- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- Khóa luận tốt nghiệp Luật học: Pháp luật về quy hoạch đô thị ở Việt Nam qua thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội
Xem mẫu
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THU HIỀN
PHÁP LUẬT VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM
QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH- 2014- L
HÀ NỘI - 2018
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------------
NGUYỄN THU HIỀN
PHÁP LUẬT VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM
QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH- 2014- L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS DOÃN HỒNG NHUNG
HÀ NỘI- 2018
- LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận đều được cập nhật, đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của khóa luận chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
Nguyễn Thu Hiền
- MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUY HOẠCH
ĐÔ THỊ.................................................................................................................. 8
1.1. Những khái niệm cơ bản về đô thị ............................................................... 8
1.1.1. Khái niệm đô thị, đô thị thông minh và đô thị bền vững ....................... 8
1.1.2. Phân loại đô thị .................................................................................... 12
1.1.3. Đặc điểm của các loại đô thị ............................................................... 13
1.2. Tổng quan về quy hoạch đô thị .................................................................. 14
1.2.1. Khái niệm quy hoạch đô thị, mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất
với quy hoạch đô thị ....................................................................................... 14
1.2.2. Khái niệm pháp luật về quy hoạch đô thị ............................................ 17
1.3. Vai trò và ý nghĩa của quy hoạch đô thị .................................................... 17
1.3.1. Mối quan hệ giữa Luật quy hoạch đô thị với các ngành luật khác ..... 17
1.3.2. Những yêu cầu đối với quy hoạch đô thị ............................................. 21
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quy hoạch đô thị ......................................... 22
1.5. Pháp luật điều chỉnh quy hoạch đô thị và ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp
luật đối với quy hoạch đô thị ............................................................................ 23
1.6. Kinh nghiệm quy hoạch đô thị tại một số Thành phố của Trung Quốc ............ 24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ Ở
VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUY HOẠCH
ĐÔ THỊ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI. ............................................................. 32
2.1. Quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị ở Việt Nam......................... 32
2.1.1. Nội dung quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục lập , thẩm định, phê
duyệt quy hoạch đô thị ................................................................................... 32
2.1.2. Quyền và trách nhiệm của các cơ quan ,tổ chức, cá nhân về các vấn đề
quản lý, giám sát quy hoạch đô thị ................................................................ 32
- 2.1.3. Vấn đề về tư vấn lập quy hoạch đô thị................................................. 34
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về quy hoạch đô thị tại Thành phố Hà Nội .. 35
2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của thành phố Hà Nội
và ảnh hưởng của những điều kiện đó đến việc thực hiện pháp luật về quy
hoạch đô thị ................................................................................................... 35
2.2.2. Phát triển quy hoạch chung xây dựng đô thị tại Thủ đô
Hà Nội .......................................................................................................... 36
2.2.3. Thực trạng thực hiện quy hoạch đô thị trên địa bàn Thành phố Hà Nội..... 38
2.3. Những điểm thuận lợi và bất cập của pháp luật ảnh hưởng đến việc thực
thi pháp luật về quy hoạch đô thị ở Việt Nam .................................................. 41
2.3.1. Những thuận lợi trong việc áp dụng quy định pháp luật Việt Nam về
quy hoạch đô thị ............................................................................................. 41
2.3.2. Những bất cập của pháp luật ảnh hưởng đến việc thực thi các quy định
về quy hoạch đô thị. ....................................................................................... 43
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 48
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ Ở
VIỆT NAM QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI . 49
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về quy hoạch đô thị ở Việt Nam ............. 49
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về quy hoạch đô thị ở Việt Nam................ 53
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quy hoạch đô thị ở Việt Nam.............. 56
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy hoạch đô thị ở Việt Nam ................ 61
3.5. Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quy hoạch đô thị ở
Thành phố Hà Nội ............................................................................................. 65
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................... 69
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 72
- MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đô thị hóa, các thành phố luôn là tâm điểm vì nó tập
trung nhiều điều kiện thuận lợi như cơ sở hạ tầng, công trình kiến trúc, và nguồn
lực con người ổn định nhất. Đô thị có thể hiểu là tập hợp của những ngôi nhà và
con đường, đồng thời cũng là nơi tập hợp của những con người tương tác với
nhau trong một môi trường đông đúc và chật hẹp. Nó phản ánh một cách tổng
hợp quá trình và trình độ phát triển của xã hội, là nơi tích lũy của cải, tạo dựng
văn hóa và nuôi dưỡng những ý tưởng mới, nhằm thay đổi cuộc sống của cả
nhân loại. 1Song song với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế phi nông
nghiệp (công nghiệp, thương mại, dịch vụ,…) cùng với bối cảnh hội nhập, toàn
cầu hóa như hiện nay, Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới đều
đang phải đối mặt với một bài toán khó, đó là làm sao để công cuộc quy hoạch
đô thị được hiệu quả nhằm hướng đến một cuộc sống văn minh, phát triển bền
vững trong sự liên kết, gắn bó chặt chẽ giữa con người và môi trường.
Với những giá trị mà đô thị hóa đem lại, để trả lời cho câu hỏi quy hoạch
đô thị làm sao cho hiệu quả, trước hết cần đảm bảo sự can thiệp tầm vĩ mô từ
Nhà nước mà điển hình là những chính sách, văn bản quy phạm pháp luật cần
minh bạch, nhất quán, quy định trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức cá nhân
một cách rõ ràng, dự án quy hoạch phải khả thi. Trên tinh thần đó, Luật quy
hoạch đô thị năm 2009 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 đã
được ban hành nhằm mục đích giải quyết những khó khăn trong việc lập, thẩm
định, phê duyệt và điều chỉnh quy hoạch đô thị; tổ chức thực hiện quy hoạch đô
thị và quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch đô thị đã được phê duyệt. Như vậy,
văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh vấn đề quy hoạch tại các đô thị là Luật
1
Nguyễn Đỗ Dũng (2010), “Đô thị và Quy hoạch đô thị: Tư duy và tiếp cận”, http://www.ashui.com, truy cập
ngày 10/02/2018
1
- Quy hoạch đô thị năm 2009, cho đến nay là năm 2018, sau hơn 8 năm thi hành
thì luật này đã phát sinh nhiều hạn chế, bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung
đề phù hợp với tình hình giai đoạn hiện tại. Hiện nay, vấn đề quy hoạch ở các đô
thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ những thất bại cần khắc
phục ngay mà tiêu biểu là một loạt những “quy hoạch treo”, hay có những
chuyên gia gọi đây là việc “vỡ trận quy hoạch” Nếu chúng ta không có giải pháp
thì việc “vỡ trận” sẽ càng ngày càng trầm trọng hơn. Về quy hoạch của Hà Nội,
một số chuyên gia cho rằng, việc xây dựng và phê duyệt quy hoạch rất chặt chẽ
nhưng việc điều chỉnh và quản lý sau quy hoạch lại chưa tốt. 2
Xuất phát từ thực trạng đã nêu trên, tác giả chọn đề tài "Pháp luật về quy
hoạch đô thị ở Việt Nam qua thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội" cho khóa
luận tốt nghiệp bậc cử nhân. Qua nghiên cứu các vấn đề về quy hoạch đô thị trên
khía cạnh pháp lý và thực tiễn thực thi pháp luật quy hoạch đô thị trên địa bàn
thành phố Hà Nội, khóa luận làm rõ các điểm thuận lợi cũng như những hạn chế
còn tồn tại trong chính sách pháp luật quy hoạch đô thị , từ đó đề xuất những
kiến nghị phù hợp với Việt Nam từ kinh nghiệm của một số các quốc gia trên thế
giới về những vấn đề như thẩm định, quản lý và giám sát quy hoạch đô thị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đất đai là một tài nguyên vô cùng có giá trị vì nó đem lại cho con người
vô vàn những giá trị về mọi mặt đời sống, kinh tế và xã hội. Nhiều lợi ích như
vậy, khai thác đơn thuần thì đơn giản nhưng khai thác sao cho có hiệu quả nhất
mới là vấn đề cần tập trung chú trọng của mọi chính quyền. Muốn khai thác đất
đai hiệu quả, cần phải có những dự án quy hoạch thật sự khả thi. Tuy nhiên thực
tế hiện nay, rất nhiều dự án quy hoạch liên tiếp thất bại hoặc kéo dài thời gian
thực hiện do vướng mắc giải tỏa hoặc các vướng mắc phổ biến khác đã khiến dư
luận đặt câu hỏi về tính khả thi, hợp lý, hợp pháp trong quá trình thực hiện một
2
H.Duy – L.Sơn (2017), “Chuyên gia hiến kế xây dựng Luật Quy hoạch”, http://duthaoonline.quochoi.vn, truy
cập ngày 10/02/2018
2
- loạt các dự án quy hoạch đất đai. Trong công cuộc quy hoạch đất đai nói chung,
quy hoạch đô thị nói riêng là một trong những vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu
luật học, kiến trúc học quan tâm nhiều nhất. Và sau đây là một số tác phẩm, bài
viết về quy hoạch đô thị của một số học giả tiêu biểu:
- Cuốn “Giáo trình Quản lý đô thị năm 2004” của Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân do GS.TS Nguyễn Đình Hương chủ biên. Cuốn sách đề cập chủ yếu
đến những nội dung cơ bản về quản lý đô thị như lý giải khái niệm quản lý đô thị,
sự cần thiết của việc quản lý đô thị, đặc điểm của quản lý đô thị, mục đích, ý
nghĩa và các nguyên tắc quản lý đô thị, nội dung quản lý đô thị .Trong đó, có nội
dung đề cập về quy hoạch đô thị.
- Cuốn “Giáo trình Quản lý nhà nước về đô thị”, xuất bản năm 2007 của
Học Viện Hành chính - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
do PGS.TS Phạm Kim Giao làm chủ biên. Cuốn sách đi sâu tìm hiểu những vấn
đề lý luận về quản lý nhà nước đối với đô thị nói chung và quản lý nhà nước về
quy hoạch đô thị nói riêng.
- Cuốn “Quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị”, xuất bản năm 2008
của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội do GS.TS Nguyễn Thế Bá chủ biên. Nội
dung của cuốn sách chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về quy
hoacḥ xây d ựng nhằm phát triển đô thị theo hướng văn minh, hiện đại nhưng
vẫn giữ được các giá trị văn hoá truyền thống.
- Tác phẩm “Pháp luật về quy hoạch không gian xây dựng đô thị” của TS
Doãn Hồng Nhung (chủ biên), NXB Xây dựng năm 2012.
- Bài viết “Quản lý đô thị ở Việt Nam hiện nay” của TS. Doãn Hồng
Nhung; Tạp chí Kiến Trúc - Hội Kiến trúc Việt Nam số 167 năm 2009. Bài viết
tìm hiểu về thực trạng quản lý đô thị ở Việt Nam hiện nay; trong đó, có nội dung
đề cập đến vấn đề quy hoạch đô thị.
3
- - Bài viết “Bài học nào cho phát triển đô thị ở Việt Nam” của KTS. Nguyễn
Hữu Thái; Tạp chí Kiến Trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam số 167 năm 2009. Bài
viết đề cập đến thực trạng phát triển đô thị nói chung và quy hoạch đô thị nói riêng;
đồng thời, đề xuất một số giải pháp cho việc phát triển đô thị ở Việt Nam.
- Bài viết “Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với đô thị ở Việt Nam
hiện nay” của TS. Doãn Hồng Nhung, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7 năm
2010. Nội dung chủ yếu của bài viết đề cập đến một số vấn đề lý luận, thực trạng
và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với đô thị ở Việt Nam.
Ngoài các tác phẩm và bài viết như kể trên, còn có rất nhiều sinh viên bậc
cử nhân, cao học lựa chọn các đề tài có liên quan đến pháp luật về quy hoạch đô
thị ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc đánh giá về mặt lý luận và thực tiễn hiệu quả
của pháp luật quy hoạch đô thị thông qua thực tiễn thi hành tại một thành phố cụ
thể có tốc độ đô thị hóa cao nhất nhì cả nước,đồng thời đưa ra giải pháp về mặt
pháp luật cụ thể đối với bản thân thành phố đó, mà cụ thể là thành phố Hà Nội,
thì chưa có một luận văn hay khóa luận nào thực sự đề cập một cách sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là thông qua phân tích, đánh giá thực trạng
việc thực thi pháp luật quy hoạch đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội, thông
qua đó phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật đô thị Việt Nam và đề xuất một
số giải pháp có thể tác động tích cực và giúp thúc đẩy công cuộc quy hoạch đô
thị nói chung và quy hoạch đô thị tại thành phố Hà Nội được hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về đô thị và quy hoạch đô thị, làm nối bật
lên vai trò của công tác quy hoạch đô thị.
4
- - Quy định của pháp luật Việt Nam có ảnh hưởng đến quá trình quy hoạch
đô thị
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật quy hoạch đô thị tại thành
phố Hà Nội, làm nổi bật lên các điều kiện tự nhiên- kinh tế- xã hội của thành phố
Hà Nội và nguyên nhân dẫn đến việc quy hoạch đô thị không hiệu quả ở thành
phố Hà Nội.
- Thông qua việc đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật quy hoạch đô thị tại
thành phố Hà Nội, phân tích , đánh giá một số quy định còn chưa hợp lý của
pháp luật quy hoạch đô thị tại Việt Nam
- Khảo sát, phân tích, đánh giá cách mà một số các quốc gia trên thế giới
quy hoạch đô thị tại các thành phố lớn của họ; từ đó rút ra bài học kinh nghiệm
phù hợp cho quy hoạch đô thị nói chung ở Việt Nam và quy hoạch đô thị nói
riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về những quy định pháp luật về quy hoạch đô thị.
Đồng thời nghiên cứu các hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách
nhiệm trong việc lập, thẩm định, tư vấn, quản lý và giám sát quy hoạch đất đô thị
dẫn tới việc quy hoạch đô thị không được hiệu quả.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Có rất nhiều vấn đề liên quan đến quy định của pháp luật về quy hoạch đô
thị, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận chỉ chủ yếu nghiên cứu
các quy định về quá trình lập, thẩm định, tư vấn, quản lý và giám sát quy hoạch
đô thị một cách tổng quát nhất trong pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
5
- - Phương pháp duy vật biện chứng: xem xét vấn đề pháp luật về quy
hoạch đô thị một cách toàn diện trong mối quan hệ mật thiết với các quy định có
liên quan của pháp luật Việt Nam
- Phương pháp phân tích- tổng hợp: phân chia các vấn đề lớn, phức tạp
thành những vấn đề nhỏ, chi tiết, cụ thể hơn. Sau khi phân tích thì tổng hợp lại
và đánh giá khái quát hướng tới sự nhận thức tổng thể về vấn đề quy hoạch đô
thị ở Việt Nam
- Phương pháp thống kê: Đề tài tập hợp các văn bản pháp luật của Việt
Nam liên quan đến vấn đề lập, thẩm định, tư vấn, quản lý, giám sát quy hoạch đô
thị trong thực tiễn làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu làm rõ mục đích nghiên
cứu của đề tài
- Phương pháp so sánh: Phân tích điểm giống và khác của pháp luật các
quốc gia về quy hoạch đô thị so với pháp luật Việt Nam, từ đó tiếp nhận, lan tỏa,
khuếch tán pháp luật nước ngoài hoặc cấy ghép pháp luật một cách hợp lý vào
pháp luật Việt Nam.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Đưa ý kiến của những chuyên gia
trong lĩnh vực quy hoạch đô thị, những nhà luật học hoặc những luật sư có kinh
nghiệm, hiểu biết rộng về vấn đề quy hoạch đô thị, sự đánh giá của chuyên gia
về thực trạng pháp luật quy hoạch đô thị ở Việt Nam.
6. Tính mới của nghiên cứu:
Thực tế cho thấy vấn đề quy hoạch đô thị ở Việt Nam không phải là một
vấn đề mới, điều này thể hiện ở việc có rất nhiều công trình, bài viết nghiên cứu
khá là toàn diện về cả mặt lý luận và thực tiễn thực thi pháp luật quy hoạch đô
thị tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc đánh giá về mặt lý luận và thực tiễn hiệu quả
của pháp luật quy hoạch đô thị thông qua thực tiễn thi hành tại một thành phố cụ
thể có tốc độ đô thị hóa cao nhất nhì cả nước, đồng thời đưa ra giải pháp về mặt
pháp luật cụ thể đối với bản thân thành phố đó, mà cụ thể là thành phố Hà Nội,
6
- thì chưa có một luận văn hay khóa luận nào thực sự đề cập một cách sâu sắc hay
nghiên cứu một cách tổng thể mà chỉ dưới hình thức những bài viết đơn lẻ.
7. Bố cục của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quy hoạch đô thị
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quy hoạch đô thị ở Việt Nam và thực
tiễn thực thi pháp luật về quy hoạch đô thị tại thành phố Hà Nội
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về quy hoạch đô thị ở Việt Nam qua thực
tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội
7
- CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
1.1. Những khái niệm cơ bản về đô thị
1.1.1. Khái niệm đô thị, đô thị thông minh và đô thị bền vững
Đô thị xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử từ thời con người ra khỏi hang
động và bắt đầu cuộc sống quần cư với hình thức “làng sơ khai” . Đây được coi
là “không gian sống” đảm bảo điều kiện cho các cá thể trong quần cư: có chỗ
nương tựa, chống chọi lại điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên, sự xâm chiếm của
các thế lực khác.3 Xuất hiện sớm là vậy, nhưng để thực sự phát triển và được
định nghĩa một cách rõ ràng thì phải là những thập kỷ gần đây. Ngày nay, đô thị
đã trở thành một hình thức cư trú phổ biến và mọi tâm điểm của cuộc sống nhân
loại đều diễn ra tại các thành phố. Câu hỏi đặt ra là “Đô thị là gì và tại sao chúng
tồn tại?” – Đó là câu hỏi cơ bản nhất mà những nhà nghiên cứu, quản lý và quy
hoạch đô thị phải trả lời. Cụ thể, dựa vào khảo cổ, đô thị đầu tiên trên thế giới là
làng Uruk ở vùng Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) cách đây gần 5000 năm. Sự ra đời
của đô thị với những cư dân phi nông nghiệp đầu tiên gắn liền với thặng dư trong
sản xuất nông nghiệp cho phép một nhóm người làm nông có thể tạo ra lượng
nông sản không chỉ đủ nuôi sống chính họ mà còn cung cấp cho những người
khác không làm nông nghiệp.4 Tại Việt Nam, xu hướng đô thị hóa đang diễn ra
với tốc độ nhanh và trên phạm vi rộng lớn. Theo số liệu của Bộ Xây dựng, tỷ lệ
đô thị hóa tăng từ 19,6% năm 2009 lên 36,6% năm 2016 và đến năm 2020 dự
kiến sẽ là 45%.5
3
ThS.HS Trần Văn Tâm – TS.KTS Phan Bảo An (2017), “Đô thị thông minh”, https://www.tapchikientruc.com.vn,
truy cập ngày 17/02/2018
4
Nguyễn Đỗ Dũng (2009), “Đô thị là gì và tại sao chúng tồn tại?”, https://dothivietnam.org, truy cập ngày
17/02/2018
5
Giang Phạm (2017), “Xây dựng đô thị thông minh phải lấy người dân làm trung tâm”, Bộ Thông tin và Truyền
thông Việt Nam, https://mic.gov.vn, truy cập ngày 17/02/2018
8
- Theo pháp luật Việt Nam hiện tại, đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh
sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp,
là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một
địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của
thị xã; thị trấn.6
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, sự phát triển của đô thị
luôn gắn liền với nền kinh tế phi nông nghiệp, nền kinh tế càng phát triển thì quá
trình đô thị hóa càng diễn ra nhanh chóng. Tuy nhiên, khác với các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới, thực trạng đô thị hóa của nước ta có đặc điểm là
quá trình đô thị hóa nông thôn thành thành thị, biến đổi các làng, xã nông nghiệp
thành các quận, phường của đô thị.7Làn sóng chuyển cư tới các đô thị ngày càng
gia tăng sớm hơn tốc độ phát triển của nền công nghiệp, dịch vụ.8
Tại Việt Nam việc bùng nổ của quá trình đô thị hóa vừa đem lại lợi nhuận
khổng lồ cho giới kinh doanh bất động sản vừa tạo ra nhiều thách thức như việc
tìm kiếm việc làm, vấn đề về giao thông, cơ sở hạ tầng, vấn đề quá tải và chất
lượng sống ở các đô thị. Trước những thách thức đó, nhất là với các đô thị lớn và
cực lớn, vấn đề “Phát triển đô thị bền vững” đang được đặt ra và đã được các nhà
khoa học bàn luận khá sôi nổi trên các diễn đàn trong nước và quốc tế.
Cụ thể, theo Ngân hàng thế giới (WB) định nghĩa : Phát triển bền vững
chính là sự duy trì và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người về mặt xã
hội, kinh tế, môi trường trong giới hạn khả năng chịu tải của các hệ sinh thái dịch
vụ và cơ sở tài nguyên của môi trường, nghĩa là vẫn đảm bảo tính bền vững của
môi trường”
6
Khoản 1, Điều 3 Luật quy hoạch đô thị năm 2009
7
Theo Tổng cục môi trường (2017), “Tổng quan phát triển đô thị Việt Nam”, http://www.cem.gov.vn, truy cập
ngày 15/02/2018
8
Hà Thanh (2017), “Những nghịch lý trong đô thị hóa tại Việt Nam”, http://www.kinhtedothi.vn, truy cập ngày
17/02/2018
9
- Còn phát triển bền vững theo pháp luật Việt Nam là phát triển đáp ứng
được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.9
Có thể thấy, về bản chất, phát triển bền vững là một quá trình biến đổi
mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm tạo ra sự tối ưu nhất trong tăng
trưởng để đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người mà
không làm tổn hại đến hệ các sinh thái và môi trường trong hiện tại cũng như
trong tương lai. Tổng quát hơn, phát triển bền vững chính là một quá trình liên
tục cân bằng và hoà nhập các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái.
Nó đảm bảo sự trường tồn của nhân loại. Vì thế, phát triển bền vững đã trở thành
mục tiêu chiến lược cho toàn cầu, cho từng quốc gia, từng khu vực cũng như cho
từng đô thị. Trên cơ sở nguyên lý phát triển bền vững như trên, với đặc thù của
một đô thị, khái niệm phát triển đô thị bền vững có thể được hiểu là “mối quan
hệ hữu cơ, mật thiết giữa: Kinh tế đô thị; Văn hóa xã hội đô thị; Môi trường -
Sinh thái đô thị; Cơ sở hạ tầng đô thị và Quản lý đô thị”.10
Tuy nhiên với thời đại của nền công nghiệp công nghệ thông tin như hiện
tại cũng như dự báo về sự phát triển vượt bậc của lĩnh vực này trong tương lai,
cần hiểu rằng phát triển đô thị bền vững thôi là chưa đủ và chưa phải là biện
pháp tối ưu nhất bởi đô thị trong bất cứ thời đại nào đều hướng đến mục tiêu đáp
ứng tốt nhất nhu cầu phát triển của con người, cũng như thiết chế quản lý xã hội
của đô thị, và “đô thị thông minh” là đô thị làm tốt nhất mục tiêu đó. Chúng ta có
thể hiểu “đô thị thông minh” là khái niệm được “nhân cách hóa” để đô thị thật sự
có thể hiểu rõ – nhờ khả năng quan sát, tạo lập các không gian sống tương hỗ –
nhờ khả năng ghi nhớ và óc sáng tạo, và những đáp ứng phục vụ con người
9
Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội
10
GS.TS. Lê Hồng Kế (2006), “Phát triển hệ thống đô thị quốc gia bền vững”,
http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn, truy cập ngày 17/02/2018
10
- không chỉ ở một vài lĩnh vực – nhờ vào năng lực tổng hợp của nhiều loại năng
lực để hẳn nhiên đô thị phải được thiết kế, xây dựng và quản lý với mục tiêu cao
nhất là phục vụ con người; bao gồm việc tạo điều kiện tốt nhất để phát huy năng
lực sáng tạo, óc tưởng tượng của cư dân sống trong đô thị đó. Từ đó, chính
những cư dân của đô thị bầu ra những chính quyền quản lý hiệu quả để xây dựng
những chính sách, chiến lực phát triển đô thị có khả năng thích ứng và vận dụng
hiệu quả trong điều kiện thực tế của kinh tế – xã hội – văn hóa và môi trường;
tạo nên một “kết cấu hữu hiệu” nhằm xây dựng không gian sống bền vững.11
Hay theo một quan điểm khác, đô thị thông minh là đô thị hoặc khu vực
dân cư ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông một cách nhuần nhuyễn,
kết nối với mọi thành phần của hệ thống có khả năng cung cấp theo thời gian
thực, tự động hóa và có tương tác, nhằm huy động tốt nhất các nguồn lực con
người, trang thiết bị và các yếu tố tự nhiên khi hệ thống vận hành. Với các hệ
thống liên quan đến người dân thì họ phải được đặt ở vị trí trung tâm, phải là
mục tiêu phục vụ.12
Tóm lại, khái niệm về “đô thị thông minh” cần được hiểu theo cả nghĩa
rộng, tức là bên cạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ thì đô thị thông minh
còn cần được hiểu là việc ứng dụng các giải pháp mang tính toàn diện và sáng
tạo ,tổng hợp các năng lực vốn có trong đô thị nhằm xây dựng các giải pháp
quản lý và ứng xử khoa học đối với môi trường sống của chính mình, chung tay
xây dựng một môi trường đô thị phát triển bền vững, phục vụ tối đa lợi ích của
các cá thể sống trong đô thị.
11
ThS.HS Trần Văn Tâm – TS.KTS Phan Bảo An (2017), “Đô thị thông minh”, https://www.tapchikientruc.com.vn,
truy cập ngày 17/02/2018
12
PGS. TS. Trần Minh Tuấn (2017), “Xây dựng đô thị thông minh bền vững tại việt nam – một trong các động lực
phát triển cntt&tt việt nam trong thập kỷ tới”, https://rev.org.vn, truy cập ngày 17/02/2018
11
- 1.1.2. Phân loại đô thị
Đô thị tại Việt Nam là những đô thị bao gồm thành phố trực thuộc Trung
ương, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn và khu vực dự kiến hình thành đô
thị trong tương lai được phân loại theo tiêu chí loại đô thị tương ứng. Do đó, các
đô thị Việt Nam được chia thành 6 loại, dùng số La Mã để phân ra các đô thị đặc
biệt, loại I và loại II phải do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận; các
kiểu đô thị loại III và IV do Bộ trưởng Bộ Xây dựng ra quyết định công nhận; và
loại V do Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh công nhận.13
Hiện ở Việt Nam có hai thành phố được chính phủ xếp loại đô thị đặc biệt
là thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây cũng là hai đơn vị hành chính
cấp tỉnh loại đặc biệt14 và trung tâm tổng hợp cấp quốc gia, quốc tế về kinh tế, tài
chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du lịch, y tế, khoa học và công nghệ, đầu mối
giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của cả nước.15
Việc phân loại đô thị thuộc loại nào phải dựa vào những tiêu chí nhất định
và trình tự, thủ tục phân loại cụ thể .Việc phân loại đô thị được thực hiện bằng
phương pháp tính điểm. Điểm phân loại đô thị là tổng số điểm đạt được của các
tiêu chí.16Trong đó, cần lưu ý một số cách phân loại đô thị áp dụng cho một số
loại đô thị có tính chất đặc thù như sau:17
Thứ nhất là, đối với đô thị là trung tâm du lịch, khoa học và công nghệ,
giáo dục, đào tạo thì tiêu chí quy mô dân số và mật độ dân số có thể thấp hơn
nhưng tối thiểu đạt 70% mức quy định; các tiêu chí khác phải bảo đảm mức quy
định của loại đô thị tương ứng.
13
Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về phân loại đô thị ban hành ngày 25/05/2016
14
Điểm a, Khoản 3, Điều 3 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015
15
Điểm a, Khoản 1, Điều 3 Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về phân loại đô thị ngày 25/05/2016
16
Khoản 4, Điều 2 Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về phân loại đô thị ngày 25/05/2016
17
Điều 9, Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về phân loại đô thị ngày 25 tháng 05 năm 2016
12
- Thứ hai là, đối với đô thị loại III, loại IV và loại V ở miền núi, vùng cao,
có đường biên giới quốc gia thì tiêu chí quy mô dân số có thể thấp hơn nhưng tối
thiểu đạt 50% mức quy định; các tiêu chí khác tối thiểu đạt 70% mức quy định
của loại đô thị tương ứng.
Thứ ba là, đô thị ở hải đảo thì tiêu chí trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và
kiến trúc cảnh quan đô thị tối thiểu đạt 50% mức quy định; các tiêu chí về quy
mô dân số, mật độ dân số, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp và tiêu chuẩn về kinh
tế - xã hội tối thiểu đạt 30% mức quy định của loại đô thị tương ứng.
1.1.3. Đặc điểm của các loại đô thị
Như đã đề cập ở phần trên, đô thị ở Việt Nam được phân thành 6 loại gồm
loại đặc biệt, loại I, loại II, loại III, loại IV và loại V. Thành phố trực thuộc
Trung ương phải là đô thị loại đặc biệt hoặc đô thị loại I; thành phố thuộc đơn vị
hành chính cấp tỉnh phải là đô thị loại I, loại II hoặc loại III; thị xã thuộc đơn vị
hành chính cấp tỉnh phải là đô thị loại III hoặc loại IV; thị trấn thuộc huyện phải
là đô thị loại IV hoặc loại V.
Theo đó, đô thị loại đặc biệt có đặc điểm là Thủ đô hoặc trung tâm tổng
hợp cấp quốc gia, quốc tế về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du
lịch, y tế, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và
quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước;
Đô thị loại I có đặc điểm là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia, cấp vùng
hoặc cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du lịch, y tế, khoa
học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng liên tỉnh hoặc cả nước;
Đô thị loại II có đặc điểm là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên
ngành cấp vùng, cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du lịch, y
tế, khoa học và công nghệ, trung tâm hành chính cấp tỉnh, đầu mối giao thông, có
vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một vùng liên tỉnh;
13
- Đô thị loại III có đặc điểm là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên
ngành về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du lịch, y tế, khoa học và
công nghệ cấp tỉnh, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh, vùng liên tỉnh;
Đô thị loại IV có đặc điểm là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên
ngành cấp tỉnh, cấp huyện về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du
lịch, y tế, khoa học và công nghệ, trung tâm hành chính cấp huyện, đầu mối giao
thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, huyện hoặc vùng
liên huyện;
Đô thị loại V có đặc điểm là trung tâm hành chính hoặc trung tâm tổng
hợp cấp huyện hoặc trung tâm chuyên ngành cấp huyện về kinh tế, văn hóa, giáo
dục, đào tạo, đầu mối giao thông, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội của huyện hoặc cụm liên xã;
Bên cạnh những đặc điểm về vị trí, vai trò và chức năng của từng loại đô
thị, ứng với mỗi loại hình đô thị sẽ có những đặc điểm về cơ cấu- trình độ phát
triển kinh tế- xã hội đạt tiêu chuẩn, quy mô dân số, mật độ dân số, tỷ lệ lao động
phi nông nghiệp, trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan đô thị
đạt các tiêu chuẩn đặc thù.18
1.2. Tổng quan về quy hoạch đô thị
1.2.1. Khái niệm quy hoạch đô thị, mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng
đất với quy hoạch đô thị
Trong số nhiều lĩnh vực nghiên cứu đô thị, quy hoạch đô thị là một ngành
có tính thực hành và công cụ mạnh mẽ, nhằm định hướng phát triển các thành
phố và đề ra giải pháp cho các vấn nạn đô thị. Là một lĩnh vực mà định nghĩa và
trách nhiệm nghề nghiệp quá lớn nhưng lại mập mờ và không thể định nghĩa cụ
18
Điều 3, 4, 5,6,7,8 Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 về Phân loại đô thị ngày 25 tháng 05 năm 2016
14
- thể, cách hiểu về quy hoạch và sản phẩm quy hoạch có sự khác biệt ít nhiều giữa
các quốc gia, nhất là giữa Việt Nam và phần còn lại của thế giới.19
Ở giai đoạn đầu và giữa thế kỷ 20, quy hoạch đô thị được quan niệm như
là thiết kế một đô thị, tổ chức, bố trí hình dạng vật thể của nó. Vai trò chính thực
hiện quy hoạch được trao cho kiến trúc sư quy hoạch và kỹ sư xây dựng, những
người được đào tạo và có chuyên môn về việc thiết kế nên những sản phẩm vật
chất dành cho con người cư trú. Sản phẩm của quan niệm quy hoạch đô thị này là
những bản quy hoạch tổng thể đã vẽ nên trạng thái đô thị ở trạng thái cuối cùng
theo ý tưởng của các kiến trúc sư.
Tiếp thu các lý luận phê bình và để thay thế cho quan niệm thiết kế hình dạng
vật thể của đô thị, những năm 1960 xuất hiện hai quan niệm thay thế. Quan điểm
thứ nhất là sửa chữa quan điểm trước kia, tức là người làm quy hoạch trước hết phải
tìm hiểu thật kỹ về cuộc sống đô thị trước khi tiến hành thực hiện quy hoạch. Đô thị
xem như một hệ thống các chức năng của các hoạt động và người dân ràng buộc nối
kết với nhau. Và nhà quy hoạch phải hiểu đô thị như một hệ thống đang hoạt động
sau đó mới can thiệp để tối ưu hóa hoạt động của hệ thống đó.
Quan điểm thay thế thứ hai là coi quy hoạch đô thị như một tiến trình tác
động liên tục, can thiệp nhiều lần chứ không phải thiết kế và xây dựng một lần là
đạt được trạng thái cuối cùng. Cách tiếp cận này là cách áp dụng lý thuyết và ra
quyết định trong lĩnh vực khoa học về quản trị sang đối với quy hoạch đô thị.
Theo đó thì sau khi xác định các vấn đề đô thị và các mục tiêu của quy hoạch,
nhà quy hoạch sẽ cân nhắc các chính sách hoặc các quy hoạch thay thế sau đó
thực hiện, khi thực hiện thì giám sát liên tục về hiệu quả thực hiện và tiến trình
này sẽ luôn vận hành cho đến lúc đã cải tạo được trạng thái quy hoạch cũ hoặc
xuất hiện vấn đề mới.
19
Nguyễn Đỗ Dũng (2010), “Đô thị và Quy hoạch đô thị: Tư duy và tiếp cận”, http://www.ashui.com, truy cập
ngày 10/02/2018
15
nguon tai.lieu . vn