Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TRƯƠNG THU HUYỀN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC TẠI NHẬT BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2014-L HÀ NỘI, 2018
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TRƯƠNG THU HUYỀN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC TẠI NHẬT BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2014-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.S Nguyễn Lê Thu HÀ NỘI, 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyền Trương Thu Huyền i
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. iii DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................................ iv MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ............... 5 1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội ......................................................... 5 1.1.1.Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội trên thế giới ............................... 5 1.1.2.Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ................................... 8 1.2. Khái niệm và phân loại Bảo hiểm xã hội ......................................................................10 1.2.1.Khái niệm Bảo hiểm xã hội ............................................................................................10 1.2.2.Phân loại Bảo hiểm xã hội ..............................................................................................12 1.3. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội.........................................................................................14 1.4. Vai trò bảo hiểm xã hội.....................................................................................................16 1.4.1. Đối với người lao động ...................................................................................................16 1.4.2. Đối với tổ chức sử dụng lao động................................................................................16 1.4.3. Đối với nền kinh tế - xã hội ...........................................................................................17 CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI ......................................................... 18 2.1. Khái niệm người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài ..................................18 2.1.1. Pháp luật Quốc tế .............................................................................................................18 2.1.2. Pháp luật Việt Nam ......................................................................................... 24 2.2. Chế độ Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài 27 2.2.1. Quyền hưởng Bảo hiểm xã hội cho người lao động di trú .............................. 27 2.2.2. Quyền được hưởng Bảo hiểm xã hội của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam .............................................................. 29 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI VIỆT NAM LAO ĐỘNG Ở NHẬT BẢN ......................................................................................................... 39 3.1. Thực trạng người lao động Việt Nam đi làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản. ..39 3.2. Thực trạng Pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản.........................................................................................................44 i
  5. 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản. ........................................................52 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 57 DANH MỤC THAM KHẢO .................................................................................. 58 ii
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ BHXH Bảo hiểm xã hội ILO Tổ chức Lao động quốc tế ICESCR Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa ICRMW Công ước quốc tế về các quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động TNLĐ-BNN Tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp Quỹ BHXH Quỹ Bảo hiểm xã hội iii
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU STT Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1 Bảng 3.1 Một số nước/vùng lãnh thổ tiếp nhận người lao 40 động Việt Nam nhiều nhất năm 2012-2016 2 Bảng 3.2 Tình hình lao động Việt Nam đang làm việc tại 43 nước ngoài/vùng lãnh thổ bên ngoài và mức thu nhập trung bình hằng tháng năm 2014 iv
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại toàn cầu hóa không chỉ đặc trưng bời tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư và vốn, mà còn bởi phong trào xuyên quốc gia của người dân để tìm kiếm cuộc sống tốt hơn và có cơ hội việc làm nhiều hơn. Vì vậy, người lao động di chuyển từ nước này sang nước khác đã trở thành hiện tượng khá phổ biến, tuy không nhộn nhịp như tư bản và công nghệ nhưng lao động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới tìm nơi có mức thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác với sự di chuyển của lao động tri thức đã có từ trước thì xuất và nhập khẩu lao động giản đơn hay lao động chân tay, lao động phổ thông là hiện tượng không còn mới trong giai đoạn hiện nay. Trên thế giới hiện tại, có hai loại lao động di cư cơ bản: di cư từ vùng này đến vùng khác trong phạm vi biên giới của một quốc gia và di cư từ quốc gia này đến quốc gia khác. Trong phạm vi bài nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu sâu trong lĩnh vực bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động di cư nhất là đối với lao động Việt Nam khi đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể là chế độ Bảo hiểm xã hội dành cho người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. BHXH là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, vì vậy việc hoàn thiện chính sách BHXH đóng vai trò to lớn trong việc góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và NLĐ. Đối với nước ta bảo đảm ngày càng tốt hơn hệ thống an sinh xã hội luôn là chủ trương, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Ở nước ta, pháp luật BHXH đã được Nhà nước ban hành và thực hiện hơn 60 năm nay. Do hoàn cảnh lịch sử đất nước nên pháp luật BHXH được hình thành và phát triển trong cơ chế quản lý hành chính, tập trung bao cấp. Hiện nay, Việt Nam đang trên đà phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước nên chúng ta cũng không thể nằm ngoài bối cảnh chung của thế giới được. Trong thực tế hiện nay, hệ thống pháp luật BHXH của chúng ta đã và đang bộc lộ nhiều nhược điểm cả về mặt lý luận cũng như mặt thực tiễn; cả trên mặt pháp luật cũng như việc tổ chức thực hiện. Để có căn cứ cho việc hoàn thiện pháp luật BHXH cũng như hoàn thiện chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam 1
  9. làm việc ở nước ngoài cho phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội đồng thời phải đồng bộ với các quy định của pháp luật kinh tế, xã hội khác có tính đến pháp luật Nhật Bản thì việc nghiên cứu “chế độ Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” là rất cần thiết. Với những lý do trên, người thực hiện đề tài đã lựa chọn đề tài “Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Viêt Nam làm viêc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản” để viết với mong muốn là được góp một phần vào công viêc nghiên cứu nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài BHXH không phải vấn đề mới nhưng nó trở thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Trong thời gian gần đây, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những người quan tâm đến BHXH đã có nhiều bài viết, công trình khoa học nhằm đóng góp ý kiến xây dựng hệ thống BHXH ở nước ta: cuốn sách “Pháp luật an sinh xã hội – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Tiến sĩ Nguyễn Hiền Phương, Phạm Lan Hương (2012) “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bản tỉnh Phú Thọ”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Thị Lan Hương (2012) với nội dung “Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội . Bên cạnh đó, rất nhiều bài viết của các nhà khoa học trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành về nội dung BHXH: PGS. Lê Thị Hoài Thu Lê Thị Hoài Thu (2002) với nội dung “Bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam” trên tạp chí khoa học ĐHQGHN Kinh tế - Luật, Lưu Quang Tuấn (2007) với nội dung “Đánh giá các chế độ Bảo hiểm xã hội hiện hành ở Việt Nam” trên tạp chí nghiên cứu kinh tế … Bên cạnh đó vấn đề người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cũng có các công trình nghiên cứu nhưng chủ yếu dưới khía cạnh như: Hoàng Kim Khuyên (2011) với nội dung “Bảo vê quyền và lợi ích của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước hữu quan”, Luận văn thạc sĩ Luật Quốc tế, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Bùi Thị Hòa (2014) với nội dung “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người lao động di trú ở Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ ngành Pháp luật về quyền con người, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nguyễn Thị Thu Hiền (2015) với nội dung 2
  10. “Hợp đồng đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội , Nguyễn Phúc Khanh (2004) “Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm – Thực trạng và giải pháp” – Đề tài khoa học cấp Bộ, Phan Huy Đường(2009), bài viết Nâng cao chất lượng dịch vụ của nhà nước về bảo vệ quyền lợi người lao động Việt Nam ở nước ngoài, Tạp chí Kinh tế và phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân … Ở mức độ nhất định, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá và đưa ra những kiến nghị liên quan đến việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc thông qua hình thức hợp đồng và tình hình BHXH trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam những hầu như các bài trên chưa đánh giá được một cách toàn diện những bất cập của chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Do đó, đề tài khóa luận “Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Viêt Nam làm viêc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản” sẽ là một công trình nghiên cứu các vấn đề xoay quanh chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài về đối tượng hưởng chế độ BHXH, cách thức đóng quỹ BHXH, mức độ hưởng các chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài kể từ khi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có hiệu lực. Trên cơ sở đó đánh giá những tác động, ảnh hướng của pháp luật Viêt Nam với thực tiến điều chỉnh quan hệ đưa người Việt Nam đi làm việc ở Nhật Bản theo hợp đồng nhằm đề xuất giải pháp, kiến nghị hướng tới việc hoàn thiện pháp luật phù hợp xu thế vận động của thị trường lao động quốc tế. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài - Nghiên cứu vấn đề lí luận BHXH và chính sách về BHXH ở nước ta dành cho NLĐ Việt Nam làm việc tại Nhật Bản hiện nay: các chế độ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHTN được qui định trong pháp luật – Thực trạng áp dụng qui định pháp luật về BHXH trong thực tế, những kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục để đảm bảo BHXH là công cụ hữu hiệu nhất của sàn an sinh xã hội ở nước ta trong thời gian tới. - Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả pháp luật về BHXH; đóng góp những ý kiến đề xuất cho việc sửa đổi Luật BHXH để phù hợp thực tế cuộc sống và sự phát triển của nước ta trong thời gian tới. 3
  11. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu pháp luật BHXH trong đó cụ thể là BHXH bắt buộc đối với NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản – là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được qui định trong các văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay. b. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận tập trung vào các vấn đề lí luận của pháp luận về BHXH đối với NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài cụ thể là làm việc trên địa bàn Nhật Bản đang được qui định trong Luật BHXH năm 2014 và các văn bản hướng dẫn. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, đề tài còn tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật BHXH cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực tế ở nước ta hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin. - Các phương pháp khác: Thu thập tài liệu, tư liệu, số liệu; phân tích tổng hợp; so sánh; đồ thị; tham khảo ý kiến chuyên gia… 6. Tính đóng góp của đề tài - Hoàn thiện khóa luận này, hi vọng những kiến thức khoa học trong khóa luận sẽ đánh giá một cách khái quát thực trạng pháp luật BHXH cho NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực tế ở nước ta hiện nay. - Mong rằng những kiến nghị được đề xuất trong khóa luận này sẽ là những ý kiến đóng góp vào việc sửa đổi Luật BHXH trong thời gian tới. 7. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục viết tắt, khóa luận gồm 3 phần: Chương 1: Những vấn đề lý luận về Bảo hiểm xã hội Chương 2: Pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Chương 3: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc ở Nhật Bản. 4
  12. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội 1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội trên thế giới Để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, con người cần phải lao động. Nhưng trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động và những may mắn khác để có một cuộc sống hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, già yếu, thiếu việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại còn tăng lên, thậm chí xuất hiện nhiều nhu cầu mới. Bởi vậy, để khắc phục những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động cần sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội.Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình phát triển của xã hội, đặc biệt là sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hóa làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào thu nhập do lao động làm thêm đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu... đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Điều đó đòi hỏi phải có sự tương thân, tương ái giữa những người lao động, đồng thời đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp nhằm bảo đảm cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật nhằm san sẻ rủi ro giữa những người lao động.[28] Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già, tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra hướng mới với cơ chế ba bên: người lao động, giới chủ và Nhà nước nhằm để ý nghĩa bảo vê người lao động có hiệu quả hơn. Đồng thời, sự bảo vệ này đã được mở rộng ra không chỉ 5
  13. là đối tượng mà cả nội dung bảo vệ. Đối tượng được bảo vệ ngày càng được mở rộng từ người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp đến người lao động tự tạo việc làm, lao động nông nghiệp. Nội dung bảo vệ cũng được mở rộng, ban đầu mới chỉ là bảo vệ người lao động trước những rủi ro do ốm đau, thì 100 năm sau phạm vi bảo vệ đã nới rộng như các tai nạn lao động, thương tật (trong quá trình lao động), tuổi già, tử tuất... (ngoài quá trình lao động). Các chế độ BHXH đã trở thành một hệ thống với nhiều đôi tượng tham gia và thụ hưởng khác nhau, với nhiều mô hình thực hiện khác nhau. Mặc dù vậy, đối tượng bảo vệ của bảo hiểm xã hội vẫn nhỏ hẹp so với cả cộng đồng dân cư. Để xã hội được ổn định và phát triển, một trong những nền tảng cơ bản là đời sống của người dân phải được an toàn, được đảm bảo. Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, Bắc Mỹ, Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh xã hội, được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền cơ bản của của con người. Bảo hiểm xã hội ra đời và lan rộng rất nhanh. Quá trình phát triển của BHXH trải qua các mốc sau: + Năm 1838 chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời lần đầu tiên ở nước Phổ (Cộng hòa liên bang Đức). + Năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành lập ở Đức, Bỉ. + Năm 1883, nước Đức ban hành đạo luật đầu tiên về BHXH. + Năm 1894 và 1896 nước Bỉ và Hà Lan đã được ban hành Bộ luật đấu tiên về các tổ chức tương tế. + Ở Mỹ, đạo luật đầu tiên về An sinh xã hội( trong đó BHXH là hạt nhân) đươch ban hành vào năm 1935. Trong đạo luật này có quy định về chế độ bảo hiểm tuổi già, tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động. + Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II (1940-1945) có 3 sự kiện lớn đánh dấu quá trình ra đời và phát triển BHXH, đó là: - Tổ chức lao động quốc tế đã tổ chức thảo luận một số vấn đề liên quan đến BHXH như: tàn tật và sinh đẻ liên quan đến lao động nữ. Vấn đề tử tuất của các binh sỹ trong chiến tranh. 6
  14. - Luật BHXH ở Mỹ đã được thông qua. - Kế hoạch Beveridge (1942) đã được Chính phủ Bỉ thông qua để chuẩn bị thành lập hệ thống BHXH ở Bỉ. + Ngày 10/12/1948, Đại hội đồng liên hiệp quốc Tuyên ngôn nhân quyền và trong đó có đoạn: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”. + Ngày 25/6/1952, hội nghị toàn thể của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã thông qua Công ước số 102 (công ước về an sinh xã hội)[52]. Nội dung công ước được tập hợp từ các chế độ và các vấn đề an sinh xã hội đã có và thực hiện ở một số nước trên thế giới trước đó. Sau Công ước số 102 đến nay hầu hết các nước ở Châu á, Châu Phi và Châu Mỹ la tinh đều xây dựng cho mình một hệ thống BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội; phù hợp với tương quan lực lượng giữa giới chủ và giới thợ và phù hợp với thể chế chính trị trong mỗi thời kỳ ở từng nước. Cũng sau công ước 102, một loạt các công ước quốc tế khác nhằm bổ sung, hoàn thiện và cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến BHXH, như: + Công ước số 111 ra đời năm 1985, đề cập đến vấn đề việc làm và thất nghiệp, chống phân biệt đối xử giữa những người lao động có mầu da, tôn giáo và chủng tộc khác nhau.[58] + Công ước số 128 ra đời năm 1967 nói về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền tuất.[59] + Công ước số 156 ra đời năm 1981 đã khuyến cáo các vấn đề về người lao động và trách nhiệm gia đình[53]. + Công ước số 158 ra đời năm 1982 nhằm mục đích chống lại việc giới chủ cho người lao động thôi việc mà không có lý do chính đáng.[60] Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế -xã hội, trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của người lao động ngày càng được nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc không may gặp phải những rủi ro của người lao động ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thỏa và có hiệu quả nhất. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy cần thiết phải tham 7
  15. gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền cơ bản của con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại Hội động Liên hợp quốc đã nêu. 1.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam BHXH ra đời, phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam từ năm 1945, sau khi Cách mạng tháng 8 thành công và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. BHXH được coi là lĩnh vực có quá trình phát triển lâu đời nhất trong hệ thống bảo đảm ở Việt Nam. Trong những năm qua, BHXH đã đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm xã hội cho người lao động, chủ yếu là công nhân viên chức Nhà nước. Cơ sở pháp lý đầu tiên của BHXH ở Việt Nam là Hiến pháp năm 1946. Trên cơ sở của Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh quy định về chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước, bao gồm sắc lệnh số 29/SL ngày 12-03-1947, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20-05-1950, Sắc lệnh số 77/SL ngày 22-05-1950. Theo Hiến pháp năm 1946 và các Sắc lệnh đã ban hành, chế độ BHXH lúc đó được thực hiện hoàn toàn theo nguyên tắc trợ cấp. Cơ sở pháp lý của BHXH đã được hoàn thiện thêm một bước theo Hiến pháp năm 1959, trong hoàn cảnh Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam- Bắc. Hiến pháp năm 1959 thừa nhận công nhân viên chức có quyền được hưởng trợ cấp BHXH. Nội dung này đã được cụ thể hoá trong điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 và điều lệ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Hai điều lệ về BHXH này đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng cho việc thực hiện chế độ bảo hiểm ở miền Bắc XHCN từ đầu năm 1962. Khi đó đối tượng tượng tham gia của chính sách BHXH là cán bộ của đảng, đoàn thể, công chức Nhà nước, nhằm động viên, cổ vũ họ yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, góp phần trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Từ tháng 5 năm 1975, chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước đã góp phần to lớn vào bảo đảm xã hội cho công nhân viên chức, đặc biệt đối với lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang nhằm ổn định xã hội sau cuộc kháng 8
  16. chiến kéo dài nhiều năm. Chế độ BHXH lúc đó được thực hiện trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung với những đặc trưng sau: 1. Đối tượng tham gia của BHXH chỉ giới hạn đối với công nhân, viên chức nhà nước, lực lượng quân đội, vũ trang, cán bộ nhân viên của tổ chức đảng, đoàn thể. 2. Do cơ chế bao cấp, BHXH được thực hiện một cách “cào bằng” dẫn đến nhiều đối tượng không đủ điều kiện cũng được hưởng, tạo ra sự ỷ lại vào Nhà nước. 3. Không hình thành quỹ BHXH độc lập mà việc thực hiện bằng nguồn Ngân sách Nhà nước, vì vậy về thực chất Nhà nước đảm nhận toàn bộ trách nhiệm BHXH.[47] Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, bên cạnh khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã được hình thành, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm, thu nhập, đặc biệt là đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Sự đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và hệ thống BHXH nói riêng, trong đó có lĩnh vực BHXH nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội. Văn kiện đại hội đảng lần thứ VII đã nêu rõ: “Cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi NLĐ và đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều đóng góp quỹ BHXH. Từng bước tách quỹ BHXH đối với công nhân viên chức ra khỏi ngân sách, trở thành quỹ BHXH chung cho NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế”. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã nêu rõ: “Mở rộng chế độ BHXH đối với NLĐ thuộc các thành phần kinh tế”. Điều đó cũng chứng tỏ Đảng đã chú trọng tới bảo đảm cuộc sống cho mọi người dân khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Ngày 26/01/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP về điều lệ BHXH và Nghị định 19/NĐ-CP ngày 16/02/1995 quy định việc thành lập quỹ BHXH, tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách nhà nước. Từ đây đánh dấu sự đổi mới về chính sách BHXH ở nước ta nhằm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội trong quá trình chuyển đổi kinh tế, thể hiện ở ba điểm chính sau: Thứ nhất, hình thành quỹ BHXH độc lập, tách khỏi NSNN. Thứ hai, quỹ BHXH được hình thành trên nguyên tắc cùng đóng góp giữa NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước. 9
  17. Thứ ba, mở rộng đối tượng tham gia tới NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngày 28/06/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức thông qua Luật Bảo hiểm xã hội và có hiệu lực thực hiện loại hình BHXH bắt buộc từ 01/01/2007 Ngày 20/11/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Viêt Nam thông qua Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật cũ hết hiệu lực. 1.2. Khái niệm và phân loại Bảo hiểm xã hội 1.2.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội BHXH là một bộ phận cấu thành của hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống an sinh xã hội trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), an sinh xã hội (Social Security) là sự bảo vệ của xã hội đối với mọi thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Ngày nay, khái niệm an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên không may bị lâm vào cảnh yếu thế trong xã hội, thông qua các biện pháp phân phối lại tiền bạc, của cải và dịch vụ xã hội. Theo cách hiểu này, hệ thống an sinh xã hội bao gồm 2 bộ phận cơ bản là bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Trong đó, bảo hiểm xã hội (Social Insurance) là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội. Có nhiều khái niệm khác nhau về BHXH được nêu ra trong các tài liệu tùy theo phương diện tiếp cận của tác giả. Trong số đó, khái niệm bảo hiểm xã hội nêu ra trong Từ điển Bách khoa Việt Nam và trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam được coi là phù hợp nhất với đối tượng nghiên cứu về bảo hiểm xã hội Việt Nam. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội” 10
  18. Theo Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” Hơn thế BHXH còn được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau: Dưới góc độ kinh tế, BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp, được coi là sự bù đắp và thay thế phần thu nhập đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập trên cơ sở thành lập và sử dụng quỹ tiền tệ dự trữ của cộng đồng những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Trong quá trình lao động, đặc biệt trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì con người luôn gặp phải những khó khăn, rủi ro như: tai nạn lao động, ốm đau, bệnh tật, mất việc làm, thất nghiệp. Chính vì vậy, để ổn định cuộc sống NLĐ phải tìm đến các biện pháp đảm bảo thu nhập cho chính mình trong những trưởng hợp rủi ro nói trên. NLĐ phải có một lượng vật chất đủ để đảm bảo trang trải và bù đắp cho những tổn thất khi xảy ra, hoặc họ sẽ tham gia vào một hệ thống BHXH. Khi đó, NLĐ đóng góp một khoản tiền vào nguồn quỹ chung (gọi là quỹ BHXH), khi họ “gặp rủi ro” bị mất hoặc giảm thu nhập thì quỹ BHXH thực hiện chức năng hỗ trợ bù đắp phần thu nhập đó cho NLĐ, nhằm giúp họ ổn định cuộc sống. Dưới góc độ xã hội, BHXH là một chính sách nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho NLĐ khi họ không may gặp các “rủi ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội.... Khi NLĐ gặp phải rủi ro trong cuộc sống thì những nhu cầu được đặt ra như khắc phục khó khăn về kinh tế, chữa bệnh an dưỡng tuổi già... Vì vậy, Nhà nước cần thiết phải có những giải pháp để giải quyết những vấn đề phát sinh xảy ra đối với NLĐ, nhằm giúp NLĐ vượt qua khó khăn, ổn định đời sống; đồng thời cũng là giải pháp nhằm ổn định xã hội. Khi đó, vai trò của BHXH được thể hiện rõ nét, bù đắp thu nhập cho NLĐ, giữ vững nền sản xuất, đảm bảo ổn định xã hội. Như vậy, dưới góc độ xã hội, chúng ta có thể thấy BHXH là một bộ phận trong nội dung của hệ thống bảo đảm xã hội “bảo đảm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để đối phó khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngưng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và việc trợ cấp cho các gia đình đông con”. 11
  19. Dưới góc độ pháp luật, BHXH là tổng hợp các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ NLĐ; sử dụng nguồn đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm (hoặc gia đình của họ) trong trường hợp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động hoặc chết. Như vậy, về phương diện pháp lý, BHXH là tổng thể các quy định của Nhà nước quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên khi tham gia vào quan hệ BHXH; mức đóng góp, phương thức đóng góp và mức hưởng đối với những đối tượng áp dụng BHXH... Trên cơ sở các quy định pháp luật, các bên tham gia phải tuân thủ. Dù tiếp cận dưới góc độ nào thì mục tiêu chính của BHXH cũng được thể hiện rõ, nhằm bảo vệ NLĐ trước những biến cố cuộc sống và được bảo vệ bằng hệ thống chính sách. Như vậy, có thể khái quát về BHXH như sau: BHXH là phương pháp san sẻ rủi ro được thực hiện thông qua việc tạo lập quỹ tài chính BHXH, nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết. 1.2.2. Phân loại Bảo hiểm xã hội BHXH là một vấn đề kinh tế xã hội tổng hợp có thể tiếp cận, nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Từ đó có nhiều cách, nhiều tiêu chí phân loại, tạo ra những kết quả phân loại khác nhau. Trong lý luận cũng như trong thực tế, BHXH thường được phân loại theo các tiêu thức cơ bản sau: Thứ nhất, phân loại theo loại hình BHXH của người tham gia BHXH. Theo cách phân loại này, BHXH được chia thành hai loại: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Cách phân loại này nhằm xác định đối tượng tham gia và điều kiện tổ chức, mở rộng các loại hình BHXH một cách hợp lý. Trong đó, BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm mà người lao động, người sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia theo quy định của pháp luật. Loại BHXH này được hình thành khi Nhà nước đã đứng ra lo liệu với tư cách là người tổ chức, quản lý BHXH. Việc tổ chức BHXH bắt buộc chủ yếu để thực hiện mục đích ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động với người lao động nhằm ổn định nguồn thu, chi để phát triển BHXH bền vững. Thông qua đó có thể đảm bảo đời 12
  20. sống cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội nói chung. Thông thường phạm vi bảo hiểm bắt buộc rộng hay hẹp phục thuộc vào trình độ, khả năng quản lý rủi ro, quản lý đối tượng tham gia của nhà nước. Khi mới ban hành các chính sách, chế độ BHXH bắt buộc, các nước thường bắt đầu từ phạm vi hẹp, đó là những lao động làm việc có hưởng lương tương đối ổn định. Ngay cả các đối tượng này, ban đầu cũng có những giới hạn nhất định về ngành nghề, thành phần kinh tế hay khu vực tham gia. Sau đó, phạm vi tham gia ngày càng được mở rộng hơn, trên cơ sở trình độ, phương tiện và kinh nghiệm quản lý đạt được. Về mức phí BHXH bắt buộc, người tham gia có trách nhiệm hàng tháng phải đóng một khoản tiền nhất định, do pháp luật quy định, tương ứng với một tỉ lệ tiền lương của người lao động cho quỹ BHXH. BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm mà người lao động có quyền tự quyết định tham gia hay không tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng, hưởng phù hợp theo các quy định của pháp luật. Xuất phát điểm của BHXH là sự tự nguyện của cộng đồng những người lao động cùng có nguy cơ gặp một số rủi ro và cùng có nhu cầu chia sẻ các rủi ro đó. Việc Nhà nước phải đứng ra tổ chức quản lý BHXH theo hình thức bắt buộc cũng chứng tỏ rằng nếu BHXH thuần túy chỉ là sự tự nguyện của người lao động thì hoặc là không bền vững, hoặc là không hiệu quả, rủi ro chỉ được quản lý, chia sẻ trong những cộng đồng nhỏ hẹp, ít chuyên nghiệp... Vì vậy, để có hệ thống bảo hiểm tự nguyện hiệu quả cũng cần có sự tổ chức, quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên các nước không lựa chọn điều chỉnh loại hình này ngay từ khi bắt đầu tổ chức BHXH. Bởi vì, những lao động không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thường không có sự chia sẻ từ phía người sử dụng lao động. Từ đó, nhu cầu tham gia bảo hiểm của các đối tượng này cũng không ổn định. Nếu không có các biện pháp quản lý hữu hiệu thì quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện khó có điều kiện duy trì bền vững. Đối với những nước mà khu vực phi chính thức và các lao động tự tạo việc làm chiếm tỉ trọng lớn thì việc quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện cực kỳ khó khăn. Cơ quan bảo hiểm thường ít có thông tin về các đối tượng này để kiểm soát thu sao cho đủ và xác định căn cứ chi trả sao cho quỹ không bị lạm dụng. Thứ hai, phân loại theo thời gian cân đối và hạch toán quỹ BHXH. Theo cách này, BHXH được phân loại thành BHXH ngắn hạn và BHXH dài hạn. Cách 13
nguon tai.lieu . vn