Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN ====== NGUYỄN HƯƠNG LY NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG CỠ LỚN ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở MỘT SỐ KHU VỰC THUỘC VÙNG ĐỆM CỦA VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Môi trường HÀ NỘI - 2019
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN ====== NGUYỄN HƯƠNG LY NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG CỠ LỚN ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở MỘT SỐ KHU VỰC THUỘC VÙNG ĐỆM CỦA VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Môi trường Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. NGUYỄN VĂN VỊNH HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Văn Vịnh - Phó trưởng khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Thầy là người đã hướng dẫn và tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình. Đồng thời, qua đây tôi cũng chân thành cảm ơn ban lãnh đạo cùng các thầy giáo, cô giáo Tổ Động vật, Khoa Sinh - Kỹ thuật Nông nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình. Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động viên và là chỗ dựa vững chắc cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Hương Ly
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết quả nghiên cứu, số liệu trình bày trong luận văn là do nghiên cứu, thực tiễn đảm bảo tính trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học, trong các tạp chí chuyên ngành và các hội thảo khoa học, sách chuyên khảo,… nào khác. Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Hương Ly
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASPT : Average Srores Per Taxon Điểm số trung bình cho các đơn vị phân loại BMWP : Biological Monitoring Working Party Một tổ chức nghiên cứu về quan trắc sinh học DO : Dissolved Oxygen: Oxy hòa tan ĐVKXS : Động vật không xương sống SVCT : Sinh vật chỉ thị VQG : Vườn quốc gia
  6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Mục đích của nghiên cứu .............................................................................. 2 3. Nội dung nghiên cứu ..................................................................................... 2 4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.......................................................... 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................ 4 1.1. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước trên thế giới .............................................................................................. 4 1.2. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước ở Việt Nam ............................................................................................... 7 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...... 10 2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 10 2.2. Phạm vi, Địa điểm và thời gian nghiên cứu ............................................. 10 2.2.1. Phạm vị nghiên cứu ............................................................................... 10 2.2.2. Thời gian nghiên cứu ............................................................................ 10 2.2.3. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................. 10 2.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 12 2.3.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa ............................................... 12 2.3.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nhiệm .................................. 13 2.3.3. Phương pháp xác định hệ thống tính điểm BMWPVIET và chỉ số sinh học ASPT................................................................................................. 14 2.4. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai ............................................................... 15 2.4.1. Khái quát điều kiện tự nhiên ................................................................. 15 2.4.2. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội ...................................................... 17
  7. Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................ 19 3.1. Thành phần các họ ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu ................... 19 3.2. Đánh giá chất lượng môi trường nước tại khu vực nghiên cứu ............... 26 3.2.1. Một số chỉ số thủy lí hóa học của nước ................................................ 26 3.2.2. Đánh giá chất lượng nước tại khu vực nghiên cứu bằng hệ thống tính điểm BMWPVIET và chỉ số ASPT ............................................................ 29 3.3. Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước và một số giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên nước ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên .................. 31 3.3.1. Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên ............................................................................................ 31 3.3.2. Một số giải pháp bảo vệ tài nguyên nước tại khu vực nghiên cứu ....... 32 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 35 1. Kết luận ....................................................................................................... 35 2. Kiến nghị ..................................................................................................... 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 37 PHỤ LỤC
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Mối liên quan giữa chỉ số sinh học ASPT và mức độ ô nhiễm ...... 15 Bảng 3.1. Thành phần các họ ĐVKSX cỡ lớn bắt gặp tại khu vực nghiên cứu ................................................................................................... 19 Bảng 3.2. Số lượng họ và tỉ lệ % các họ thuộc nhóm ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu ......................................................................... 24 Bảng 3.3. Một số chỉ số thủy lý, hóa học của nước tại các điểm nghiên cứu ................................................................................................... 26 Bảng 3.4. Điểm số BMWPVIET , chỉ số ASPT và chất lượng nước ở các điểm nghiên cứu thuộc vùng đệm VQG Hoàng Liên ..................... 30
  9. DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 3.1. Tỉ lệ % các họ tại khu vực nghiên cứu ............................................ 25
  10. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sự sống trên trái đất được bắt nguồn từ nước. Mọi sinh vật sống trên trái đất đều phụ thuộc vào nước và vòng tuần hoàn của nước. Hơn 70% diện tích trái đất được bao phủ bởi nước, nhưng trong đó thì chỉ có 0,3% nước là có thể sử dụng làm nước uống. Từ đó có thể khẳng định rằng nước là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng và quý giá. Tuy nhiên ngày nay khi đất nước ngày càng phát triển thì kéo theo đó là sự ô nhiễm môi trường nước ngày càng nghiêm trọng do lượng chất thải từ các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt,... của con người ngày càng gia tăng. Vì vậy công tác quan trắc, giám sát đánh giá chất lượng môi trường nước là điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Hiện nay để đánh giá chất lượng môi trường nước người ta thường sử dụng phương pháp phân tích các chỉ số thủy lý hóa (pH, DO, COD, BOD, NO3-,…). Tuy nhiên phương pháp này khó có thể dự báo một cách chính xác hoàn toàn về sự ảnh hưởng của các hợp chất hóa học đến hệ sinh thái, đến sự sống của sinh vật và của con người tại khu vực nghiên cứu. Đồng thời, phương pháp này đòi hỏi phải được thực hiện liên tục với tần suất cao vì vậy nó khá tốn kém về mặt kinh tế. Để khắc phục những hạn chế của phương pháp trên người ta sử dụng phương pháp quan sinh trắc học. Phương pháp này cung cấp các dẫn liệu về thời gian, tiện lợi trong sử dụng và cho kết quả nhanh, trực tiếp về sự ảnh hưởng của tình trạng ô nhiễm của nguồn nước đến sự phát triển của hệ thống thủy sinh vật tại khu vực nghiên cứu. Do đó, phương pháp quan trắc sinh học nước ngọt có vai trò ngày càng quan trọng và được sử dụng phổ biến hơn. Trong phương pháp quan trắc sinh học người ta sử dụng các SVCT để đánh giá sự biến đổi chất lượng môi trường. Một trong những sinh vật chỉ thị được sử dụng rất phổ biến hiên nay là nhóm ĐVKXS cỡ lớn. Việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để quan trắc sẽ cho kết quả nhanh, phản ánh chính xác chất lượng nước và ít tốn kém. Vùng đệm của vườn quốc gia hoàng liên thuộc tỉnh Lào Cai có hệ thống suối là nơi cư trú của nhiều nhóm sinh vật thủy sinh, đặc biệt trong đó 1
  11. có nhóm ĐVKXS cỡ lớn. Tuy nhiên, nguồn nước tại khu vực này đang có dấu hiệu bị ô nhiễm. Đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào dùng SVCT là ĐVKXS để đánh giá chất lượng môi trường nước ở khu vực này. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu sử dụng ĐVKSX cỡ lớn đánh giá chất lượng môi trường nước ở một số khu vực thuộc vùng đệm của vườn quốc gia hoàng liên tỉnh Lào Cai. 2. Mục đích của nghiên cứu - Xác định thành phần các taxon ĐVKXS cỡ lớn tại một số khu vực thuộc vùng đệm của VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. - Đánh giá chất lượng môi trường nước ở một số khu vực thuộc vùng đệm của VQG hoàng liên tỉnh Lào Cai. - Xác định được nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước tại địa phương từ đó đề ra một số biện pháp nhằm khắc phục cải thiện và sử dụng hợp lý tài nguyên nước tại khu vực nghiên cứu. 3. Nội dung nghiên cứu - Thành phần các họ của nhóm ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu. - Sử dụng sinh vật chỉ thị là nhóm ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng môi trường nước qua điểm số BMWP và chỉ số ASPT. - Xác định các chỉ số thuỷ lý, hoá học của nước. - Xác định nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước tại địa phương. Đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục cải thiện và sử dụng hợp lý tài nguyên nước tại khu vực nghiên cứu. 2
  12. 4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 4.1. Ý nghĩa khoa học - Đề tài cung cấp danh lục các họ ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu. - Bước đầu sử dụng nhóm ĐVKXS cỡ lớn làm SVCT để đánh giá chất lượng môi trường nước tại địa phương. 4.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ việc sử dụng nhóm ĐVKXS cỡ lớn làm SVCT để đánh giá chất lượng môi trường nước, tìm ra nguyên nhân dẫn tình trạng ô nhiễm nguồn nước từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục cải thiện và sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý nhất tại địa phương. 3
  13. Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước trên thế giới Việc sử dụng phương pháp quan trắc sinh học để đánh giá chất lượng nước sông đầu tiên hình thành ở châu Âu do hai nhà khoa học Kolkwitz (1908) và Marsson (1909) thực hiện. Độ nhiễm bẩn của nước sông được chia làm 4 loại là bẩn ít, bẩn vừa α, bẩn vừa β và rất bẩn, các mức độ này được xác định dựa trên chỉ số độ nhiễm bẫn (Saprobic index). Căn cứ vào danh các loài chỉ thị người ta chia thành các giá trị nhiễm bẩn phù hợp với mức độ chống chịu sự ô nhiễm của từng loài. Tuy hệ thống này đã được chấp nhận rộng rãi ở Châu Âu nhưng đồng thời nó cũng gặp phải nhiều ý kiến trái chiều như phương pháp dựa trên sự nhiễm bẩn chỉ thiên về chỉ số sinh học và hệ thống điểm số đơn giản [27-28]. Ở Anh Tại Anh, phương pháp quan trắc sinh học tiếp tục được mở rộng với các chỉ số đánh giá mức độ ô nhiễm dựa trên nguyên tắc các nhóm sinh vật chống chịu ô nhiễm khác nhau. Trong đó, hai chỉ số được đánh giá cao là chỉ số định lượng “Chỉ số Trent” (TBI) của Woodiwis (1964) và chỉ số bán định lượng “Điểm số Chandler (CBS) của Chandler (1970). Tuy nhiên chỉ số TBI (chỉ số định lượng “Chỉ số Trent” ) và điểm số CBS (chỉ số bán định lượng “Điểm số Chandler”) chỉ phù hợp để đánh giá chất lượng nước sông trong phạm vi nhỏ và không thích hợp để dánh giá trên diện rộng. Vì vậy vào năm 1976, tổ chức nghiên cứu quan trắc sinh học “Biological Monitoring Woring Party” đã ra đời và hệ thống điểm số BMWP được đưa ra, mức độ ô nhiễm của nước được phân loại trên cơ sở số loài và sự phân bố của ĐVKXS cỡ lớn (dẫn theo tài liệu [26]). 4
  14. Ở Tây Ban Nha Năm 1988, phương pháp sử dụng chỉ số BMWP đã được hai nhà khoa học là Alba - Tercedor và Sanchoz - Ortega áp dụng tại khu vực bán đảo Iberia (ở Tây Ban Nha). Trong nghiên cứu trên một số họ mới đã xuất hiện và điểm số của một số họ cũng có sự thay đổi. Tiếp đó nhà khoa học Carmen Zamora cùng một số người đã tiến hành nghiên cứu giải thích sự biến thiên của chỉ số BMWP và chỉ số sinh học ASPT theo nhiệt độ và xác định sự phụ thuộc của các chỉ số này theo mùa. Kết quả của nghiên cứu trên cho thấy: Ở những thủy vực không bị ô nhiễm mối tương quan giữa nhiệt độ và chỉ số BMWP là không đáng kể, tại những thủy vực bị ô nhiễm thì chỉ số BMWP phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ,còn với chỉ số ASPT thì dù thủy vực nghiên cứu có bị ô nhiễm hay không nó cũng không bị phụ thuộc vào nhiệt độ . Qua đó các nhà khoa học đã kết luận chỉ số ASPT thì không bị phụ thuộc vào mùa vụ còn chỉ số BMWP thì có, vì vậy chỉ số sinh học ASPT được cho là có tính ưu việt hơn [19]. Ở New Zeland Tại New Zeland các nhà khoa học đã thấy được sự hiệu quả của việc sử dụng hệ thống điểm số BMWP để đánh giá chất lượng nước đặc biệt là khi sử dụng chúng để đánh giá sự ô nhiễm hữu cơ. Vì vậy họ tiếp nhận và phát triển hệ thống điểm số này để chúng cho phù hợp với đất nước mình, chỉ số được biến đổi tương tự với điểm trung bình bậc phân loại ASPT ở Anh và được là MCI (Macroinvertebrate Community Index) [29]. Ở Ấn Độ Tại Ấn Độ, vào năm 1994 De Zwart và Trivedi đã biến đổi điểm số BMWP bằng cách thêm vào một số họ có ở Ấn Độ và bớt đi một số họ không có tại đất nước này. Ngoài ra,một vài điểm số đã được phân phối trong điểm gốc cũng được thay đổi để phản ánh các mức độ khác nhau về độ chống chịu của một số họ nhất định được bắt gặp ở các cửa sông của Ấn Độ. Một nghiên cứu khác cũng sử dụng điểm số BMWP được tiến hành bởi Bihar tại sông Ramjan cho thấy các chỉ số lý hóa có sự biến động theo mùa, nó sẽ ảnh hưởng đến mức độ phong phú của ĐVKXS cỡ lớn và đồng 5
  15. thời cũng ra mối tương quan nghịch giữa kích thước của quần thể ĐVKXS cỡ lớn với các chỉ số pH và DO... trong nghiên cứu tại hồ Thirukulam Tác giả Maruthaynayagan và các cộng sự của ông đã khẳng định rằng kích thước ĐVKXS phụ thuộc vào mùa, vào mùa hè là thấp nhất và vào mùa mưa là cao nhất (dẫn theo Lê Văn Khoa và cộng sự (2007) [8],và Mustow (1998) [30]). Ở Thái Lan Năm 1977, Mustow đã nghiên cứu quần xã ĐVKXS cỡ lớn tại sông MaePing từ đó ông đã đưa ra một số điểm thay đổi trong hệ thống điểm BMWP để phù hợp với điều kiện ở Bắc Thái Lan. Hệ thống BMWP được sửa đổi ở Thái Lan được gọi là hệ thống BMWPTHAI (dẫn theo Nguyễn Vũ Thanh và Tạ Huy Thịnh (2001) [14]). Sau khi hệ thống BMWPTHAI xuất hiện thì phương pháp này đã được nghiên cứu, ứng dụng và phát triển thêm để đánh giá chất lượng môi trường nước nhằm quản lí và bảo tồn các lưu vực sông ở Thái Lan. Trong đó có nghiên cứu “Nghiên cứu sự tương quan giữa ĐVKXS cỡ lớn ở nước ngọt và các yếu tố chất lượng môi trường trong lưu vực sông Nam Pong Thái Lan” được thực hiện bởi Khoa Sinh học của Đại học Khon Kaen năm 1998, với 27 địa điểm thu tại lưu vực sông Nam Pong gần sông Pong, sông Cheon, sông Chi. Mục đích nhằm nghiên cứu những ảnh hưởng của chất lượng môi trường nước đến cộng đồng ĐVKXS cỡ lớn sống tại đó [23,31]. Ở Malaysia Năm 1999 ,Bộ Môi trường Malaysia đã thực hiện một nghiên cứu rên sông Linggi nhằm đánh giá tiềm năng của phương pháp sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm SVCT để đánh giá, giám sát chất lượng nước. Cũng vào thời điểm đó, tại Khoa Sinh học của Trường Đại học Putra đã tiến hành nghiên cứu đánh giá chất lượng sông Langat bằng phương pháp sử dụng hệ thống BMWP. Kết quả nghiên cứu cho thấy số loài bắt gặp ở khu vực ở thượng nguồn là 54 loài còn ở hạ nguồn là 49 loài, chất lượng nước sông chảy từ thượng nguồn xuống hạ nguồn bị giảm dần do chịu ảnh hưởng từ nguồn ô nhiễm của khu dân [16]. 6
  16. 1.2. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước ở Việt Nam Ở Việt Nam việc nghiên cứu, đánh giá chất lượng nước tại các thủy vực cũng đã được quan tâm từ lâu. Tuy nhiên cho đến năm 1995 vẫn chưa có hệ thống phân loại mức độ nhiễm bẩn của các thủy vực. Những hệ thống phân loại độ nhiễm bẩn và các chỉ tiêu trong các thang bậc phân loại đều là những dẫn liệu nghiên cứu thuộc vùng ôn đới, những dữ liệu này không phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như đặc tính sinh học của các thủy vực tại nước ta. Sau 10 năm nghiên cứu (1985 - 1995), tác giả Nguyễn Xuân Quýnh (1995) đã đề xuất một hệ thống phân loại mức độ nhiễm bẩn các thủy vực có nước thải ở Hà Nội dựa trên một số chỉ tiêu cơ bản về sinh học. Từ năm 1997 - 1999, nhờ sự tài trợ của quỹ Darwin của chính phủ Anh, Khoa Sinh học ,Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã phối hợp hội nghiên cứu thực địa và sinh thái nước ngọt Anh Quốc đã thực hiện chương trình nghiên cứu “Bảo tồn đa dạng sinh học thông qua việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm vi sinh vật chỉ thị quan trắc và đánh giá chất lượng nước ở Việt Nam” [11]. Năm 2000, Nguyễn Xuân Quýnh và các cộng sự đã đưa ra khoá định loại đến họ các nhóm ĐVKXS ở nước ngọt phục vụ cho việc nghiên cứu đánh giá chất lượng nước bằng SVCT. Cũng trong năm này quy trình quan trắc và đánh giá chất lượng nước ngọt bằng việc sử dụng SVCT là ĐVKXS cỡ lớn của Nguyễn Xuân Quýnh và các cộng sự cũng đã được công bố. Năm 2004, Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự trên cơ sở các công trình nghiên cứu về giám sát sinh học nước ngọt bằng SVCT, mà đặc biệt là kết quả từ năm 1998 - 2000, đã thiết lập một quy trình lấy mẫu và một hệ thống tính điểm sử dụng trong quan trắc sinh học đối với các thuỷ vực nước ngọt tại Việt Nam. Đã xuất bản cuốn sách “Giám sát sinh học môi trường nước ngọt bằng động vật không xương sống cỡ lớn”. Đây là tài liệu đầu tiên của Việt Nam được xuất bản làm cơ sở nghiên cứu đánh giá chất lượng nước thông qua SVCT là ĐVKXS cỡ lớn [11]. 7
  17. Năm 2001 - 2002, Nguyễn Vũ Thanh và Tạ Huy Thịnh thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật đã thực hiện nghiên cứu tại lưu vực sông Cầu tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc Cạn, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Kết quả quan trắc cho thấy tất cả các điểm nghiên cứu đều có mức độ ô nhiễm từ ô nhiễm vừa đến ô nhiễm nặng. Ngoài ra, qua nghiên cứu trên tác giả còn bổ sung thêm 5 họ côn trùng thủy sinh là Ecdyonuridae, Polymitarcyidae, Sicomyzidae, Muscidae và 2 họ thân mềm Stenothyridae và Hyalidae vào hệ thống điểm BMWPVIET [12]. Năm 2003, tác giả Nguyễn Thị Mai thuộc bộ môn Sinh học, Khoa Khoa học, Trường Đại học Nông Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá sự đa dạng về thành phần loài ĐVKXS cỡ lớn và sử dụng chúng để đánh giá chất lượng nước sông Sài Gòn thuộc quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy chất lượng môi trường nước và thành phần loài liên quan đến nhau. Điều này càng khẳng định việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng nước là có cơ sở [9]. Năm 2006, tác giả Trương Thanh Cảnh và Ngô Thị Trâm Anh thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Hồ Chí Minh thực hiện nghiên cứu thành phần ĐVKXS cỡ lớn tại 4 hệ thống kênh chính của Thành phố Hồ Chí Minh (Tham Lương - Vàm Thuật, Nhiêu Lộc - Thị Nghè, kênh Đôi - Tẻ - Tàu Hủ - Bến Nghé, hệ thống sông khu vực Nam Sài Gòn) [2]. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu thường chỉ tập trung ở khu vực miền Bắc và miền Nam trong khi đó khu vực miền Trung thì chưa được quan tâm đến. Trong những năm gần đây phương pháp này đã được nghiên cứu và sử dụng ở khu vực miền Trung. Tiêu biểu như tác giả Nguyễn Văn Khánh và các cộng sự thuộc Khoa Sinh - Môi trường, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng đã thực hiện một số nghiên cứu sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng môi trường nước tại các khu vực thuộc Thành phố Đà Nẵng. Các nghiên cứu được thực hiện tại sông Phú Lộc, sông Cu Đê, hệ thống sông Cầu Đỏ - Tuý Loan, cánh đồng Xuân Thiều. Qua việc xác định chỉ số BMWP và ASPT đã cho thấy chất lượng nước tại hầu hết các đều thuộc loại bẩn vừa α đến rất bẩn, kết quả này là hoàn toàn thích với các kết quả phân tích lí hoá đi 8
  18. kèm và nó càng khẳng định phương pháp sử dụng ĐVKXS để đánh giá chất lượng môi trường nước là có hiệu quả [5-7]. Tác giả Nguyễn Văn Hiếu và các cộng sự thuộc Khoa Sinh-KTNN, Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2 cũng đã có nhiều nghiên về sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng nước. Như nghiên cứu đánh giá chất lượng môi trường nước với 8 điểm nghiên cứu khác nhau tại suối Quân Boong thuộc Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc [4]. Từ những công trình nghiên cứu đã nêu trên cho thấy phương pháp quan trắc sinh học sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm SVCT là tối ưu, phương pháp này đang ngày càng phát triển và được sử dụng rộng rãi ở nước ta. Việc sử dụng hệ thống điểm BMWPVIET và chỉ số ASPT giúp độ chính xác của việc đánh giá chất lượng nước được nâng cao, khiến cho công tác quản lý môi trường nước đạt hiệu quả cao hơn. Tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng môi trường nước tại khu vực thuộc vùng đệm của vườn quốc gia hoàng liên tỉnh Lào Cai: ở khu vực trên hiện vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá chất lượng môi trường nước thông qua SVCT là nhóm ĐVKXS cỡ lớn. 9
  19. Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Động vật không xương sống cỡ lớn tại suối tại 3 xã Nậm Cang, Sa Pả, Nậm Sài thuộc vùng đệm của vườn quốc gia Hoàng Liên, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. 2.2. Phạm vi, Địa điểm và thời gian nghiên cứu 2.2.1. Phạm vị nghiên cứu Thủy vực dạng suối tại xã 3 xã Nậm Cang, Sa Pả, Nậm Sài thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. 2.2.2. Thời gian nghiên cứu - Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 8/2018 đến tháng 4/2019. Trong đó thời gian nghiên cứu ngoài thực địa tiến hành từ ngày 09/08/2018 đến ngày 17/08/2018. - Toàn bộ mẫu vật thu ngoài tự nhiên được bảo quản và lưu trữ tại phòng thí nghiệm Động vật, Khoa Sinh - Kĩ thuật nông nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. 2.2.3. Địa điểm nghiên cứu Các thủy vực dạng suối nằm trên địa phận của 3 xã Nậm Cang, Sa Pả, Nậm Sài thuộc vùng đệm của vườn quốc gia Hoàng Liên, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Các điểm thu mẫu được đánh số thứ tự từ HM1 đến HM9. Phạm vi nghiên cứu được thực hiện trong 3 xã với 9 điểm nghiên cứu: Nậm Cang với 3 điểm nghiên cứu (HM1, HM2, HM3); xã Sa Pả với 3 điểm nghiên cứu (HM4, HM5, HM6) và xã Nậm Sài với 3 điểm nghiên cứu (HM7, HM8, HM9). Trước khi tiến hành thu mẫu, chúng tôi đã ghi lại một số đặc điểm chính về sinh cảnh cũng như tiến hành xác định tọa độ và độ cao bằng thiết bị định vị bằng thiết bị GPS 78 tại các điểm nghiên cứu. Điểm 1 ( kí hiệu HM1): tọa độ N: 22013,085’; E: 1040 01,659’; độ cao 10
  20. 580 m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 15-20m . Hai bên suối là ruông canh tác. Nền đáy chủ yếu là đá tảng lớn, 2 bên bờ suối có nhiều cây bụi. Nền đáy thỉnh thoảng có đá và cát sỏi, ít mùn bã hữu cơ. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 2 (ký hiệu HM2): tọa độ N: 22012,430’E: 1040 02,439’; độ cao 870m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 15-20m . Hai bên suối là đường đi đang tiến hành thi công xây dựng. Nền đấy chủ yếu là đá hỗn hợp và cát sỏi, 2 bên bờ suối có nhiều cây bụi. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 3 (ký hiệu HM3): tọa độ N: 22013,039’; E: 1040 01,819’; Độ cao 712m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 3-5m. Hai bên bờ là cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, nền đáy chủ yếu là đá nhỏ, sỏi và mùn bà hữu cơ. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 4 (ký hiệu HM4): tọa độ N: 22o20,834’; E: 103o52,404’; độ cao 1319m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Sa Pả, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.Chiều rộng của suối khoảng 3-6m. Hai bên suối là ruộng canh tác. Nền đáy chủ yếu là đá nhỏ có bán kính 30cm, sỏi và cát, 2 bên bờ suối có thảm cỏ. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 5 (ký hiệu HM5): tọa độ N: 22o20,9’; E: 103o52,455’; độ cao 1323m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Sa Pả, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.Chiều rộng của suối khoảng 2-5m. Hai bên suối là ruộng canh tác. Nền đáy chủ yếu là đá tảng trung bình có bán kính 40-70cm, đá nhỏ bán kính 30cm, sỏi và cát. Hai bên bờ suối có nhiều cây bụi, độ che phủ thực vật của suối cao. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 6 (ký hiệu HM6): tọa độ N: 22o21,782’; E: 103o51,848’; độ cao 1244m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Sa Pả, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 4-6m. Hai bên suối là ruộng canh tác. Nền đáy chủ yếu là đá tảng lớn, ít mùn bã hữu cơ. Hai bên bờ suối có nhiều cây bụi, độ che phủ thực vật của suối cao.Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 7 (kí hiệu HM7): tọa độ N: 22014,362’; E: 1040 00,457’; độ cao 11
nguon tai.lieu . vn