Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BỘ MÔN LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT ---0-0--- TRẦN THANH XUÂN ÁN LỆ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA CIVIL LAW VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM GỢI MỞ CHO VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP HÀ NỘI - 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BỘ MÔN LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT ---0-0--- TRẦN THANH XUÂN ÁN LỆ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA CIVIL LAW VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM GỢI MỞ CHO VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật học KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan báo cáo này là nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong báo cáo có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Thanh Xuân i
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Cụm từ viết tắt Nguyên nghĩa CHLB Cộng hòa Liên bang HĐNN Hội đồng Nhà nước ii
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT................................................................................... ii MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁN LỆ ........................................................4 1.1. Khái niệm án lệ. ...................................................................................................4 1.2. Cơ sở hình thành án lệ. .........................................................................................4 1.3. Án lệ trong các học thuyết tư tưởng pháp lý. .......................................................8 1.3.1.Trường pháp luật lịch sử pháp luật ở Đức. ........................................................9 1.3.2. Chủ nghĩa thực chứng về án lệ. .......................................................................10 CHƯƠNG 2. ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐỨC. ......................12 2.1. Nhận thức chung về án lệ. ..................................................................................12 2.1.1. Án lệ trong lịch sử pháp luật Đức. ..................................................................12 2.1.2. Bản chất án lệ. .................................................................................................13 2.1.3. Vai trò của án lệ trong các lĩnh vực pháp luật ................................................17 2.2. Án lệ trong thực tiễn hoạt động của Tòa án. ......................................................19 2.2.1. Thực tiễn về án lệ trong hoạt động của Tòa án Hiến pháp CHLB Đức ..........19 2.2.2. Thực tiễn về án lệ trong hoạt động của Tòa án Tư pháp Tối cao Liên bang Đức. .22 CHƯƠNG 3. ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT PHÁP. ....................24 3.1. Nhận thức chung về án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp..................................24 3.1.1. Lịch sử hình thành án lệ ở Pháp. .....................................................................24 3.1.2. Bản chất án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp .................................................26 3.1.3. Vai trò của của án lệ trong các lĩnh vực pháp luật Pháp .................................30 3.2. Thực tiễn án lệ trong hệ thống Tòa án Pháp. .....................................................33 3.2.1. Án lệ của Tòa Phá án ......................................................................................33 3.2.2. Án lệ của Hội đồng nhà nước (Tòa án Hành chính Tối cao) ..........................36 CHƯƠNG 4. ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM GỢI MỞ .....................................................................38 4.1. So sánh những đặc trưng của án lệ ở hệ thống pháp luật Việt Nam và hai nước Đức, Pháp. .................................................................................................................38 4.1.1. Vị trí của án lệ trong lịch sử pháp luật. ...........................................................38 iii
  6. 4.1.2. Bản chất của án lệ ...........................................................................................43 4.1.3. Vai trò của án lệ ..............................................................................................48 4.2. Một số kiến nghị về áp dụng án lệ ở Việt Nam. ................................................51 KẾT LUẬN ..............................................................................................................60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................61 iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Án lệ (Case law) là một thuật ngữ khoa học pháp lý chỉ một loại nguồn của pháp luật, được sử dụng ngày càng rộng rãi tại hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới. Do có đặc thù là hình thành từ phán quyết của Thẩm phán nên án lệ đảm bảo được tính kịp thời, thực tế và có chức năng định hướng một đường lối xét xử đối với các vụ việc tương tự xảy ra trong tương lai khi không có luật điều chỉnh. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, án lệ từ thực tiễn pháp lý đến khoa học pháp lý đã định hình một đời sống vận động phong phú. Ở mỗi hệ thống pháp luật Thông luật hay Dân luật, án lệ lại được thể hiện với một mô hình khác nhau để tương thích với văn hóa pháp lý của từng trường phái pháp luật và pháp luật quốc gia. Nếu như ở hệ thống Thông Luật, án lệ là nguồn luật chính thức và được bảo đảm bởi nguyên tắc Stare Decisis (chỉ tuân theo án lệ) thì ở Dân luật hiệu lực của án lệ lại ở một phạm vi có phần hạn chế hơn. Mô hình án lệ ở pháp luật hai quốc gia Pháp và Đức được coi là điển hình cho đặc trưng án lệ ở các nước thuộc trường phái Civil Law. Án lệ ở Việt Nam hiện nay cũng không còn là một thuật ngữ mới mẻ và cũng đã có một lịch sử hình thành từ khá lâu đời. Tuy nhiên, sự công nhận chính thức dành cho án lệ với tư cách là một nguồn luật cho đến năm 2015 mới được minh thị qua Bộ luật Dân sự 2015 và Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP (đến nay đã được thay thế bằng Nghị quyết 04/2019/NQ – HĐTP). Cũng giống như hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới, áp dụng án lệ vào qua trình xét xử đối với pháp luật Việt Nam hiện nay cũng là vấn đề thiết yếu. Dù vậy, việc lựa chọn một mô hình án lệ phù hợp và tương đồng với hệ thống pháp luật hiện nay vẫn chưa được giải quyết triệt để. Hệ thống pháp luật Việt Nam là sự pha trộn của nhiều học thuyết đến từ các truyền thống pháp luật trên thế giới mà điển hình là truyền thống pháp luật Châu âu 1
  8. lục địa và Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên quá trình tiếp nhận, học hỏi pháp luật này cần có một sự điều chỉnh để có thể thích ứng với văn hóa pháp lý của pháp luật quốc gia. Mô hình án lệ của Việt Nam do có sự tiếp thu pháp luật từ tư duy pháp lý đến tổ chức hoạt động Tòa án khá gần gũi với dòng họ pháp luật Civil Law, vì vậy ở bài nghiên cứu này người viết tập trung tìm hiểu án lệ trong hệ thống pháp luật Dân luật thông qua hai mô hình án lệ điển hình là Pháp và Đức, từ đó phân tích thực trạng án lệ tại Việt Nam và gợi mở một số kinh nghiệm. 2. Tình hình nghiên cứu. Hiện nay ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về án lệ tương đối nhiều và ở các cấp độ khác nhau như sách chuyên khảo, bài báo khoa học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ,… Tuy nhiên lại hiếm có đề tài nghiên cứu chuyên sâu về án lệ tại các nước thuộc truyền thống pháp luật Civil và án lệ tại Việt Nam từ góc nhìn so sánh. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều xoay quanh các quan điểm chung về án lệ, đặc trưng án lệ trong hai dòng họ pháp luật Common law và Civil Law, thực trạng án lệ Việt Nam. Có thể kể đến một số sách chuyên khảo, bài tạp chí nghiên cứu về án lệ như sau: Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam của tiến sĩ Nguyễn Văn Nam; Án lệ: Lịch Sử, Hiện Tại Và Triển Vọng Phát Triển Tại Việt Nam của Giáo sư Tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc; Sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp tới luật tư Việt Nam của Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Huy Cương;… 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài. Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa định hình một mô hình án lệ cụ thể, từ khoa học pháp lý đến thực tiễn pháp lý vẫn còn khá mờ nhạt. Do vậy mục đích của khóa luận đó chính là nhận diện mô hình án lệ hiện nay của Việt Nam từ đó đưa ra những kiến nghị mang tính gợi mở dựa trên cơ sở nghiên cứu về án lệ trong pháp luật các quốc gia thuộc trường phái Civil Law. Để đạt được mục đích này, người viết đưa ra những nhiệm vụ sau đây: 2
  9. (i) Làm rõ mô hình án lệ ở pháp luật hai quốc gia điển hình của trường phái pháp luật Civil law là Đức và Pháp trên các khía cạnh từ lý luận đến thực tiễn, từ đó rút ra những đặc trưng cơ bản của án lệ tại hai hệ thống pháp luật này. (ii) Làm rõ cơ chế án lệ ở Việt Nam dựa trên nghiên cứu về lịch sử hình thành, quá trình phát triển và thực tiễn vận hành. Từ đó nhận diện về bản chất án lệ tại Việt Nam thông qua các quy định hiện hành. (iii) So sánh án lệ trong mô hình của pháp luật Đức, Pháp với pháp luật Việt Nam. Từ đó gợi mở những hướng đi phù hợp cho mô hình án lệ của Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Khóa luận tập trung nghiên cứu mô hình án lệ hiện nay của pháp luật các nước thuộc trường phái Dân luật, cụ thể là mô hình án lệ của pháp luật Đức và pháp luật Pháp. Đối với pháp luật Việt Nam, khóa luận nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển, các quy định hiện hành của pháp luật về án lệ, đồng thời phân tích bối cách pháp lý của Việt Nam – yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và mang tính quyết định đến việc xây dựng một mô hình án lệ cụ thể cho pháp luật Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp lịch sủ, phương pháp luật học so sánh, phương pháp tổng hợp nhằm giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng và tường minh nhất. 6. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tham khảo, kết cấu cảu khóa luận bao gồm 4 chương chính: Chương 1: Lý luận chung về án lệ Chương 2: Án lệ trong hệ thống pháp luật Đức Chương 3: Án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp Chương 4: Án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam và những kinh nghiệm gợi mở cho Việt Nam 3
  10. CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁN LỆ 1.1. Khái niệm án lệ. Theo Black’s Law Dictionary, án lệ là bản án hoặc quyết định của tòa án, nó tạo lập quy tắc hoặc căn cứ pháp lý đáng tin cậy cho việc quyết định các vụ việc tương tự trong tương lai. Về mặt lý luận thì án lệ có những yếu tố có thể làm cho một bản án trở thành căn cứ cho các quyết định sau này của tòa án, đó là những tình tiết thực tế, sự kiện giống nhau, hoặc nếu sự kiện khác nhau thì những nguyên tắc được áp dụng trong vụ án đầu tiên có thể được áp dụng đối với nhiều sự kiện khác nhau.1 Một nhận thức chung về bản chất của án lệ thì theo quan điểm của Aristotle “các vụ việc giống nhau phải được xét xử như nhau”2. Đây được coi là nền tảng cơ bản của học thuyết án lệ trong cả truyền thống pháp luật Thông luật và Dân luật, cho dù ta biết rằng có sự khác biệt rõ nét trong tư duy pháp lý, vị trí trong nguồn luật và thực tiễn sử dụng về án lệ của hai hệ thống này. Thực tế cho thấy, bản chất án lệ cho dù được thừa nhận là không thay đổi nhưng khi đưa vào áp dụng lại được tiếp cận dưới rất nhiều những góc nhìn khác nhau thông qua bối cảnh lịch sử cũng như thực tiễn pháp lý của hai dòng họ pháp luật Common Law và Civil Law. Cũng chính vì lý do này mà án lệ còn đóng vai trò quan trọng trong việc nhận dạng và so sánh về phương pháp luật giữa Thông luật và Dân luật. Ở bài nghiên cứu này, người viết tập trung làm rõ những đặc trưng về án lệ trong hệ thống pháp luật Civil law từ góc nhìn so sánh về lý luận và thực tiễn thông qua một vài mô hình pháp luật ở các quốc gia cụ thể. 1.2. Cơ sở hình thành án lệ. Thực chất, hệ thống các án lệ đã tồn tại như là một loại nguồn luật ở thời kỳ Jus Commune trong lịch sử Châu Âu lục địa.3 Tuy nhiên, cho đến thời 1 Bryanth A. Garner, Black’s Law Dictionary, Seventh Edition, West Group ST. PAUL, MINN., 1999, P.1195 2 Gale Group, The Dictionary of The History of Ideas (2003), at http: //etext.virginia.edu/cgi- local/DHI/dhi.cgi?id=dv3-05 (15 January, 2007) 3 Ewoud Hondius, General Report, In Precedent and The Law, Bruylant Bruxelles, 2007, p.12 4
  11. kỳ đại pháp điển hóa pháp luật ở Châu Âu bắt đầu vào thế kỷ thứ XIX, tiêu biểu là ở Pháp, hệ thống án lệ với tư cách là nguồn luật được thừa nhận đã chính thức bị xóa bỏ để nhường chỗ cho vai trò của luật thành văn4. Và suốt trong một thời gian dài của lịch sử pháp lý tại các nước Châu Âu lục địa, cuộc cải tổ từ các học thuyết của các nhà luật gia đã tác động mạnh mẽ vào vai trò then chốt của luật thành văn và sự hiện diện của nguồn luật này gần như đã phủ định chức năng án lệ trong hoạt động tư pháp thời kỳ bấy giờ. Tuy nhiên, quan điểm này dần dần bộc lộ ra những bất cập cần có sự điều chỉnh khi mà các quy định mang tính khái quát cao trong các bộ luật lại không thể điều chỉnh được hết các tình huống cụ thể. Chính bởi sự giới hạn này và đồng thời cũng là để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn pháp luật mà các thẩm phán trong quá trình thực hiện xét xử, đã trở thành những người giải thích các quy định của pháp luật. Ở mỗi hệ thống pháp luật cụ thể thì sự giải thích pháp luật này ở một chuẩn mực nhất định được coi là án lệ. Án lệ thực chất chính là kết quả của quá tình tạo ra quyết định của Tòa Án. Nhà luật học người Ba Lan Jerzy Broblewski đã chỉ ra ba quan điểm lý luận phân loại việc tạo ra quyết định của thẩm phán: (1) Sự bắt buộc tuân thủ pháp luật của thẩm phán khi xét xử; (2) Sự tự do sáng tạo pháp luật của thẩm phán; (3) Sự hợp pháp và hợp lý của thẩm phán khi đưa ra phán quyết. - Sự bắt buộc tuân thủ pháp luật của thẩm phán khi xét xử: Theo học giả này, lý luận về sự bắt buộc tuân thủ pháp luật của thẩm phán khi xét xử được lý giải như sau: Chỉ có luật thành văn được ban hành bởi cơ quan lập pháp là nguồn luật duy nhất, như vậy thì các quyết định của cơ quan xét xử hoàn toàn phải dựa trên cơ sở các quy định của luật thành văn5. Đây thực chất chính là sự giới hạn quyền lực của cơ quan tư pháp. Luật thành văn trong mỗi hệ thống quốc gia luôn được xem như đã hoàn thiện và 4 Nguyễn Văn Nam, Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luât Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị cho Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân, 2003, tr.30 5 Raimo Siltala, A Theory of Precedent From Analytical And Positivism To A Post – Analytical Philosophy of Law, Hart Publishing, 2000, p.2 5
  12. đồng bộ qua các quy định có tính khái quát được tạo ra bởi cơ quan tư pháp6. Ở thời kỳ này một trong các tư tưởng tác động sâu sắc đến hệ thống pháp luật các nước Châu Âu lục địa đó là học thuyết tam quyền phân lập của học giả người Pháp Montesquieu. Tư tưởng này đề cao nguyên tắc phân chia quyền lực (separation of powers) giữa ba nhánh quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước. Theo đó, phải có sự độc lập và không can thiệp khi thực hiện các chức năng của từng nhánh quyền lực, cơ quan tư pháp không có chức năng sáng tạo ra pháp luật. Do vậy, các quyết định được tạo ra bởi các thẩm phán không được coi là luật như là các quy định của được ban hành bởi cơ quan lập pháp. Montesquieu đã từng bày tỏ quan điểm rằng thẩm phán chỉ là những người tuyên bố ngôn từ của pháp luật. Nguyên tắc này trong thời kỳ cách mạng Tư sản Pháp được áp dụng cứng nhắc đến nỗi, ngay cả khi pháp luật không quy định một cách rõ ràng thì các thẩm phán vẫn phải áp dụng pháp luật thông qua phương pháp suy luận7. Ngay trong bộ luật Dân sự Pháp 1804 tại Điều 5 đã quy định cấm các thẩm phán sáng tạo ra pháp luật trong quá trình xét xử 8. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy đến nay đã có một sự nới lỏng trong ranh giới giới hạn phạm vi quyền lực của tư pháp, các thẩm phán Pháp không bị ràng buộc bởi chức năng xét xử như quy định tại Điều 5 Bộ Luật Dân sự. Và án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp tuy rằng vẫn không được coi là nguồn luật chính thức nhưng vẫn đóng một vai trò quan trọng trong thực tiễn pháp luật. Đối với các nước khác thuộc hệ thống pháp luật Civil law cho dù mức độ công nhận án lệ trong hoạt động xét xử là khác nhau, song những quy định mang tính cứng nhắc đã không còn tồn tại như nó đã từng thống trị trong suốt thế kỳ XIX. Điều 1 Bộ luật Dân sự Thụy Sĩ đã có quy định công nhận quyền chủ động cho thẩm phán trong sáng tạo pháp luật. Tương tự như vậy, thẩm quyền này ở giai đoạn gần đây tại các nước Châu Âu lục địa hoặc là được sự ủy quyền của cơ quan lập pháp hoặc là 6 Sđd, tr.2 7 Michel Troper and Christophe Grzegorczyk, “Precedent in France”, in “Interpreting Precedents A Comparative Study”, Edited by MacCormick and R.S Summers, Ashgate Publishing Company, 1997,p.103 8 Peter de Cruz, Comparative Law in a Changing World, Cavendish publishing, 1999, p.242 6
  13. cơ quan tư pháp có được trong thực tiễn trước yêu cầu cần một sự điều chỉnh linh hoạt, kịp thời trong thực tiễn vận hành của pháp luật. - Lý luận về thẩm phán được quyền tự do khi xét xử. Quan điểm này đề cập đến một phạm vi quyền hạn rộng lớn hơn trong quá trình xét xử của thẩm phán: tự do trong quá trình thực thi pháp luật mà không bị trói buộc bởi sự kiểm soát của luật do cơ quan lập pháp ban hành. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng trao cho thẩm phán quyền sáng tạo ra pháp luật đồng thời đã làm giảm đi đáng kể vai trò của cơ quan lập pháp trong việc ban hành luật. Có thể thấy, tư tưởng này ra đời như một sự chống lại và đồng thời cũng là để bù đắp những hạn chế của các quan điểm có phần cứng nhắc về ranh giới quyền hạn giữa tòa án và cơ quan tư pháp trong thế kỷ XIX 9. Tư tưởng này cho rằng khi Nghị viện ban hành ngày càng nhiều những luật thành văn mang tính nguyên tắc chung thì thẩm phán khi muốn giải quyết các vụ việc trong thực tiễn thì đương nhiên phải thực hiện việc chi tiết hóa những nguyên tắc chung đó. Tư tưởng về quyền tự do của thẩm phán cũng vấp phải những chỉ trích khi được cho rằng nếu như thẩm phán không chịu sự hạn chế của luật pháp thì sẽ trở nên tùy tiện trong quá trình đưa ra phán quyết. Xét ngược lại dòng lịch sử khi chưa có tư tưởng tam quyền phân lập, đây cũng là vấn đề mà Tòa án Pháp gặp phải khi thẩm phán là những nhà quý tộc và phán quyết không đảm bảo tính công bằng khi đặt quyền lợi của giai cấp thống trị lên trên lẽ phải10 (nội dung này sẽ được phân tích ở các phần sau). Theo đó, tư tưởng này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguyên tắc kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, về mặt lý luận các nguồn tư tưởng có thể đặt ra rất nhiều những hạn chế song khi vận hành với chức năng của thẩm phán, tư tưởng tự do này vẫn được ủng hộ bởi tính thực tế của nó. 9 Raimo Siltala, sđd, p.4 10 Phạm Hồ Nam, Nguyễn Lữ Quỳnh Anh, Án lệ trong Dân luật Pháp và hướng áp dụng án lệ ở Việt Nam, Eureka, 2018 7
  14. - Lý luận về sự hợp pháp và hợp lý trong quyết định của Tòa Án: Theo Jerzy Broblewski, bản chất của tư tưởng về sự hợp pháp và hợp lý trong quyết định của Tòa Án nằm ở sự giao thoa, lĩnh hội cả hai tư tưởng: giới hạn quyền và quyền tự do của thẩm phán.11 Cụ thể hơn, thẩm phán khi xét xử vừa phải dựa vào luật những đồng thời cũng phải tính đến sự hợp lý trong từng vụ việc cụ thể. Cũng theo ông, sự hợp lý có thể được dựa trên hai yếu tố sau: (1) Tính thống nhất, trước sau như một của lập luận trong các quyết định của Tòa án. (2) Việc đánh giá tính hợp lý trên cơ sở sự xem xét khách quan12 Thực chất tính hợp lý bản thân nó đã là đặc điểm rất khó có thể cụ thể trên câu chữ, đặc biệt lại càng khó có thể xác định để khái quát thành chuẩn mực của luật pháp. Ta chỉ có thể nhận định rằng, một bản án, quyết định được coi là hợp lý khi bản thân nó với những lập luận đầy đủ và chứng minh xác đáng đã loại bỏ đi những yếu tố phi logic, bất hợp lý và vô căn cứ. 1.3. Án lệ trong các học thuyết tư tưởng pháp lý. Hệ thống pháp luật dân luật hay còn gọi hệ thống Cilvil Law đặc trưng bởi các nguyên tắc chung được pháp điển hóa thành các bộ luật và các bộ luật này được coi là nguồn chính thức của pháp luật. Hệ thống pháp luật được xây dựng từ luật pháp do Nghị viện ban hành được coi là tối thượng trong thực tiễn xét xử, là quan tòa cho mọi tranh chấp và cho cả các thẩm phán. Nói như vậy, tức là thẩm phán ngay cả khi đóng vai trò là quan tòa công lý thì thực chất vẫn chỉ là những người tuyên ngôn của pháp luật và chịu sự ràng buộc bởi luật pháp. Thẩm phán là người đưa ra phán quyết cho các tranh chấp dựa trên luật lệ chứ không thể có chuyện thẩm phán sáng tạo ra pháp luật – quyền hạn vốn thuộc về cơ quan lập pháp. Đây là sự phân biệt quan trọng giữa hai hệ thống pháp luật Thông luật và Dân luật. Tuy nhiên, không vì thế mà hệ thống pháp luật Châu âu lục địa thiếu vắng các tư tưởng ủng hộ án lệ, khá 11 Raimo Siltala, sđd, p.6 12 Sđd, p.215 8
  15. nhiều những trường phái được khai sáng bởi các học giả đến từ các nước thuộc hệ thống Civil law. Ở bài viết này, người viết sẽ đề cập đến một vài những quan điểm tiêu biểu nhất. 1.3.1.Trường pháp luật lịch sử pháp luật ở Đức. Trường phái pháp luật lịch sử (die historische Rechtsschule) là trường phái pháp luật lớn, phát triển mạnh nhất ở Đức trong suốt thế kỷ XIX 13 . Thông qua trường phái này, các nhà học giả mà nổi tiếng nhất là Friedrich Carl von Savigny đã đề cập đến vai trò và vị trí của án lệ với một chuẩn mực cao hơn vị trí vốn có thời bấy giờ ở pháp luật Đức nói riêng và Châu Âu lục địa nói chung. Các nhà khoa học thuộc trường phái này cho rằng khi pháp điển hóa Bộ luật dân sự một mặt cần chính xác hóa các thuật ngữ, qui định các nguyên tắc chung để đảm bảo sự an toàn pháp lý, đồng thời cần phải “lấp những lỗ hổng pháp luật” bằng việc thừa nhận những loại nguồn pháp luật khác như tập quán, đạo đức và cả án lệ không trái với những nguyên tắc chung mà đạo luật đó đưa ra.14 Tâm điểm nội dung về án lệ mà Savigny đưa ra đó là pháp luật có thể được hình thành bởi sự thừa nhận chung của cả quốc gia và không chỉ có Nghị viện mà các thẩm phán cũng có quyền sáng tạo ra pháp luật15. Tư tưởng này đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới khoa học luật học của hệ thống pháp luật Châu âu lục địa, đặc biệt là các nước Đức lúc này đang diễn ra xu hướng pháp điển hóa. Tình trạng chung của các thẩm phán trong quá trình xét xử đó là sự cân nhắc phải áp dụng các quy phạm mang tính phổ quát vào các vụ việc cụ thể như thế nào. Dó đó, hệ quả tự nhiên là thẩm phán khi giải thích các điều luật chung thì phải được quyền sáng tạo ra pháp luật, như là cách để cụ thể hóa nguyên tắc chung vào tình huống pháp lý cụ thể. Theo Savigny, đây là trường hợp thứ nhất mà các thẩm phán tạo ra pháp luật. Trường hợp thứ hai là việc các thẩm phán đã tạo lập những quan điểm lý luận 13 Nguyễn Minh Tuấn, Trường phái pháp luật lịch sử ở Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2012. http://tuanhsl.blogspot.com/2012/05/truong-phai-phap-luat-lich-su-o-uc.html 14 Sđd; Ebel/Thielmann, Rechtsgeschichte – Von der Römischen Antike bis zur Neuzeit, 3. Aufl. 2003, Rn. 507 15 Nguyễn Văn Nam, sđd, tr. 315 9
  16. luật học và tạo ra những thông lệ chung của tòa án đối với mỗi vấn đề pháp luật cụ thể.16 Sau này trường phái lịch sử pháp luật được các học giả là học trò và thể hệ sau của Savigny phát triển với những quan điểm ngày càng rõ ràng và mạnh mẽ. 1.3.2. Chủ nghĩa thực chứng về án lệ. Chủ nghĩa thực chứng pháp lý là một trong những tư tưởng lớn đề cập đến vấn đề nguồn pháp luật. Theo GS.TSKH Đào Trí Úc, những nội dung chính xoay quanh tư tưởng này như sau: 17 Thứ nhất, có một mối liên hệ gắn kết của pháp luật với nhà nước, mà cụ thể là pháp luật được quy định bởi nhà nước. Tính được quy định bởi nhà nước được coi là dấu hiệu cơ bản nhất của pháp luật. Thứ hai, pháp luật có tính bắt buộc, nên nguyên tắc “chỉ tuân theo pháp luật” là nguyên tắc hoạt động của các cơ quan, tổ chức, bao gồm cả tòa án. Thứ ba, pháp luật phải mang tính hình thức pháp lý cao. Trong suốt thời kỳ diễn ra xu hướng pháp điển hóa ở Châu Âu lục địa, đây là nguồn tư tưởng chủ đạo, nền tảng hình thành nên phong cách pháp luật của dòng họ Dân luật. Theo đó, quan điểm chủ nghĩa thực chứng cổ điển không chú trọng nhiều vào khía cạnh xã hội của pháp luật mà trọng tâm chủ yếu vào tính hình thức. Nguyên tắc “chỉ tuân theo pháp luật” thể hiện tinh thần tối thượng của luật thành văn, các thấm phán trong quá trình áp dụng pháp luật thường có xu hướng suy đoán ý tứ của nhà làm luật từ các quy phạm, và hoàn toàn không có quyền sáng tạo ra pháp luật. Do vậy, án lệ dường như bị vai trò của luật thành văn phủ nhận và đương nhiên không được thừa nhận như một loại nguồn luật. Chủ nghĩa thực chứng pháp lý giải đoạn cổ điển này “thiếu sự gắn kết giữa pháp luật với nền tảng đạo đức của nó, với 16 Robert Alexy, And Ralf Dreier, Precedent In The Federal Republic Of Germany, in “Interpreting Precedents A Comparative Study”, Edited by MacCormick and R.S Summers, Ashgate Publishing, 1997, p.40. 17 Đào Trí Úc, Án lệ: Lịch Sử, Hiện Tại Và Triển Vọng Phát Triển Tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên Cứu Lập Pháp, 2015 http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/208411/An-le--lich-su--hien-tai-va-trien-vong-phat-trien-o- Viet-Nam.html 10
  17. tinh thần “luật là luật”18. Tuy nhiên, chủ nghĩa pháp luật thực chứng sau giai đoạn cổ điển đã bớt đi tính cứng nhắc vốn có và đã tiến gần hơn sự giao thoa với các tư tưởng đề cao án lệ trong xét xử. Pháp luật vẫn luôn tồn tại như là một sản phẩm của nhà nước nhưng nhà nước đã tự hạn chế quyền tuyệt đối của mình trong tư cách là chủ thể kiến tạo pháp luật. Theo quan điểm của người viết, thực chất việc phủ nhận vai trò của án lệ và tuyệt đối hóa quyền năng của luật thành văn trong chủ nghĩa thực chứng pháp lý cổ điển tự bản thân nó đã tồn tại những điểm mâu thuẫn. Quá trình “suy đoán ý tứ của nhà làm luật” thực chất chính là quá trình giải thích các quy định chung, cụ thể hóa pháp luật, do vậy phủ nhận tư cách làm luật của thẩm phán là một điều không hợp lý. Về bản chất thực tiễn đã và luôn thừa nhận quyền năng này của thẩm phán. Hans Kelsen và các học giải cùng trường phái với ông đã ủng hộ quan điểm những quy định cần phải được nhận thức và hoàn thiện bởi các thẩm phán, bởi trong nhiều trường hợp Nghị viện ban hành các quy định của pháp luật chỉ là đang cố gắng để tạo ra luật mà thôi. 19 Có thể thấy, lý luận về án lệ của mỗi hệ thống pháp luật sẽ ảnh hưởng đến thực tiễn án lệ mỗi hệ thống pháp luật đó. Mặc dù không một lý luận nào được coi như quan điểm chính thống làm nền tảng hình thành án lệ, song lý luận về các nguồn tư tưởng chủ đạo nêu trên ít nhiều định hình một sự nhận diện về án lệ trong hệ thống pháp luật ở các quốc gia Châu Âu lục địa. Thực tiễn cho thấy một vai trò ngày càng quan trọng được thừa nhận của án lệ trong hệ thống pháp luật thành văn, ngay cả khi không phải hầu hết tất cả các quốc gia thuộc hệ thống này công nhận án lệ với tư cách là nguồn luật chính thức. Từ những lý luận về án lệ đã phân tích ở trên, bài viết này sẽ cụ thể hóa những tư tưởng bằng việc làm rõ những nội dung về án lệ ở hai quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Civil Law là Đức và Pháp. 18 Sđd, http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/208411/An-le--lich-su--hien-tai-va-trien-vong-phat-trien-o- Viet-Nam.html 19 Peter Wesley-Smith, Theory Of Adjudication And The Status of Stare Decisis, in “Precedent in Law”, Edited by Laurence Goldstein, Clarendon Press, Oxford, 1987, P.77 11
  18. CHƯƠNG 2. ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐỨC. 2.1. Nhận thức chung về án lệ. 2.1.1. Án lệ trong lịch sử pháp luật Đức. Hệ thống pháp luật Đức là một trong những điển hình tiêu biểu của dòng họ pháp luật Civil law, sự thể hiện về án lệ trong hệ thống pháp luật nước này cũng được coi là một hình dung khá rõ nét cho quan điểm về án lệ ở thực tiễn pháp luật Dân luật. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, dù cùng một dòng họ pháp luật, song vai trò của án lệ trong thực tiễn pháp luật các nước thuộc Civil law là không giống nhau. Bởi lẽ, sự phát triển của pháp luật nói chung, án lệ nói riêng gắn với tiến trình vận động của lịch sử, thực tiễn ở mỗi quốc gia. Do đó, tìm hiểu bối cảnh lịch sử pháp luật ở Đức sẽ đem đến một sự nhận diện rõ ràng nhất cho vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật quốc gia này. Sự tiếp nhận Luật La Mã vào các nước Châu âu lục địa trong đó có Đức được các luật gia hưởng ứng. Dưới thời trị vì của Hoàng đế Severus đến Hoàng đế Justiana, án lệ từ giai đoạn được cho phép sử dụng rộng rãi để bù đắp những lỗ hổng của pháp luật đến khi bị lu mờ do các thẩm phán khi xét xử chỉ được dựa vào luật thành văn và cuối cùng là lại được khôi phục dưới chính sách của Hoàng đế Justiana, đã có một sự ảnh hưởng không nhỏ đến pháp luật các nước Châu Âu. Pháp luật Đức cũng không phải là ngoại lệ, luật La Mã đã được giải thích phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội ở nước Đức. Trong trường hợp không có sẵn văn bản pháp luật, hay tập quán các thẩm phán Đức đã đóng vai trò chủ động trong áp dụng linh hoạt các nguyên tắc của Luật La Mã trong các vụ việc mà họ xét xử. Do vậy, có thể nói trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến thế kỷ thứ XVIII, án lệ đóng một vai trò quan trọng trong pháp luật Đức20. Tuy nhiên, cũng bắt đầu từ thế kỷ thứ XVIII, Đức xuất hiện những 20 Robert Alexy, Kiel And Ralph Dreier, Precedent In The Federal Republic Of Germany, in “Interpreting Precedents A Comparative Study”, Edited by MacCormisk and R.S, Summer, Ashgate Publishing Company, 1997, p.40 12
  19. quan điểm của trường phải luật tự nhiên với tư tưởng thẩm phán khi xét xử chỉ nên dựa vào các quy định của luật thành văn. Cho đến giai đoạn từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, những quan điểm đối lập xung quanh vai trò của án lệ nổi lên ngày càng nhiều. Đặc biệt, sự xuất hiện của xu hướng pháp điển hóa đã tác động một ảnh hưởng không nhỏ tới pháp luật các nước Châu Âu lục địa với tư tưởng đề cao sự phân định quyền lực trong bộ máy nhà nước và pháp luật phải và chỉ được là sản phẩm do cơ quan lập pháp ban hành. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, không giống với Pháp – một quốc gia với hệ thống pháp luật được coi là điển hình của họ pháp luật Civil Law, pháp luật Đức trong quá tình tiếp nhận những sự thay đổi về quan điểm pháp luật chưa bao giờ chính thức phủ nhận hay giới hạn vai trò của án lệ, có chăng thì sự nhìn nhận này chỉ xuất hiện trong quan điểm của các học giả. Thực tế cho thấy, quá trình pháp điển hóa ở Đức diễn ra khá muộn, so với Pháp ban hành Bộ Luật Dân sự 1804 với sức ảnh hưởng không nhỏ đến pháp luật các nước Châu Âu thì lúc này pháp luật Đức vẫn chưa có một hệ thống thống nhất.21 Mãi đến năm 1900, Đức mới ban hành Bộ luật Dân sự, thế nhưng đến giữ thế kỷ XIX Tòa án Đức vẫn thực hiện việc công bố các bản án. Điều này cho thấy án lệ ngay cả trước và trong thời kỳ pháp điển hóa diễn ra mạnh mẽ ở Châu Âu, dù chưa bao giờ được coi là nguồn luật cơ bản nhưng nó vẫn giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Đức và chưa bao giờ bị loại bỏ trong thực tiễn xét xử. 2.1.2. Bản chất án lệ. Trải qua sự vận động với một tiến trình lịch sử như vậy, vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật và trong thực tiễn xét xử của Tòa Án Đức đã được khẳng định. Tuy nhiên, bởi không có truyền thống sử dụng án lệ trên cơ sở là nguồn pháp luật cơ bản, do đó để định hình được ví trí của án lệ trong hệ thống pháp luật các nước Civil Law không phải điều dễ dàng. Điều làm cho các nhà luật học băn khoăn và tranh cãi không ít đó là: liệu án lệ của Đức có 21 Michael Bogdan, Comparative Law, Kluwer Norstedts Juridik Tano, 1994, p.185 13
  20. được thừa nhận là một nguồn pháp luật hay không. Thực chất nghi vấn này không được pháp luật Đức thể hiện một cách chính thống bằng luật thành văn, do vậy câu trả lời chỉ có thể được lý giải bằng thực tiễn áp dụng án lệ tại nước này. Dễ nhận thấy, theo quy định của Hiến pháp CHLB Đức thì chức năng làm luật thuộc về cơ quan lập pháp. Theo Điều 20 Hiến pháp CHLB Đức quy định “hoạt động lập pháp phải tuân thủ Hiến pháp, quyền hành pháp và tư pháp phải tuân theo pháp luật và công lý”. Nhiều ý kiến cho rằng hai khái niệm “luật và công lý” còn quá mơ hồ, quá rộng và không nên hiểu cách đơn giản.22 Cũng bởi lý do này mà nhiều quan điểm tranh cãi nên giải thích quy định này của Hiến pháp theo hướng công nhận hay phủ nhận vai trò của án lệ. “Công lý” là một phạm vi khá rộng và nó không loại trừ trường hợp bao gồm cả án lệ. Trong quá trình giải quyết các vụ việc pháp lý, pháp luật đôi khi rất khó để có thể dự liệu được hết các tình huống, lúc này thẩm phán phải lấy tinh thần công lý, công bằng làm cơ sở chủ đạo để có thể cân bằng lợi các bên. Và rõ ràng ta phải thừa nhận rằng quy định trên của Hiến pháp không bác bỏ quyền sáng tạo ra pháp luật của thẩm phán. Về hiệu lực của án lệ, Điều 31.(1) của Luật Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức quy định “Các quyết định của Tòa án Hiến pháp Liên bang có hiệu lực bắt buộc với các cơ quan của chính quyền liên bang và các tiểu bang cũng như tất cả những tòa án và các cơ quan nhà nước khác”. Quyết định của Tòa án Hiến pháp ở đây có thể là trường hợp giải thích, làm rõ các quy định của luật thành văn; cũng có thể là những quyết định nhằm giải quyết các vấn đề còn gây tranh cãi sẽ trở thành án lệ cho sự áp dụng pháp luật. Như vây, dù không được ghi nhận trong Hiến pháp tuy nhiên hiệu lực bắt buộc của các quyết định thuộc Tòa án Hiến pháp Liên bang đã khằng định một đường lối xét xử thống nhất cho các Tòa án cấp dưới. Tòa án Hiến pháp CHLB Đức thừa nhận thuật ngữ “luật” trong Hiến pháp nên được hiểu theo nghĩa chính 22 Van Hoa – To Judicial Independence A Legal Research On Its theoretical Aspects, Practices from Germany. The United States of Amerrica, France, Viet Nam and Recommendations for Vietnam, Juristfurlaget iLund, 2006, p.64 14
nguon tai.lieu . vn