viện không bị bó hẹp trong khuôn viên của thư viện mà nó vươn tới các vị trí địa lý khác như tại nhà, tại trường, tại nơi làm việc... Tài liệu số tạo ra môi trường và cơ hội bình đẳng rộng mở cho tất cả mọi người đều có cơ hội sử dụng nguồn tài liệu học tập bởi nguồn tài liệu số không bị giới hạn về không gian và thời gian. Loại bỏ khoảng cách tri thức giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các quốc gia. - Tài liệu số giúp thư viện tăng khả năng đa truy cập cho phép người dùng có thể tra tìm tài liệu đồng thời theo nhiều dấu hiệu khác nhau. Ví dụ như tìm theo các yếu tố mô tả thư mục với các toán tử tìm được xây dựng dựa trên các toán tử Boole, các toán tử thu gon, mở rộng, tìm theo các liên kết tới các nguồn tham khảo, trích dẫn. Điều này cho phép người dùng tin có thể mở rộng hay thu hẹp phạm vi tìm kiếm, rút ngắn thời gian và giảm thiểu nhiễu tin. - Tuyên truyền, phổ biến các tài liệu của nước ta với thế giới. Tài liệu số được lưu giữ trên hệ thống máy tính do đó bạn đọc dù ở bất cứ đâu, không gian và khoảng cách như thế nào thì cũng có thể tiếp cận tới nguồn tài liệu của thư viện thông qua máy tính kết nối mạng internet hay intranet. 1.3. Nguồn tài liệu số trong cơ cấu vốn tài liệu của Thƣ viện Quốc gia Việt Nam Thư viện Quốc gia Việt Nam là một trong những thư viện có nguồn TLS lớn trong cả nước. Trong đó, bên cạnh nguồn TLS mua từ bên ngoài, K51 Thông tin – Thư viện
  14. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy các nguồn TLS do Thư viện tạo lập cũng rất phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức. Trong phạm vi đề tài này, tác giả phân chia chúng thành hai loại CSDL chính là CSDL thư mục và CSDL toàn văn. 1.3.1. Cơ sở dữ liệu thƣ mục Các CSDL thư mục là một trong những nguồn tài liệu số lớn nhất hiện có của Thư viện, chúng đóng vai trò quan trọng giúp người dùng tin có thể tiếp cận tới nguồn tài nguyên truyền thống quý báu với hàng triệu bản mà Thư viện đang sở hữu. Các cơ sở dữ liệu này bao gồm: STT Cơ sở dữ liệu Biểu ghi 1 Sách 340.000 2 Báo, tạp chí các ngôn ngữ 6.727 4 Luận án tiến sỹ 13.762 5 Bài trích 50.130 - CSDL sách của Thư viện Quốc gia: 340.000 biểu ghi (sách tiếng Việt xuất bản từ 1954 đến nay, sách hệ chữ Latinh thừ 1982 đến nay, sách tiếng Pháp kho Đông dương. - CSDL Báo, tạp chí các ngôn ngữ: 6.272 biểu ghi. - CSDL Báo, tạp chí nghiên cứu các ngôn ngữ nhập về thư viện trước năm 1954: 1.718 biểu ghi - CSDL Luận án tiến sỹ: 13.762 biểu ghi. - CSDL Bài trích từ hơn 60 tạp chí: 50.130 biểu ghi. 1.3.2. Cơ sở dữ liệu toàn văn Là loại hình CSDL rất được chú ý trên thế giới nhưng mới chỉ xuất hiện trong hệ thống thư viện công cộng trong những năm gần đây với số K51 Thông tin – Thư viện
  15. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy lượng không nhiều. Hiện tại ở TVQGVN có hai loại CSDL toàn văn chủ yếu là: CSDL toàn văn do TVQGVN tạo lập và CSDL toàn văn mua từ bên ngoài. 1.3.2.1. Cơ sở dữ liệu toàn văn do Thƣ viện Quốc gia Việt Nam tạo lập - Luận án tiến sỹ Thư viện Quốc gia là cơ quan duy nhất thu nhận các bản luận án tiến sĩ trực tiếp từ các tác giả Việt Nam bảo vệ trong và ngoài nước và của các tác giả nước ngoài bảo vệ tại Việt Nam. Đây là kho tài liệu quý và đặc biệt của thư viện. Hiện tại Thư viện đã số hóa 6.402 bản tóm tắt tiếng Việt (172.002 trang) và gần 9.356 bản toàn văn (khoảng 1.812.000 trang). Bao gồm các chủ đề: - Khoa học tự nhiên và ứng dụng - Khoa học xã hội và nhân văn - Kinh tế - Nông, lâm nghiệp - Mỹ thuật… - Bộ sưu tập số sách Hán Nôm cổ Chữ Nôm là một trong những di sản quý giá của nền văn hóa Việt Nam. Bộ sưu tập Hán Nôm của Thư viện Quốc gia Việt Nam được thu thập, gây dựng từ những năm 60 của thế kỷ trước, đến nay đã có 1.308 cuốn, 91.768 trang ảnh và 180.000 trang tài liệu với nhiều chủng loại phong phú và có giá trị cao. Kho sách này phản ánh xác thực các mặt trong đời sống xã hội, lịch sử, giáo dục, khoa học địa lý của Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử. Do thời gian, khí hậu, sự hạn chế về cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo quản nên kho sách đang dần bị xuống cấp và hư hại. K51 Thông tin – Thư viện
  16. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy Tài liệu Hán Nôm gốc - Bộ sưu tập số: sách, báo Đông Dương Sách Đông Dương: Bao gồm sách tiếng Pháp và tiếng Việt xuất bản ở Đông Dương, viết về Đông Dương và Việt Nam. Đây là hợp đồng giữa Thư viện Quốc gia và Chính phủ Pháp từ dự án Valease: “Tổ chức và thực hiện chương trình số hóa tài liệu tiếng Pháp thuộc vốn di sản cổ đã được công nhận ở Việt Nam và Đông Dương”. Thư viện Quốc gia đã tạo lập Ebook các tài liệu viết về Việt Nam trước năm 1932. CSDL hiện có 758 tên sách, 89.512 trang, 175 bản đồ, trọn bộ tạp chí: Nam Phong; Tri Tân - Bộ sưu tập số: Thăng Long – Hà Nội: Bao gồm: - Bản đồ cổ Hà Nội và vùng phụ cận - Sách báo xuất bản sau năm 1954 - Sách báo xuất bản trước năm 1954 - Sách Hán - Nôm cổ - Luận án tiến sỹ về Hà Nội Có thể nói, Thư viện Quốc Gia Việt Nam đã thu thập, lưu trữ tương đối đầy đủ bộ sưu tập tư liệu về dân tộc xưa và nay hết sức quý hiếm, trong đó có tài liệu về Thăng Long – Hà Nội. Đặc biệt, bộ sưu tập bản đồ cổ Hà K51 Thông tin – Thư viện
  17. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy Nội và vùng phụ cận mà Thư viện Quốc gia trưng bày gồm 55 bản đồ, có niên đại khác nhau từ năm 1873 đến năm 1965. Các bản đồ được phục chế và số hoá trong khuôn khổ Quỹ đoàn kết ưu tiên phát huy hệ thống thư tịch cổ của các nước Đông Nam Á đã cho thấy sự thay đổi đô thị của Thủ đô Việt Nam trải qua trong hơn một thế kỷ. Bản đồ Thành phố Hà Nội năm 1873 Bản đồ Hà Nội năm 1945 Những tài liệu trong bộ sưu tập mang những giá trị lịch sử và văn hóa được lựa chọn để chuyển dạng số nằm trong 5 kho tài liệu quý của Thư viện Quốc gia Việt Nam được xuất bản từ thế kỷ XVII đến nay, đang được lưu trữ tại các kho: sách, báo - tạp chí, bản đồ Đông Dương, kho Hán Nôm và Luận án Tiến sỹ cùng với một số tài liệu của Nhà xuất bản Hà Nội mới phát hành trong Dự án Hành trình tìm kiếm Di sản văn hiến Thăng Long – Hà Nội, và của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bộ sưu tập này sẽ được cập nhật thường xuyên nhằm cung cấp thêm tư liệu quý về Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến. - Bộ sưu tập số: Sách tiếng Anh về Việt Nam Thuộc Dự án CONSAL: 92.520 trang (338 cuốn) K51 Thông tin – Thư viện
  18. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy 1.3.2.2. Cơ sở dữ liệu toàn văn bổ sung từ bên ngoài 1 2 3 KEESING PROQUEST WILSON - CSDL Keesing: Đây là CSDL tập hợp toàn diện, chính xác và súc tích tất cả các bài báo trên thế giới về chính trị, kinh tế và xã hội, các sự kiện trên toàn thế giới từ năm 1931. Được xuất bản bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Hà Lan. - CSDL ProQuest: Đây là CSDL toàn văn tổng hợp lớn nhất hiện nay, cho phép truy cập tới hơn 11.700 tên tạp chí, với gần 8.800 tạp chí toàn văn. ProQuest còn sở hữu gần 30.000 luận văn, luận văn toàn văn, hồ sơ doanh nghiệp, báo cáo thị trường, báo cáo quốc gia, cùng nhiều dạng tài liệu tham khảo bao trùm hơn 160 chuyên ngành, lĩnh vực: Quản trị kinh doanh, Tài chính, Thương mại, Ngân hàng, Kế toán, … - CSDL WILSON: K51 Thông tin – Thư viện
  19. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy Wilson cung cấp truy cập toàn văn, thông tin tóm tắt, trích dẫn, hình ảnh từ 11 cơ sở dữ liệu con với khoảng 4.000 tạp chí điện tử có phạm vi thông tin từ năm 1982 – nay: + Wilson Applied Science and Technology Full Text + Wilson Art Full Text + Wilson Business Full Text + Education Full Text + Humanities Full Text + Social science Full Text + Index to legal Periodicals Full Text. 1.4. Đặc điểm nhu cầu tin và ngƣời dùng tin tại Thƣ viện Quốc gia Việt Nam 1.4.1. Đặc điểm ngƣời dùng tin Người dùng tin là đối tượng phục vụ của bất kỳ một cơ quan thông tin – thư viện nào. Người dùng tin là người sử dụng thông tin đồng thời là người sáng tạo và làm giàu nguồn tin. Thỏa mãn nhu cầu tin cho người dùng tin cũng đồng nghĩa với việc phát triển nguồn tin của thư viện. Sự thỏa mãn nhu cầu tin cho người dùng tin chính là cơ sở để đánh giá chất lượng hoạt động thông tin trong thư viện. Hiện nay, người dùng tin của Thư viện Quốc gia phát triển nhanh chóng cả về số lượng và thành phần. Trình độ của người dùng tin có nhiều cấp độ khác nhau. Đối tượng người dùng tin mà thư viện hướng tới là các nhà quản lý, lãnh đạo các cấp, các ngành; cán bộ giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các trường phổ thông; cán bộ công tác tại các đơn vị hành chính, sự nghiệp và sản xuất kinh doanh; sinh viên các trường đại học, cao đẳng (Trước đây Thư viện chỉ làm thẻ đọc cho sinh viên năm thứ 3, 4, nay Thư viện đã mở rộng đối tượng là sinh viên năm thứ K51 Thông tin – Thư viện
  20. Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Thúy 2). Qua khảo sát thực tế tôi chia đối tượng người dùng tin của TVQGVN thành 3 nhóm chính sau: - Nhóm 1: Cán bộ quản lý, lãnh đạo - Nhóm 2: Cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, cán bộ trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp và sản xuất kinh doanh - Nhóm 3: Sinh viên năm thứ hai trở lên ở các trường đại học và cao đẳng 1.4.2. Đặc điểm nhu cầu tin Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên toàn thế giới. Nhiều thành tựu khoa học mới ra đời đã tạo nên một hiện tượng “bùng nổ thông tin”. Lượng thông tin trong xã hội vô cùng phong phú và đa dạng. Cũng từ đây thông tin trở thành động lực cho sự phát triển của xã hội. Nhu cầu thông tin ngày càng lớn và trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhu cầu tin chính là đòi hỏi khách quan của con người đối với việc tiếp nhận và xử lý thông tin để duy trì và phát triển sự sống. Nhu cầu tin xuất phát từ nhu cầu nhận thức của của con người tăng lên cùng với sự gia tăng các mối quan hệ trong xã hội và mang tính chất chu kỳ. Nếu nhu cầu tin được thỏa mãn kịp thời, chính xác thì nhu cầu tin sẽ ngày càng được phát triển. Ngược lại, nếu nhu cầu tin không thỏa mãn thường xuyên thì nhu cầu tin sẽ bị triệt tiêu. Càng thỏa mãn ở mức độ cao bao nhiêu thì chu kỳ càng được rút ngắn bấy nhiêu. Dưới đây là nhu cầu tin của các nhóm người dùng tin tại Thư viện Quốc gia Việt Nam 1.4.2.1. Nhu cầu tin của cán bộ quản lý, lãnh đạo Đây là nhóm người dùng tin chiếm số lượng rất ít (khoảng 5%) song họ lại là nhóm người dùng tin rất quan trọng của Thư viện. Đáp ứng nhu cầu tin của họ là việc mà thư viện hết sức quan tâm. Bởi lẽ họ là những người K51 Thông tin – Thư viện
nguon tai.lieu . vn