Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN ANH THƯ MỘNG TRONG THƠ VĂN TẢN ĐÀ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: MỘNG TRONG THƠ VĂN TẢN ĐÀ GVHD: TH.S LÊ VĂN LỰC SVTH: NGUYỄN ANH THƯ MSSV: K40.606.043 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2018 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2018
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận “Mộng trong thơ văn Tản Đà”, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa Ngữ Văn đã tận tình giảng dạy tôi trong suốt những năm tôi theo học tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Và hơn hết, tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đối với thầy Lê Văn Lực, người đã tận tâm giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Sinh viên thực hiện Nguyễn Anh Thư
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là do tự bản thân tôi thực hiện và có sự hỗ trợ từ giáo viên hướng dẫn, không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác. Các dữ liệu thông tin thứ cấp sử dụng trong khóa luận là có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này! Sinh viên thực hiện Nguyễn Anh Thư
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................... 3 3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 6 4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 7 5. Cấu trúc khóa luận ................................................................................ 7 CHƯƠNG 1... : GIỚI THUYẾT VỀ MỘNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ............................................................................................................... 9 1.1 Khái niệm mộng .................................................................................... 9 1.2 Mộng trong thơ văn Việt Nam trước và sau Tản Đà ....................... 11 1.2.1 Mộng trong thơ văn trung đại .................................................... 11 1.2.1.1 Mộng nhắm mắt – mộng tín ngưỡng............................................. 12 1.2.1.2 Mộng mở mắt – mộng tưởng ......................................................... 14 1.2.2 Mộng trong thơ văn đầu thế kỷ XX đến 1945 ............................ 17 1.3 Tản Đà, về thân thế và cá tính ............................................................ 22 1.3.1 Một cuộc đời nhiều biến động .................................................... 22 1.3.2 Một cá tính đặc biệt ..................................................................... 26 1.4 Hiện tượng Tản Đà trong lịch sử văn học dân tộc............................ 30 1.4.1 Tản Đà có tầm ảnh hưởng lớn và đóng góp đáng kể cho tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam ...................................................... 32 1.4.2 Tản Đà đã để lại nhiều tác phẩm giá trị, đa dạng về thể loại ... 36
  6. 1.5 Cơ sở hình thành mộng trong thơ văn Tản Đà ................................. 38 1.5.1 Việc chép mộng từ chính sự lý giải của Tản Đà ....................... 38 1.5.2 Một thời đại “đáng chán” đối với Tản Đà ................................. 41 1.5.3 Những yếu tố từ gia đình và bản thân Tản Đà .......................... 43 Tiểu kết ........................................................................................................ 46 CHƯƠNG 2: MỘNG TRONG THƠ VĂN TẢN ĐÀ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ......................................................................................... 48 2.1 Tản Đà, từ giấc mộng “kinh bang tế thế” đến mộng làm nhà tư tưởng ...................................................................................................... 50 2.1.1 Tản Đà và giấc mộng “kinh bang tế thế” ..................................... 50 2.1.2 Tản Đà với thuyết “Thiên lương” và giấc mộng “đại đồng” ...... 57 Tiểu kết ........................................................................................................ 65 2.2 Tản Đà và giấc mộng thoát ly ............................................................ 66 2.2.1 Tản Đà từ quan niệm “nhân sinh như mộng” đến nỗi chán kiếp làm người ................................................................................................. 67 2.2.2 Mộng lên cung trăng ................................................................... 74 2.2.3 Mộng được lên trời, gặp tiên ...................................................... 78 2.2.4 Tản Đà và giấc mộng viễn du ..................................................... 84 2.3 Tản Đà và giấc mộng yêu đương ....................................................... 87 2.3.1 Tản Đà, từ con người đa tình đến giấc mộng yêu đương ......... 87 2.3.2 Những mối tình trong cuộc đời thực.......................................... 89 2.3.3 Ước ao được gặp tri kỷ ................................................................ 94 2.3.4 “Lăng kính phong tình ân ái” của Tản Đà ................................. 99
  7. CHƯƠNG 3: MỘNG TRONG THƠ VĂN TẢN ĐÀ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ................................................................................. 104 3.1. Thể loại................................................................................................ 104 3.1.1 Thơ viết về mộng của Tản Đà đa dạng về thể .......................... 104 3.1.2 Văn xuôi viết về mộng của Tản Đà .......................................... 111 3.2 Ngôn ngữ ............................................................................................ 116 3.2.1 Ngôn ngữ trong thơ viết về mộng của Tản Đà ........................... 116 3.2.1.1 Một số biện pháp tu từ nổi bật ................................................... 117 3.2.1.2 Đại từ phiếm chỉ ........................................................................ 125 3.2.2 Ngôn ngữ trong văn xuôi viết về mộng của Tản Đà ................... 126 3.3 Không gian nghệ thuật của những giấc mộng trong thơ văn Tản Đà .............................................................................................................. 129 3.3.1 Không gian thiên nhiên ............................................................ 130 3.3.2 Không gian con người ................................................................. 133 3.4 Thời gian nghệ thuật của những giấc mộng trong thơ văn Tản Đà ... .............................................................................................................. 137 3.4.1 Thời gian quá khứ ..................................................................... 139 3.4.2 Thời gian hiện tại ...................................................................... 142 3.4.3 Thời gian tương lai ................................................................... 146 Tiểu kết ...................................................................................................... 148 KẾT LUẬN .................................................................................................. 150 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................... 153 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 154
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài “Chiêm bao là khúc dạo đầu cho cuộc sống hoạt động” (Bachelard), “Người ta chỉ chiêm mộng trước tiên và hầu như chỉ về mình và thông qua mình” (C.G.Jung), “Mơ mộng là một sự chuẩn bị cho đời thực” (Moeder), “Tương lai được chiếm lĩnh bằng mộng mơ trước khi nó được chiếm lĩnh bằng những thí nghiệm” (Becker). Thật vậy, những giấc mộng luôn đóng vai trò thiết lập một kiểu cân bằng trong trong đời sống tinh thần của con người. Mộng được chia làm hai loại: mộng nhắm mắt (mộng mị) và mộng mở mắt (mộng tưởng), từ thưở hồng hoang cho đến thời đại văn minh, nhân loại có lẽ chưa bao giờ ngừng mơ mộng. Vậy, cõi mộng vẫn là một cõi mà chúng ta vẫn phải cần tìm hiểu, sâu hơn và rộng hơn. Những gì có ở đời sống, văn học có, những gì không có ở đời sống, văn học cũng có. Vậy còn đời sống nào phong phú và màu mỡ hơn đời sống văn học? Văn học Việt Nam qua các thời kỳ: trung đại (thế kỷ X đến thế kỷ XIX), Pháp thuộc, giao thời (đầu thế kỷ XX đến 1945), cách mạng (1945 – 1975), đổi mới (sau 1986), ấy là cách chia theo những biến chuyển của lịch sử - xã hội, đơn giản hơn, văn học Việt Nam có thể phân thành hai giai đoạn: trung đại và hiện đại. Chiếc cầu nối hai giai đoạn ấy là văn học giao thời (1900 – 1930) và người ngồi vắt vẻo trên cây cầu ấy, chúng tôi có thể khẳng định không ai nổi bật và xứng đáng hơn Tản Đà. Mười thế kỷ, ngót gần một ngàn năm văn học trung đại rồi cũng đi đến hồi kết, thời đại mới yêu cầu một nền văn học mới, và đó cũng là thời điểm văn học giao thời ra đời. Ba mươi năm đầu thế kỷ XX có thể nói là bước chuyển mình đầu tiên của văn học Việt Nam từ phạm trù trung đại sang hiện đại. Lúc này, nếu ví nền văn học nước nhà là một con sông, thì
  9. 2 con sông ấy đang có sự giao hòa giữa hai dòng chảy: dòng chảy trung đại và dòng chảy hiện đại, hai dòng chảy ấy len lỏi vào nhau, lấn chiếm và quấn lấy nhau, tạo nên sự phức tạp cho nền văn học giai đoạn này. Tản Đà trót sinh ra vắt vẻo giữa hai thế kỷ, ấy vậy mà đó cũng chính là yếu tố khiến thơ văn ông trở thành một hiện tượng phức tạp vào hàng bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Giáo sư Trần Đình Hượu trong bài nghiên cứu Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng đã cho rằng: “Trên bước đường văn học Việt Nam đi từ truyền thống đến cận – hiện đại, Tản Đà là nhà văn có vị trí đặc biệt” [7; tr. 572]. Về hiện tượng Tản Đà và thơ văn của ông, tuy đã tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu, nhưng thiết nghĩ với một người có vị trí rất đặc biệt trong văn học Việt Nam, hẳn sẽ còn khoảng trống cho chúng tôi tìm hiểu. Tản Đà là một nhà thơ lớn và có thể nói sự góp mặt của ông như một hồi chuông báo hiệu cuộc chuyển mình của văn học dân tộc. Trong bài viết Công của thi sĩ Tản Đà, Xuân Diệu nhận định rằng: “Say, ngông và mộng. ba điểm ấy của Tản Đà làm cho thơ ông nhẹ nhàng phóng khoáng” [7; tr. 229]. Như vậy, trong thơ của Tản Đà ắt hẳn có mộng, mà mộng còn là một trong ba đặc điểm chính trong thơ ông. Bên cạnh đó, trong nền văn xuôi quốc ngữ thời kỳ phôi thai, Tản Đà là người đầu tiên cho ra đời những áng văn xuôi mang phong cách hiện đại, đáng lưu ý là bộ ba tập giấc mộng: Giấc mộng con (1917), Giấc mộng con II (1932) và Giấc mộng lớn (1929) đã cho thấy trong văn Tản Đà thì mộng cũng chiếm ưu thế không kém gì trong thơ. Hay nói cách khác, thế giới mộng bao trùm trong sáng tác Tản Đà, ông quả thật là “người mộng trong cõi thực” tồn tại giữa một xã hội nhiều biến động. Vậy, Tản Đà đã mộng những gì trong thơ và trong văn xuôi? Những giấc mộng của ông có tính chất như thế nào? Ông đã dùng những phương thức nào để thể hiện những giấc mộng ấy? Hàng loạt câu hỏi ấy ra đời đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu về “Mộng trong thơ văn Tản Đà”.
  10. 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu vốn thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình văn học, thế nên đề tài “Mộng trong thơ văn Tản Đà” thực sự không phải là một đề tài có quá nhiều cái mới. Ở từng mức độ và góc độ khác nhau thì mộng trong thơ văn ông ít nhiều cũng đã được nhắc tới trong các bài viết, các công trình nghiên cứu. Năm 2003, trong Tản Đà – khối mâu thuẫn lớn, Văn Tâm viết: “về phương diện văn xuôi, Tản Đà cũng có những bước đi mới mẻ đầu tiên, cũng có một số đóng góp nhất định, đáng để chúng ta lưu tâm” [22; tr. 430]. Đây là một công trình khá chi tiết và chỉn chu về những mâu thuẫn trong tư tưởng của Tản Đà. Trong phần “Ước mơ về xã hội chủ nghĩa không tưởng”, Văn Tâm đã viết khá cụ thể về xã hội mơ ước của Tản Đà trong Giấc mộng con, đây là một công trình giá trị và hỗ trợ nhiều cho chúng tôi trong việc tìm hiểu đề tài. Một trong những công trình mang tính tập hợp đáng lưu ý là cuốn Tản Đà – về tác gia và tác phẩm, xuất bản năm 2007 của Trịnh Bá Đĩnh. Công trình là tập hợp 14 bài viết kỷ niệm về Tản Đà và 44 bài nghiên cứu, phê bình về Tản Đà và văn chương của ông. Tuy nhiên, hầu hết những bài viết đều được lấy từ cuốn Tản Đà trong lòng thời đại của Nguyễn Khắc Xương (1997), nhà xuất bản Hội nhà văn. Mở đầu công trình là Lời giới thiệu của Giáo sư Hà Minh Đức, có đoạn viết: “Khép lại thời cận đại, Tản Đà đã đến như sự báo hiệu cho những đổi thay trong thơ ở một chặng mới. Tản Đà chất chứa nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn của buổi giao thời mà ông là người quy tụ hơn là đổi thay. Thơ Tản Đà chứa đựng một tấm lòng, ông khao khát tìm một thế giới tốt đẹp ở trần giới hay nơi tiên cảnh, ông sống giữa mộng và đời nhưng cuộc đời thực vẫn day dứt tác giả khôn nguôi.” [7; tr.10]. Tài liệu trên chúng tôi tin là đắt giá, do độ chính xác cao (được biên soạn bởi con trai trưởng Tản Đà) và đã đóng góp khá sâu rộng trong việc tìm hiểu về Tản Đà cùng với sự nghiệp sáng tác của ông. Chúng
  11. 4 tôi xin điểm qua các bài viết có liên quan đến mộng của Tản Đà có trong tài liệu trên: Trên báo Nam phong số 7, năm 1918, Phạm Quỳnh cho đăng bài viết Mộng hay mị với những lời đả kích về Giấc mộng con của Tản Đà: “đem cái ngông ấy phô diễn trong mấy chục tờ giấy thì thực là quá đáng vậy! Người ta phi cuồng thì không ai trần truồng đi ngoài phố.”, Phạm Quỳnh trách Tản Đà đã “khởi ra cái mộng kỳ quặc” và “tự phô mình một cách sỗ sàng”, ông nói thêm: “nhất là trong buổi quốc văn mới nhóm thành này, cần phải giữ cho văn chương khỏi biến ra mộng mị” [7; tr. 167]. Năm 1939, trên báo Ngày nay số 167, Xuân Diệu viết Công của thi sĩ Tản Đà với nhận định: “Say, ngông và mộng. ba điểm ấy của Tản Đà làm cho thơ ông nhẹ nhàng phóng khoáng” [7; tr. 229]. Cũng trong năm 1939, trên báo Tao Đàn, Lê Thanh đăng bài Mộng và mộng viết về mộng của Tản Đà, có viết: “Ông mộng rồi lại mộng. Ông chỉ sống vì mộng mà thôi”, Lê Thanh cũng nhận xét thêm rằng: “Những bài thơ làm trong khi ông mộng, hoặc khi ông đã tỉnh mộng đều là những áng thơ tuyệt tác” [7; tr. 238]. Năm 1971, trên tạp chí Văn, số Tản Đà, Thi Vũ có bài Tản Đà, người thi sĩ của sự lên đường, trong đó có đoạn viết như sau: “Cõi đời mới trong Giấc mộng con của Tản Đà không chỉ là niềm mơ ước không tưởng của Thomas More trên đảo Utopia, hay của Tommazo Campanella trên Civitas Solis. Cõi đời mới mang ngôn ngữ tố cáo và phê phán một hiện trạng có thực, khuyên thỉnh từ khước, và lập tâm xây dựng.” [7; tr. 402]. Cũng trong tạp chí Văn số 1971, trong bài viết Người ghét Tản Đà của mình, Vũ Bằng có trích lời Ngô Tất Tố về Tản Đà rằng: “Nguyễn Khắc Hiếu là một nhà thơ, một nhà văn, nhưng lại không chịu sống trong quỹ đạo ấy, mà lại
  12. 5 nuôi một cái mộng làm nhà tư tưởng, cho nên tôi phải tranh luận nhiều lần về cái tính tự phụ vô độ của ông ta” [7; tr. 153]. Trên Tạp chí Khoa học, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 1, năm 1990, Văn Tâm có bài viết khá chi tiết về Tản Đà – nhà văn hóa tiền đạo, trong đó có đoạn: “Khả năng tưởng tượng mãnh liệt để đắm mình vào thế giới mộng ảo (Giấc mộng con I, Giấc mộng con II, Nói chuyện với bóng, Nói chuyện với ảnh…) trong đó ẩn hiện những giấc mộng giang hồ về sau cũng đã quyến rũ biết bao thi sĩ trẻ: Thế Lữ: “Rũ áo phong sương trên gác trọ”, Lưu Trọng Lư “nửa đời phiêu lãng”, Nguyễn Tuân “xê dịch chủ nghĩa” đi gần đi xa không phải có nơi để mà đến mà là có nơi để mà bỏ” [7; tr. 469]. Như vậy, qua sáu bài viết có nhắc đến mộng trong công trình này, ta có thể thấy các tác giả bên cạnh việc thể hiện thái độ của mình đối với mộng trong thơ văn Tản Đà thì còn có những nghiên cứu, song vẫn chỉ dừng ở những nhận định mang tính khái quát. Một công trình nữa có đoạn viết về mộng trong thơ văn Tản Đà là trong Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, xuất bản năm 2000 của Nguyễn Đăng Mạnh: “Tản Đà là nhà thơ của sầu và mộng, của những mối tình vẩn vơ. Trí tưởng tượng hết sức phóng túng giúp ông tạo nên những giấc mơ khá ngông cuồng. Ông làm văn tế khóc nàng Chiêu Quân đời Hán bên Tàu, ông mơ gánh thơ lên bán chợ Trời và thực hiện những cuộc du hành ở cõi trời từ Âu sang Á” [15; tr.35]. Công trình là những nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn 30 – 45, Nguyễn Đăng Mạnh đã dành hẳn một tiểu mục để nói về Tản Đà, với những nhận xét xác đáng. Năm 2004, nhà xuất bản Thế giới cho ra mắt cuốn Từ điển văn học (bộ mới), vô cùng đồ sộ. Trong mục từ “Giấc mộng con”, Nguyễn Huệ Chi đã trình bày như sau: “Viết Giấc mộng con, Tản Đà muốn thực hiện mộng ước về một
  13. 6 xã hội lý tưởng, về một người mộng lý tưởng – những mộng ước mà suốt cuộc đời thực ông đã không tìm được. Về hình thức, đây là một giấc mộng mang khuynh hướng thoát ly lãng mạn hoàn toàn có tính chất cá nhân” [11; tr. 529]. Về đề tài nghiên cứu, năm 2007, Lu Mai Tâm thực hiện khóa luận tốt nghiệp Mộng và thực trong thơ văn Tản Đà (một đề tài khá gần với đề tài mà chúng tôi đang tìm hiểu). Tuy nhiên, với cách khai triển thành hai chương “Từ mộng đến thực” và “Từ thực đến mộng”, xét thấy chưa thể đi sâu vào tìm hiểu mộng trong thơ văn Tản Đà đúng với tính chất của nó mà chỉ chứng minh việc mộng trong thơ văn Tản Đà có mối liên quan mật thiết với hiện thực. Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã có ít nhiều đề cập đến mộng của Tản Đà trong các sáng tác của ông, khen có, chê có. Cũng qua đó, mộng trong thơ văn Tản Đà đã được các nhà nghiên cứu xem là một trong những đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì đấy vẫn còn là những công trình riêng lẻ, hầu hết là những nhận định khái quát. Vì vậy, trên cở sở của những người đi trước và những nỗ lực của bản thân, chúng tôi hy vọng khóa luận này sẽ là một trong những chỉnh thể đầu tiên tìm hiểu về “Mộng trong thơ văn Tản Đà”. 3. Phạm vi nghiên cứu Để phục vụ đề tài này, nhằm làm sáng rõ mộng trong thơ văn Tản Đà, chúng tôi khảo sát toàn bộ các văn bản thơ Tản Đà được in trong cuốn Tản Đà toàn tập (tập 1) xuất bản năm 2002 của Nguyễn Khắc Xương và tham khảo thêm cuốn Văn học hiện đại – Tuyển tập Tản Đà do Xuân Diệu giới thiệu cũng trong năm 2002. Với các tác phẩm văn xuôi, chúng tôi giới hạn trong phạm vi gần nhất với đề tài, bao gồm: Tản Đà văn tập, Giấc mộng con, Giấc mộng con II, Khối tình, Đài gương kinh, Thần tiền, Tản Đà tùng văn, Thề non nước, Tản Đà xuân sắc, Giấc mộng lớn được in trong Tản Đà toàn tập (tập 2)
  14. 7 và một số bài báo được in trên An Nam tạp chí cũng do Nguyễn Khắc Xương biên soạn. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp lịch sử: Chúng tôi tìm hiểu thời đại nhà thơ Tản Đà sinh sống, khảo sát về thân thế và sự nghiệp của ông. Đó là những phương diện cơ bản hình thành nên nhân cách, cá tính con người của Tản Đà, phong cách thơ văn của ông để từ đó dẫn đến việc hình thành mộng trong thơ văn ông. - Phương pháp thống kê – phân loại: Sau khi khảo sát tất cả những tập thơ và văn tập của tác giả, chúng tôi tiến hành chọn lọc những câu thơ, đoạn văn có nói đến mộng và phân loại thành những kiểu dạng của mộng một cách hợp lý nhất. - Phương pháp phân tích – tổng hợp: Chúng tôi tiến hành phân tích một số bài thơ, câu thơ, đoạn văn về mộng tiêu biểu của Tản Đà và trên cở sở những kết quả đã phân tích, chúng tôi tổng hợp lại những ý chính nhằm làm nổi rõ yêu cầu của đề tài. - Phương pháp so sánh: Phương pháp này sử dụng ở một mức độ nào đó để đối sánh mộng trong thơ văn Tản Đà với các tác giả trước và sau ông, từ đó chúng tôi đưa đến nhận xét về sự nổi bật trong thơ văn viết về mộng của nhà thơ núi Tản sông Đà. 5. Cấu trúc khóa luận Bên cạnh phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo thì phần nội dung của khóa luận sẽ được triển khai trong 3 chương: Chương 1: Giới thuyết về mộng và một số vấn đề liên quan
  15. 8 Chương 2: Mộng trong thơ văn Tản Đà nhìn từ phương diện nội dung Chương 3: Những phương thức thể hiện mộng trong thơ văn Tản Đà
  16. 9 CHƯƠNG 1 GIỚI THUYẾT VỀ MỘNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN 1.1 Khái niệm mộng Mộng, có lúc còn được gọi là giấc mơ, mơ mộng, cơn mơ, cơn mê, chiêm bao, ước ao, mộng mị v.v... Trong Từ điển Tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, dưới góc độ là một danh từ thì mộng là “hiện tượng thấy người hay sự việc hiện ra như thật trong giấc ngủ” hoặc là “điều luôn luôn được hình dung, tưởng tượng tới và mong muốn trở thành sự thật, ví dụ: người yêu trong mộng”. Còn khi là một động từ thì mộng chỉ việc “thấy người hay sự việc hiện ra trong giấc ngủ, ví dụ: mộng thấy chuyện chẳng lành” [19; tr.830]. Như vậy, những gì xảy ra trong giấc ngủ mỗi ngày của con người thì gọi là mộng, những mong muốn của con người cũng được gọi là mộng. Do đó, ta có thể tạm chia khái niệm “mộng” thành hai loại: mở mắt và nhắm mắt; trong đó, mộng nhắm mắt có thể hiểu là mộng theo kiểu tín ngưỡng, còn mộng mở mắt là thuộc về mộng tưởng, những khao khát trong đời sống tinh thần của con người. Bỏ qua những giấc mộng trong khi nhắm mắt, “mộng” mà chúng tôi muốn tìm hiểu ở đây hay nói cách khác, mộng ở trong thơ văn Tản Đà là những mộng ước. Về mộng lúc tỉnh này, nhà văn người Tây Ban Nha Maria Zambrano đã viết trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới rằng: “Trong trạng thái tỉnh, chiêm mộng đột ngột chiếm ta mà không biết được và tạo ra một kiểu quên lãng hay hồi tưởng mà sự diễn biến của nó có thể xô đẩy ta tới những bờ cõi mà ý thức không thể dung nạp được. Khi ấy thì chiêm mộng trở thành mầm mống của sự ám ảnh, sự bóp méo hiện thực. Nhưng ngược hẳn lại, nếu nó dẫn dắt sang một bình diện ứng hợp với ý thức, đến nới mà ý thức và tâm hồn cộng sinh, thì nó lại trở thành một hình thức sáng tạo đời sống cá nhân hoặc trong một sự nghiệp” [2; tr 166].
  17. 10 Trong văn chương, mộng là một khái niệm được sử dụng khá rộng rãi, với nhiều tầng nghĩa đa dạng nhưng tương đối thống nhất. Nằm trong cùng trường ngữ nghĩa với mộng là mê: một động từ chỉ sự “ham thích tới mức như bị cuốn hút hoàn toàn vào, không còn biết đến những cái khác” [19; tr. 813]; mơ là việc con người ta: “nghĩ tới và mong có được (những điểu tốt đẹp ở ngay trước mắt hoặc chưa hề có.” [19; tr. 833]; ước là một động từ chỉ việc “mong có được điều biết là rất khó hoặc không hiện thực” [19; tr. 1410]; tưởng: “nghĩ đến nhiều một cách cụ thể và với tình cảm thiết tha.” [11; tr. 1398]. Như vậy, năm từ này sẽ là dấu hiệu đầu tiên giúp ta nhận biết mộng trong thơ văn Tản Đà.  Bảng 1.1 Thống kê tỷ lệ phần trăm số bài thơ có chứa những từ thuộc trường ngữ nghĩa “mộng” (gồm: mộng/mơ/mê/tưởng/ước) trong thơ Tản Đà. Tên tác phẩm Năm xuất Tổng số Tổng số bài thơ có Tỷ lệ bản hoặc bài thơ chứa những từ (%) in lần mộng/mơ/mê/tưởng/ ước Tản Đà văn tập 1912 - 8 3 37.5 1915 Khối tình con I 1916 35 5 14.3 Khối tình con II 1918 28 7 25 Còn chơi – Thơ 1920 – 32 11 34.4 Tản Đà 1925
  18. 11 Thơ (đây không Chưa rõ phải là tên tập thơ) xuất xứ, 24 8 33.3 nơi in, năm sáng tác Thơ trên báo và 1926 - 50 7 14 An Nam tạp chí 1939 (Văn bản thơ và sự phân chia tập thơ của Tản Đà chúng tôi dựa vào cuốn Văn học hiện đại – Tuyển tập Tản Đà, do Xuân Diệu biên soạn, xuất bản năm 2002.) Từ bảng thống kê 1.1 ta thấy, số bài thơ có chứa những từ: mộng, mê, mơ, tưởng, ước là 41 bài, chiếm 23.2% trên tổng số bài thơ của Tản Đà. Như chúng tôi đã nói, những từ này là dấu hiệu đầu tiên để nhận dạng thơ viết về mộng của ông, bên cạnh đó có khá nhiều bài Tản Đà viết về mộng mà không có những từ này. 1.2 Mộng trong thơ văn Việt Nam trước và sau Tản Đà Chuyện mộng mơ trong văn học từ Đông sang Tây không hề thiếu, chẳng hạn ở văn học Trung Quốc có Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ở văn học phương Tây thì đơn cử truyện ngắn Giấc mơ của Franz Kafka. Vậy thì trong văn học viết Việt Nam trước và sau Tản Đà, chuyện mộng mị, mộng tưởng đã tồn tại như thế nào? 1.2.1 Mộng trong thơ văn trung đại
  19. 12 1.2.1.1 Mộng nhắm mắt – mộng tín ngưỡng Trước Tản Đà ngót thế kỷ, văn học trung đại Việt Nam đã có những giấc mộng tồn tại như một nét đặc biệt của yếu tố kỳ ảo, và hơn thế “giấc mộng không chỉ mở ra cánh cửa dẫn đến thế giới tâm linh của người Việt mà còn tạo nên một vùng không gian hư ảo để con người tự do bộc lộ những khát khao, mộng tưởng mà lúc tỉnh thức họ không cách nào thực hiện được.” [35; tr.131]. Nghiên cứu về mộng trong thơ văn Tản Đà mà không nhắc đến văn học trung đại thì quả là một thiếu sót, vì ông Nguyễn Khắc Hiếu có “cái dáng điệu ngang tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa.” (Hoài Thanh). Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, mỗi dân tộc, mỗi tín ngưỡng đều có những câu chuyện khác nhau về mộng mị và thường lý giải ý nghĩa mộng từ sự tồn tại của linh hồn, thần linh. Mộng trong văn học trung đại Việt Nam cũng mang màu sắc tương tự. Nói đến văn học trung đại nước ta thì dĩ nhiên không thể bỏ qua tuyệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Nhân vật chính là nàng Thúy Kiều qua hai lần tìm đến cái chết cũng chính là hai lần không thể chết mà đặc biệt là trong cơn mê, nàng đều gặp gỡ Đạm Tiên – một hồn ma. Trong tác phẩm, thì hồn Đạm Tiên đã xuất hiện năm lần, và những giấc mơ Đạm Tiên mang lại không chỉ là ám ảnh mà đó còn đánh thức những dự cảm về tương lai của Kiều:“Thấy người nằm đó biết sau thế nào” hay “Một dày một mỏng biết là có nên” và “Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”. Trong thế giới kỳ ảo của những giấc mộng, dường như kết giới giữa thế giới loài người và thế lực siêu nhiên đã được phá vỡ. Và trong chiêm bao, thần linh thường mang đến cho loài người lời hứa hẹn hay các điềm báo và sự báo mộng này cũng chính là một cách thể hiện sự hiển linh của các bậc thần thánh hay người đã khuất. Hay như trong Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào, sau khi được thầy cho lên thiên tào một chuyến, hiểu rõ sự tình, “Tử Hư từ biệt
  20. 13 thầy trở về, sang năm đi thi quả đỗ tiến sĩ. Phàm những việc cát hung họa phúc nhà Tử Hư, thường được thầy về báo cho biết.” [4; tr. 150]. Trong Chuyện Lý tướng quân nói về Lý Hữu Chi người huyện Đông Thành, vốn là một nông dân khỏe mạnh, bản tính hung tợn nhưng giỏi đánh trận nên được Quốc công Đặng Tất tiến cử cho làm tướng quân. Có quyền chức trong tay, Lý tướng quân ngày một độc ác, chém giết vô tội vạ, đến năm 40 tuổi thì chết. Hắn có một người con trai tên Thúc Khoản, Thúc Khoản lại có một người bạn thân tên Nguyễn Qùy, đã chết ba năm rồi. Theo chỉ dẫn của bạn, con trai của Lý tướng quân chứng kiến được cảnh Diêm phủ xét xử cha mình vô cùng ghê rợn. “Quỷ sứ liền vào lôi Hữu Chi điệu đi. Bấy giờ Thúc Khoản ở khe tường dòm thấy, khóc thất thanh. Mấy người quỷ sứ liền lấy tay bưng miệng rồi đưa về nhà, ném chàng từ trên không xuống đất. Thúc Khoản giật mình tỉnh dậy, thấy người nhà đương ngồi chung quanh mà khóc, nói mình chết đã hai ngày rồi, chỉ vì thấy ngực hãy còn thoi thóp và hơi nong nóng, cho nên chưa dám đem chôn. Thúc Khoản bèn ruồng bỏ vợ con, đem của cải tán cấp cho mọi người và đốt hết những văn tự nợ, vào rừng hái thuốc tu luyện.” [4; tr.237]. Trong quan niệm của con người trung đại thì số mệnh con người căn bản đã được định sẵn từ trước khi đứa trẻ chào đời, thông qua hình ảnh mà người mẹ nhìn thấy trong chiêm bao trước khi thụ thai hoặc qua những tín hiệu từ đứa bé sau khi sinh ra. Có một điều dễ thấy trong truyện trung đại thì sự ra đời của những nhân vật chính thường được thần linh báo mộng như một sự dự báo xuất thân phi thường của họ. Trong truyện thơ Hoàng Trừu, sự thụ thai nàng công chúa nước Nam được tác giả dân gian giới thiệu như sau: “Đền Nghêu rủ áo thong dong, Một bà hoàng hậu mơ mòng giấc hoa. Chiêm bao thấy vị sao sa,
nguon tai.lieu . vn