Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
---------***---------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
EU MỞ RỘNG – TÁC ĐỘNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học : GS,TS Hoàng Văn
Châu
Sinh viên thực hiện : Hà Minh Chí
Lớp : Trung 1 - K41E - KTNT
HÀ NỘI - 10/2006
- LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
EU mở rộng vào ngày 1-5-2004 là lần mở rộng lớn nhất trong lịch sử
của EU từ trƣớc tới nay. Với việc kết nạp thêm 10 nƣớc thành viên mới, dân
số tăng thêm khoảng 75 triệu ngƣời, bằng 20% dân số hiện có, diện tích lãnh
thổ tăng thêm 23% so với hiện nay. Tổng sản phẩm quốc nội của EU 15 hiện
chiếm 26,5% GDP của thế giới còn EU 25 chiếm 27,8% GDP thế giới. 25
quốc gia thành viên EU chia sẽ chính sách chung về nông nghiệp, an ninh, đối
ngoại hợp tác tƣ pháp và nội vụ, áp dụng một chế độ thƣơng mại và chính
sách chung về lao động, bảo hiểm môi trƣờng, năng lƣợng, giáo dục và y tế.
Sự kiện EU mở rộng lần này đã thu hút sự quan tâm to lớn của các
nƣớc, đặc biệt là những nƣớc lớn, bởi vì nó tác động không chỉ tới bản thân
EU mà còn đến nhiều nƣớc, nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Liên minh Châu Âu hiện là một trong những đối tác kinh tế quan trọng
hàng đầu của Việt Nam. Mặc dù quan hệ kinh tế thƣơng mại Việt Nam – EU
trong thời gian qua đã phát triển khá nhanh, nhƣng vẫn chƣa tƣơng xứng với
tiềm năng và yêu cầu của cả hai phía.
EU mở rộng hiện nay, với việc kết nạp các thành viên mới hầu hết là
những bạn hàng truyền thống của Việt Nam từ khi tồn tại Hội đồng tƣơng trợ
kinh tế, sẽ tạo ra động lực mới thúc đẩy quan hệ kinh tế thƣơng mại Việt Nam
– EU lên tầm cao mới.
Việc nhận thức đẩy đủ những cơ hội và thách thức của sự kiện này,
cũng nhƣ chủ động tìm kiếm những giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam –
EU trong bối cảnh mới có ý nghĩa rất quan trọng đối với nƣớc ta hiện nay. Do
vậy, việc nghiên cứu EU mở rộng hiện nay không chỉ để rút ra đƣợc bài học
kinh nghiệm quý báu từ cải cách hội nhập của các nƣớc Đông Âu, mà còn
1
- nhằm tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu thúc đẩy quan hệ Việt Nam với các
nƣớc các nƣớc này nói riêng và với EU nói chung.
Với tầm quan trọng của sự kiện này mà tôi chọn đề tài: “ EU mở rộng
– tác động và các giải pháp đối với hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam”.
2. Mục đích của đề tài:
- Nghiên cứu những thay đổi của EU sau khi mở rộng, đặc biệt là
những thay đổi về chính sách kinh tế. Tác động của những thay đổi đó đến
bản thân các nƣớc EU và đến quan hệ xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU.
- Phân tích đánh giá tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU
thời gian qua. Nghiên cứu những bài học quý giá từ nỗ lực hội nhập của các
nƣớc Đông Âu, những cơ hội và thách thức đối với hoạt động xuất nhập khẩu
giữa Việt Nam và EU mở rộng.
- Đề xuất những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả
nhập khẩu của Việt Nam với các nƣớc EU mở rộng
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tƣợng nghiên cứu là hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và
EU. Cụ thể là những tác động của EU mở rộng đến hoạt động xuất nhập khẩu
giữa Việt Nam và EU.
- Phạm vi nghiên cứu là hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và
EU trƣớc và sau khi mở rộng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ thống kê, phân
tích, so sánh, phân tích vĩ mô, dự báo... Các nguồn tài liệu đƣợc thu thập theo:
- Những tài liệu báo chí chuyên ngành, sách, báo cáo của các Bộ, ngành
liên quan nhƣ: Bộ thƣơng mại, Bộ ngoại giao, Bộ kế hoạch và đầu tƣ, Tổng
cục thống kê, Tổng cục hải quan.
2
- - Số liệu mới nhất của các nhà báo, các chuyên gia nghiên cứu Châu Âu
trên các trang Web thông tin điện tử nhƣ www.vneconomy.com.vn,
www.europa.eu.int .
5. Bố cục của đề tài:
Luận văn có tên: “EU mở rộng – Tác động và các giải pháp đối với
hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam” và đƣợc chia làm 3 chƣơng nhƣ sau:
- Chương 1: EU mở rộng và một số thay đổi về thể chế và chính sách
thương mại
- Chương 2: Tác động của EU mở rộng đối với hoạt động xuất nhập
khẩu giữa Việt Nam và EU
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao
hiệu quả nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước EU mở rộng
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Giáo sƣ, Tiến sĩ
Hoàng Văn Châu để tôi có thể hoàn thành khoá luận này. Tôi hy vọng những
nghiên cứu của mình có thể góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp Công nghiệp hoá
Hiện đại hoá đất nƣớc.
Do trình độ còn hạn chế nên khoá luận của tôi sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận đƣợc sự góp ý của quý thầy cô và các bạn. Tôi
xin chân thành cảm ơn.
3
- CHƢƠNG 1: EU MỞ RỘNG VÀ MỘT SỐ THAY ĐỔI VỀ THỂ
CHẾ VÀ CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI
I. QUÁ TRÌNH MỞ RỘNG CỦA EU
1. Sự ra đời và phát triển của EU 25
Liên minh Châu Âu (EU) là một tổ chức gồm các quốc gia Châu Âu,
đƣợc thành lập với mục đích đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế và tăng
cƣờng hợp tác giữa các nƣớc thành viên. Trụ sở của EU đóng tại Brussel, Bỉ.
Ý tƣởng thống nhất châu Âu đã xuất hiện từ rất sớm và bắt đầu trở
thành hiện thực từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2 với việc thành lập Cộng
đồng than và thép Châu Âu (ECSC : Eropean Coal and Steel Community) vào
năm 1951, với 6 thành viên sáng lập là Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan và
Lucxămbua, nhằm điều hành việc sản xuất và tiêu thụ thép của các nƣớc
thành viên và đẩy mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, phân phối
tiêu thụ và nâng cao năng suất lao động. Và sau đó, tháng 7 năm 1957, với
việc ký kết hiệp định Rome, Cộng đồng năng lƣợng nguyên tử Châu Âu
(EURATOM : European Economic Community) cũng chính thức đƣợc thành
lập trong đó EURATOM điều hành sản xuất năng lƣợng nguyên tử và EEC
điều hành toàn bộ lĩnh vực sản xuất ở 6 nƣớc này. Tuy nhiên, nhằm tránh sự
chồng chéo trong hoạt động của 3 cộng đồng, đến năm 1957 các quốc gia này
lại nhất trí hợp nhất các thiết chế của cả 3 cộng đồng trên thành Cộng đồng
Châu Âu (EC). Cùng với quá trình hình thành và phát triển, EC cũng đã xúc
tiến việc phát triển sâu hơn nữa liên kết kinh tế. Và việc ký kết hiệp ƣớc
Maastrich tháng 2/1992 đã khiến Châu Âu thay đổi một cách cân bằng đồng
thời đổi tên cộng đồng Châu Âu (EC) thành Liên minh Châu Âu (EU :
EUROpean Union).
Qua bốn lần mở rộng với số thành viên là 15 nƣớc, ngoài 6 nƣớc thành
viên sáng lập còn có Anh, Đan Mạch, Atlen, Hy lạp, Tây Ban Nha, áo, Phần
4
- Lan, Thuỵ Điển và Bồ Đào Nha. Cùng với quá trình phát triển mở rộng, EU
cũng đã không ngừng tăng cƣờng liên kết kinh tế về chiều sâu, từ thị trƣờng
chung (a common market) đến thị trƣờng thống nhất (a single market) và liên
minh kinh tế – tiền tệ (Economic and Monetary Union) với sự ra đời của đồng
tiền chung EURO và đƣợc chính thức lƣu hành từ ngày 01/01/2000.
Bảng 1 : Quá trình hình thành và phát triển của EU
Năm Sự kiện Số thành viên kết nạp
1951 Cộng đồng than và thép Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà La và
(ECSC) Lucxămbua
1957 Cộng đồng năng lƣợng
nguyên tử châu Âu
(EURATOM) và cộng đồng
kinh tế Châu Âu (EEC)
1967 Thống nhất Cộng đồng châu
Âu (EC)
1973 Liên hiệp Anh, Ailen, Đan Mạch
1981 Hy Lạp
1986 Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1992 Đổi tên EC thành EU
1995 áo, Thuỵ Điển, Phần Lan
2000 Đồng tiền chung Châu Âu
đƣợc lƣu hành trong 12/15
nƣớc thành viên
2004 Kết nạp thêm 10 nƣớc thành Ba Lan, Hunggari, Cộng Hoà
viên Séc, Xlovakia, Látvia, Lýtva,
Extonia, Xlôvenia, và hai quốc
đảo Sáp và Manta
5
- Nguồn: www.europa.eu.int
EU mở rộng vào tháng 5/2004 là lần mở rộng lớn nhất trong lịch sử của
EU từ trƣớc tới nay. Với việc kết nạp thêm 10 nƣớc thành viên mới, dân số tăng
thêm khoảng 75 triệu ngƣời, bằng 20% dân số hiện có, diện tích lãnh thổ tăng
thêm 23% so với hiện nay, và tổng thu nhập quốc nội tăng thêm chƣa đầy 5%
năm 2002 (GDP tăng từ 8.562,6% tỷ USD lên 8971,8tỷ USD). Tổng sản phẩm
quốc nội của EU 15 chiếm 26,5% GDP của thế giới còn EU 25 chiếm 27,8%
GDP thế giới. 25 quốc gia thành viên EU chia sẽ chính sách chung về nông
nghiệp, an ninh, đối ngoại hợp tác tƣ pháp và nội vụ, áp dụng một chế độ thƣơng
mại và chính sách chung về lao động, bảo hiểm môi trƣờng, năng lƣợng, giáo
dục và y tế. Đã có 12 nƣớc quốc gia thành viên tham gia vào Liên minh tiền tệ
và các nƣớc thành viên còn lại cũng sẽ gia nhập trong thời gian tới.
Nhƣ vậy, EU trở thành một khối kinh tế và thị trƣờng lớn nhất thế giới,
điều đó sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các thành viên mới tăng nhanh tốc độ phát
triển kinh tế nói riêng, cả Liên minh Châu Âu nói chung. Tốc độ tăng trƣởng
của EU khá ổn định, GDP hàng năm tăng từ 1,8% đến 2,7% và không bị ảnh
hƣởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998. Đây là nguyên nhân làm
cho thƣơng mại và kinh tế của EU phát triển chắc chắn, tạo sức mạnh cho nền
kinh tế thế giới.
Tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu của EU 25 đạt 2.441,2 tỷ USD, trong
đó xuất khẩu hàng hoá nội khối khoảng 1.502,2 tỷ USD, xuất khẩu hàng hoá
ngoại khối khoảng 938 tỷ USD, EU 25 đang đứng đầu thế giới về xuất khẩu
hàng hoá ngoại khối, bằng 14,6% tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá của thế giới.
Về nhập khẩu hàng hoá, năm 2002 EU 25 đạt 2.437 tỷ USD, trong dó nhập
khẩu nội khối đạt 1.506 tỷ USD, ngoại khối đạt 931,2 tỷ USD, chiếm 13,9%
giá trị nhập khẩu thế giới, đứng sau Mỹ (17,9%). Tổng cộng, kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá, dịch vụ của EU25 chiếm 22% thế giới, còn kim ngạch nhập
khẩu hàng hoá, dịch vụ chiếm 21,9%.
6
- Về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài của EU25 (không kể đầu tƣ nội khối năm
2002 chiếm 47% tổng FDI toàn thế giới và EU thu hút 20% FDI của thế giới.
2. Chính sách thƣơng mại của EU 25
2.1. Chính sách thƣơng mại nội khối
Chính sách thƣơng mại nội khối của EU tập trung vào việc xây dựng và
vận hành thị trƣờng chung Châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát biên giới
quốc gia, biên giới hải quan mà cụ thể là việc xoá bỏ tất cả các hàng rào thuế
quan để tự do lƣu thông hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động, điều hoà các
chính sách kinh tế và xã hội của các nƣớc thành viên.
Để hàng hoá tự do lƣu thông trong thị trƣờng chung, các nƣớc thuộc EU
đều thoả thuận tiến hành phƣơng 4 xoá. Đó là: (1) xoá bỏ hoàn toàn mọi loại
thuế quan đánh vào hàng xuất nhập khẩu giữa các nƣớc thành viên: (2) xoá bỏ
hạn ngạch áp dụng trong thƣơng mại nội khối (3) xoá bỏ tất cả biện pháp tƣơng
tự hạn chế số lƣợng, các biện pháp hạn chế dƣới hình thức là các quy chế và quy
định về cấu thành sản phẩm, đóng gói, tiêu chuẩn công nghệ và an toàn kỹ thuật
thông qua vận dụng hai nguyên tắc điều hoà và công nhận lẫn nhau; (4) xoá bỏ
tất cả các rào cản về thuế giữa các nƣớc thành viên thực chất là việc đổi mới thủ
tục thuế, chuyển chức năng kiểm soát từ biên giới tới các hãng.
Để thực hiện việc tự do lƣu chuyển về vốn trong nội bộ khối, EU áp
dụng các biện pháp nhƣ: Tháo dỡ tất cả các hạn chế về ngoại hối, thống nhất
luật pháp và các nguyên tắc quản lý thị trƣờng vốn của các thành viên; thanh
toán tự do.
2.2. Chính sách thƣơng mại ngoại thƣơng
Tất cả các thành viên EU đều cùng áp dụng một chính sách ngoại
thƣơng đối với các nƣớc ngoài khối, uỷ ban Châu Âu là ngƣời đại diện duy
nhất cho liên hiệp trong đàm phán, ký kết các hiệp định thƣơng mại và dàn
xếp tranh chấp trong lĩnh vực này.
7
- Chính sách ngoại thƣơng của EU đƣợc dựa trên các nguyên tắc không
phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại, và cạnh tranh công bằng.
Các biện pháp đƣợc áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế
quan, hạn ngạch, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Chính sách nhập khẩu:
- Về thủ tục thông quan hàng hoá: tất cả mọi hàng hoá nhập vào lãnh
thổ của EU đều phải chịu sự giám sát của hải quan và phải kê khai với hải
quan bằng văn bản. Theo thủ tục hải quan thông thƣờng, các chứng từ thƣờng
yêu cầu bao gồm hoá đơn hoặc các chứng từ khác để xác định thuế, các chứng
từ để áp dụng các loại thuế quan ƣu đãi (nhƣ Chứng nhận xuất xứ “mẫu A” để
áp dụng GSP) hoặc hàng hoá đƣợc giảm thuế so với thuế cơ bản, và bất cứ
các chứng từ khác theo quy định cụ thể phù hợp với việc nhập khẩu các hàng
hoá đƣợc đề cập trong thủ tục thông quan hàng hoá (ví dụ nhƣ: giấy phép,
chứng nhận về tính phù hợp, chứng nhận tính xác thực đối với những loại đồ
uống có cồn…)
Các cơ quan hải quan có thể thẩm tra bản khai bằng các kiểm tra các
chứng từ hay hàng hoá, hoặc có thể chấp nhận mà không cần thẩm tra. Bản
khai hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu phải ghi rõ giá trị thuế quan,
xuất xứ hàng hoá, và phân loại hàng hoá theo Biểu thuế quan thống nhất
(TARIC) hay hệ thống hỗn hợp (CN).
- Quy tắc xuất xứ: quy định của EU về xuất xứ hàng hoá gồm hai loại:
(a). Đối với sản phẩm hoàn toàn đƣợc sản xuất tại lãnh thổ nƣớc đƣợc hƣởng
ƣu đãi nhƣ: khoáng sản, động thực vật, thuỷ sản đánh bắt trong lãnh thổ và
hàng hoá sản xuất từ sản phẩm đó đƣợc xem là có xuất xứ và đƣợc hƣởng ƣu
đãi GSP. (b) Đối với các sản hẩm có thành phần nhập khẩu: EU quy định hàm
lƣợng giá trị giá sản phẩm sáng tạo tại nƣớc hƣởng GSP (tính theo giá xuất
xƣởng) phải đạt 60% tổng trị giá hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số
nhóm hàng thì hàm lƣợng này thấp hơn. EU quy định cụ thể tỷ lệ trị giá và
8
- công đoạn gia công đối với một số nhóm hàng mà yêu cầu phần trị giá sáng
tạo thấp hơn 60% (điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh không dƣới 40%, đồ trang trí
làm từ kim loại không dƣới 30%; giầy dép chỉ đƣợc hƣởng GSP nếu các bộ
phận nhƣ: mũi giày, đế giày, .v.v… ở dạng rời có xuất xứ từ nƣớc thứ 3 cũng
đƣợc hƣởng GSP hoặc nhập khẩu, v.v…)
EU cũng quy định xuất xứ cộng gộp, theo đó hàng của một nƣớc có
thành xuất xứ từ một nƣớc khác trong cùng một tổ chức khu vực cũng đƣợc
hƣởng GSP thì các thành phần đó cũng đƣợc xem là có xuất xứ từ nƣớc liên
quan. Ngoài ra còn có những quy định cụ thể khác về GSP của EU, nhƣ
nguyên tắc tự vệ và loại trừ điều kiện hƣởng GSP, v.v.. cơ chế kinh tế thị
trƣờng và nhóm có nền kinh tế phi thị trƣờng. Chế độ quản lý nhập khẩu của
EU hết sức phức tạp, nên việc thu thập và phổ biến thông tin về thị trƣờng này
đến các nhà sản xuất của các nƣớc thứ ba là việc làm có tầm quan trọng hàng
đầu. Theo tính toán của UNCTAD, do thiếu thông tin và không hiểu rõ các
quy định về thủ tục của EU, các nƣớc đang phát triển sử dụng đƣợc 45% ƣu
đãi của EU trong GSP.
- Về thuế quan: Hàng năm uỷ ban Châu Âu sẽ đăng trên Công báo của
Cộng đồng về biểu thuế quan hƣởng theo Tối huệ quốc (MFN) đối với tất cả
danh mục hàng nhập khẩu vào cộng đồng. Nếu so sánh theo mức tối thiểu và
tối đa thì mức thuế cao nhất vẫn là các mặt hàng nhƣ thịt, sản phẩm sữa, ngũ
cốc và rau quả chế biến và không chế biến. Đối với các hàng nông sản mức
thuế từ 0% đến 470,8%; đối với hàng không phải nông sản có mức thuế từ 0%
đến 36,6%.
Thuế nhập khẩu đƣợc áp dụng cho tất cả các sản phẩm nhập khẩu đƣợc
thống nhất áp dụng cho tất cả các nƣớc thành viên EU. Về cơ bản, biểu thuế
quan đƣợc chia thành 3 nhóm:
Nhóm thứ nhất áp dụng đối với nhập khẩu từ những nƣớc có thực hiện
quy chế tối huệ quốc (MFN).
9
- Nhóm thứ hai, là thuế quan ƣu đãi, áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ
cực nƣớc đang phát triển đƣợc hƣởng đơn thuần ƣu đãi GSP của EU.
Nhóm thứ ba, đƣợc gọi là thuế quan đặc biệt, thực hiện đối với hàng
nhập khẩu từ một số nƣớc đang phát triển đƣợc hƣởng ƣu đãi GSP kèm với
những ƣu đãi theo hiệp định song phƣơng khác nhƣ các nƣớc trong Hiệp định
Châu Âu, EC, acp và các nƣớc chậm phát triển.
Một trong những kết quả đáng chú ý nhất của việc hình thành thị
trƣờng chung là các thủ tục thông quan đồng nhất và thuế nhập khẩu chỉ phải
thanh toán tại cảng vào EU. Khi hàng hoá đã vào EU thì không cần làm thêm
các thủ tục thông quan tại biên giới nội địa. Bởi vậy, hàng rào có thể đƣợc vận
chuyển nhanh và với giá cƣớc rẻ trong phạm vi EU.
Thuế nhập khẩu đƣợc áp dụng đối với tất cả các sản phẩm nhập khẩu
vào EU. Thuế hải quan chung của EU đƣợc xây dựng trên hệ thống Mã mô tả
hàng hoá hài hoà (HS). Nhìn chung, thuế nhập khẩu không quá cao. Mức thuế
trung bình thấp hơn 4% đối với các sản phẩm chế tạo. Các ngoại tệ áp dụng
đối với sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm nhạy cảm (đặc biệt là hàng dệt
may), kể từ hạn ngạch chuyển thành thuế quan theo vòng đàm phán uruguay.
Do đó, thuế quan có thể vẫn cao đối với một số mặt hàng nông sản và hàng
nhạy cảm trong vài năm tới. Tuy nhiên, những mức thuế quan này cũng đã
giảm xuống. Thuế quan đối với hàng nông sản ôn đới là đa dạng, phụ thuộc
vào mùa vụ nông nghiệp ở EU.
Vì chƣơng trình ƣu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và các hiệp định
thƣơng mại mà xuất khẩu từ các nƣớc đang phát triển có thể đƣợc miễn thuế
nhập khẩu hoặc chịu một mức thuế thấp. Trong các trƣờng hợp đặc biệt, hàng
hoá có thể đƣợc miễn thuế nhập khẩu vì các lý do khác, ví dụ: Vận chuyển
hàng mẫu không có giá trị thƣơng mại, hàng hoá để sửa chữa hoặc các sản
phẩm chỉ nhập khẩu tạm thời.
10
- - Về thuế bảo hộ: Để giảm bớt các biện pháp thƣơng mại không công
bằng nhƣ phá giá hoặc trợ giá bất hợp pháp, EU đƣa ra các hình thức phạt
thƣơng mại dƣới dạng phụ thuế, thuế đặc biệt, thuế chống bán phá giá hoặc
các quy định mức giá tối thiểu cho nhà nhập khẩu. Một số loại thuế mà EU
đƣa ra nhằm mục đích bảo hộ nền sản xuất của mình bao gồm:
- Thuế thực phẩm: nhằm bảo vệ sản xuất thực phẩm trong Liên minh,
EU ban hành chính sách nông nghiệp chung (CAP). Theo hệ thống CAP, nếu
giá nhập khẩu thực phẩm nhỏ hơn thực giá tối thiểu, thì sẽ bị đánh thuế thêm,
Hệ thống giá này đƣợc áp dụng với các loại quả quanh năm nhƣ: cà chua, bí
xanh và theo mùa nhƣ cam, quýt, táo, mơ, mận, nho. Hệ thống thuế nhập khẩu
không có hiệu lực với rau quả ngoại lai.
- Thuế nông sản và hải sản: EU tham gia vòng đàm phán Uruguay
nhằm huỷ bỏ mức thuế nhập khẩu nông sản trƣớc kia của mình và thay bằng
các công cụ thuế đƣợc chấp nhận rộng rãi hơn. Thuế nông sản gồm nhiều
phần khác nhau, thuế theo mùa và dựa trên giá thời điểm nhập khẩu. Các cơ
quan thuế quan thuộc EU quản lý nhập khẩu và thu thuế trên các mặt hàng
này.
Hàng năm, uỷ ban châu Âu sẽ đăng trên Công báo của Cộng đồng về
biểu thuế quan hƣớng theo quy chế Tối huệ quốc (MFN) đối với tất cả các
danh mục hàng nhập khẩu vào Cộng đồng. Cụ thể đối với hàng nông sản đã
giảm trung bình từ 17,3% năm 1999 xuống còn 16,1% năm 2002. Hàng nông
sản xuất khẩu vào thị trƣờng EU đƣợc chia thành 2 nhóm: (1) Những mặt
hàng EU không sản xuất: Cà phê, hạt tiêu, điều, cao su, nguyên liệu, dầu dừa
đƣợc miễn thuế nhập khẩu = 0); (2). Nhóm những mặt hàng chịu thuế nhập
khẩu là những mặt hàng EU sản xuất: Rau quả, thịt gia súc, gia cầm… Nếu so
sánh theo mức tối thiểu và tối đa thì mức thuế cao nhất vẫn là các mặt hàng
nhƣ thịt, sản phẩm sữa, ngũ cốc và rau quả chế biến và không chế biến. Đối
11
- với hàng nông sản, mức thuế từ 0 đến 470,8%: đối với hàng không phải nông
sản có mức thuế từ 0 đến 36,6%.
- Thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu từ nƣớc thứ ba (đã
đƣợc thông báo cho WTO) đƣợc áp dụng đối với các sản phẩm công nghiệp
và nông nghiệp. Còn các mặt hàng đƣợc đề cập trong Hiệp ƣớc Cộng đồng
than thép Châu Âu thì có quy định riêng. Luật này sẽ đƣợc áp dụng cho tất cả
các nƣớc thứ ba, kể cả các đối tác thƣơng mại đƣợc hƣởng ƣu đãi, trừ các
thành viên của Khu vực Kinh tế Châu Âu (EFA) trong một số lĩnh vực chịu
sự chi phối trong khuôn khổ chính sách cạnh tranh của EU. Quy định này có
một số điều khoản đặc biệt áp dụng cho các nền kinh tế chuyển đổi, đã đƣợc
sửa đổi vào tháng 10/2000 để tránh quy chế đối xử nhƣ với nền kinh tế thị
trƣờng cho các nhà xuất khẩu từ An-ba-ni, Goóc –gla, Ka-dắc-stan, Ky-gy-
stan, Mông Cổ, Ucrana và Việt Nam theo quy chế tạm thời để áp dụng trong
việc điều tra chống bán phá giá (sau đó thêm Trung Quốc và Nga, tuy nhiên
Nga đã chính thức đƣợc EU Công nhận có nền kinh tế thị trƣờng). Các nƣớc
có nền kinh tế chuyển đổi khác sẽ tự động đƣợc hƣởng quy định này khi gia
nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.
Khi một mặt hàng nào đó đƣợc xác định là bán phá giá vào thị trƣờng EU
và có đơn kiện của ngƣời sản xuất của Cộng đồng thì Uỷ ban EU sẽ xem xét việc
bán phá giá đó có ảnh hƣởng đến lợi ích chung của Cộng đồng hay không. Có
nhiều trƣờng hợp việc chống bán phá giá trở thành các cuộc thảo luận chính trị
lớn ở cấp cao trong Cộng đồng. Thông thƣờng các thành viên gây áp lực chính
trị buộc Uỷ ban phải đƣa ra giải pháp bảo vệ lợi ích cho Cộng đồng.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt: Thuế này áp dụng đối với một số sản phẩm
phụ thuộc vào dung lƣợng đồng thời áp dụng phổ biến với các sản phẩm nội
địa và hàng nhập khẩu. Ví dụ, các sản phẩm đang phải đƣơng đầu với loại
thuế này là đồ uống có cồn và không có cồn, thuốc lá và các sản phẩm thuốc
lá, dầu khoáng đƣợc sử dụng làm nhiên liệu. Thuế tiêu thụ đánh vào dầu và
12
- các sản phẩm đầu vào gồm cả một loại “thuế xanh” để gây quỹ thực hiện các
biện pháp bảo vệ môi trƣờng. Điều này, nhận mạnh rằng, thuế tiêu thụ không
đƣợc hài hoà ở EU. Do vậy, mức thuế tiêu thụ đối với một sản phẩm nhất
định có thể rất khác biệt giữa các nƣớc thành viên EU.
- Thuế giá trị gia tăng: Tất cả các sản phẩm bán ở EU đều là đối tƣợng
chịu thuế giá trị gia tăng (VAT). Nhìn chung, mức thuế áp dụng đối với sản
phẩm thiết yếu và mức thuế cao áp dụng đối với sản phẩm xa xỉ. Để có sự
thống nhất trong chính sách thuế VAT, tháng 6/2001, Hội đồng Liên minh
Châu Âu đã ban hành nghị định nhằm xoá bỏ những cản trở tiến tới sự hợp
tác toàn diện giữa các nƣớc thành viên trong việc đấu tranh chống gian lận
thƣơng mại. Thuế tiêu thụ áp dụng đối với một số sản phẩm phụ thuộc vào tác
dụng của sản phẩm đó đối với công dân của cộng đồng và áp dụng đối với cả
các sản phẩm nội địa và nhập khẩu. Các sản phẩm đang phải đƣơng đầu với
các loại thuế này là đồ uống có và không có cồn, thuốc lá và các sản phẩm
thuốc lá. Ngoài ra, ở một số nƣớc thành viên, thuế tiêu thụ còn đánh vào dầu
thực vật và các sản phẩm dầu dƣới hình thức nhƣ một loại “thuế xanh” để gây
quỹ thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trƣờng. Điều này nhấn mạnh rằng,
thuế tiêu thụ chƣa đƣợc hài hoà trong toàn cộng đồng do có một số thành viên
khác lại tiêu thụ đối với một số sản phẩm nhất định lại có thể khác nhau giữa
các nƣớc thành viên.
- Về giấy phép nhập khẩu: Giấy phép nhập khẩu có thể yêu cầu đối với
hàng nhạy cảm và hàng chiến lƣợc. Trong số này, có hàng dệt (theo các quy tắc
của Hiệp định đa sợi MFA), các sản phẩm thép, than đá và than cốc, vũ khí.
Giấy phép nhập khẩu thông thƣờng đƣợc cấp không có quá nhiều khó khăn và
nhà nhập khẩu có trách nhiệm viết đơn xin cấp giấy phép. Nếu số lƣợng giảm
theo MFA và đối tƣợng của hạn ngạch nhập khẩu thì nhà sản xuất phải cung cấp
cho nhà nhập khẩu giấy phép xuất khẩu hoặc giấy chứng nhận xuất khẩu để nhà
nhập khẩu xin đƣợc giấy phép nhập khẩu (hệ thống kiểm tra chéo).
13
- - Về hạn ngạch: EU đƣợc coi là đối tƣợng tự do trong kinh doanh
thƣơng mại quốc tế. Tuy nhiên, cũng có một số sự hạn chế nhất định về hạn
ngạch nhập khẩu, thủ tục giám sát và các biện pháp tự về khác nhằm chống lại
bán phá giá và trợ giá. Nhập khẩu hàng hoá từ các nƣớc mà chi phí sản xuất
thấp một cách bất thƣờng sẽ trở thành đối tƣợng bị áp dụng những hạn chế về
số lƣợng hàng nhập. The đó, hàng nhập khẩu sẽ đƣợc áp dụng mức thuế quan
thông thƣờng nếu đƣợc nhập vào EU với một số lƣợng quy định.
- Về lệnh cấm: EU ban hành lệnh cấm đối với một số sản phẩm. Điều
này có nghĩa là nhập khẩu bị cấm hoặc chỉ cho phép theo những điều kiện
nhất định. Các lệnh cấm đƣợc áp dụng chủ yếu đối với việc mua bán các sản
phẩm nguy hiểm nhƣ thuốc tân dƣợc, thuốc trừ sâu, phế thải hoá chất. Thực
phẩm, sản phẩm điện, cây trồng và vật nuôi nhập khẩu có thể cũng là đối
tƣợng bị cấm trên cơ sở sự cân nhắc về an toàn và sức khoẻ. Các luật quan
trọng về những sản phẩm này là: Luật về chất thải và hoá chất và Công ƣớc
về thƣơng mại quốc tế các loại hàng hoá gây nguy hiểm.
Quy định và yêu cầu của thị trường:
- Tiêu chuẩn hoá: Các tiêu chuẩn thƣờng đƣợc sử dụng để mô tả chất
lƣợng và tính năng của hàng hoá dịch vụ và các tiêu chuẩn này có ý nghĩa rất
quan trọng đối với sự phát triển của thị trƣờng toàn cầu. Chúng cung cấp một
hệ thống các tiêu chuẩn và ngôn ngữ chung cho việc phát triển thƣơng mại và
kinh tế thế giới. Hầu hết các tiêu chuẩn này đều đƣợc xây dựng theo yêu cầu
của nền công nghiệp. Tuy nhiên, uỷ ban Châu Âu cũng có thể yêu cầu các cơ
quan tiêu chuẩn hoá xây dựng các tiêu chuẩn để thi hành luật pháp Châu Âu.
Tiêu chuẩn hoá có ý nghĩa từ khi cộng đồng Châu Âu bắt đầu quá trình
hoà hợp các tiêu chuẩn liên quan đến luật pháp để đảm bảo sự an toàn và sức
khoẻ ngƣời tiêu dùng. Vì thế mà việc đáp ứng các tiêu chuẩn đã trở thành một
điều quan trọng để thâm nhập thị trƣờng châu Âu. Hơn nữa, để thực hiện
nguyên tắc tự do lƣu thông hàng hoá thì làm hoà hợp các tiêu chuẩn là việc
14
- làm rất cần thiết. Do đó, EU đang tạo ra những tiêu chuẩn thống nhất cho toàn
Châu Âu trong các khu vực sản xuất sản phẩm mũi nhọn để thay thế hàng
ngàn các tiêu chuẩn khác nhau của các quốc gia. Nhìn chung, các mức độ yêu
cầu tối thiếu cho toàn châu Âu đang sẽ đƣợc đặt ra. Mỗi nƣớc thành viên đều
đƣợc đặt ra các quy định bổ sung cho nền công nghiệp trong nƣớc. Tuy nhiên,
bất cứ sản phẩm nào phù hợp với các quy định tối thiểu đều đƣợc phép tự do
lƣu thông trong EU.
- Tiêu chuẩn sức khoẻ và an toàn: Vấn đề sức khoẻ và an toàn ngày
càng trở nên quan trọng đối với mỗi cá nhân tại EU. Việc áp dụng các tiêu
chuẩn này chủ yếu liên quan đến phái khách hàng hơn là phía ngƣời lao động.
Từ tháng 5 năm 1985, Hội đồng châu Âu đã duyệt phƣơng pháp tiếp cận
mối liên quan đến bình thƣờng hoá và điều hoà hoá. Phƣơng pháp tiếp cận mới
tiêu chuẩn hoá và quản lý chất lƣợng nhằm đảm bảo rằng chỉ có những sản phẩm
an toàn và thoả mãn các yêu cầu bảo vệ sức khoẻ, môi trƣờng và ngƣời mới
đƣợc ban hành nhƣ một kế hoạch cho việc phát triển thị trƣờng EU. Tuy vậy,
cũng có hàng ngàn chỉ thị của EU đƣợc bãi bỏ do phƣơng pháp tiếp cận cũ về
tiến trình hoà hợp hoá chi tiết đƣợc chấm dứt. Theo nhƣ phƣơng pháp mới này
thì nhãn CE là một nhãn bắt buộc đối với nhiều sản phẩm công nghiệp.
- Tiêu chuẩn môi trƣờng: Tại nhiều quốc gia châu Âu tiêu chuẩn môi
trƣờng cũng là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với hàng hoá khi nhập khẩu vào
thị trƣờng này. Các tiêu chuẩn này không chỉ áp dụng cho sản phẩm mà cả
bao bì của sản phẩm. Các nhà sản xuất phải tuân thủ những quy định về môi
trƣờng để đƣợc xuất khẩu vào EU, còn các nhà nhập khẩu sẽ chuyển những
yêu cầu này cho nhà xuất khẩu.
II. NHỮNG THAY ĐỔI VỀ THỂ CHẾ VÀ CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI
CỦA EU
1. Điều chỉnh khuôn khổ chính trị - cải tổ thể chế
15
- Hiệp ƣớc Nice là một bƣớc tiến quan trọng của EU trong việc cải tổ thể
chế cũng nhƣ hoạch định chính sách chuẩn bị cho đợt mở rộng lần này, với
những nội dung liên quan tới cả những thành viên cũ và mới.
- Mở rộng thủ tục bỏ phiếu đa số cho việc thông qua quyết định của
Hội đồng trong các lĩnh vực chính sách mà trƣớc đây vẫn áp dụng thủ tục nhất
trí.
- Phân bổ lại số phiếu của các nƣớc thành viên cũ và mới trong thủ tục
đa số đủ thẩm quyền;
- Phân bổ lại số ghế trong Hội đồng Châu Âu;
- Tăng cƣờng quyền hạn cho Uỷ ban châu Âu
Các vấn đề liên quan tới mở rộng đối với từng thể chế cụ thể đƣợc trình
bày chi tiết hơn ở phần dƣới đây.
- Với Hội đồng Châu Âu: lần mở rộng này đặt ra những thách thức to
lớn cho Hội đồng. Cho đến nay Hội đồng vẫn đƣợc xem nhƣ thể chế đạt đƣợc
mức cân bằng hết sức nhạy cảm giữa đặc tính siêu quốc gia và quốc gia, giữa
các nƣớc lớn và nƣớc nhỏ. Nhƣng khi có mƣời thành viên cả lớn lẫn nhỏ tham
gia, việc phân chia lại quyền lực trong Hội đồng nhƣ thế nào để đảm bảo sự
công bằng cũng nhƣ đạt đƣợc sự đồng thuận cao trong các quyết sách là một
vấn đề. Việc phân bổ quyền lực giữa các nƣớc trong hoạch định chính sách
chung đƣợc thể hiện qua số phiếu quy định cho mỗi nƣớc trong thủ tục đa số
đủ thẩm quyền luôn là vấn đề căng thẳng trong cải tổ. Theo Hiệp định Gia
nhập tháng 4/2003, quyết định của Hội đồng thông qua phải đạt ít nhất 232
phiếu thuận trong số 321 phiếu hay 72%, với 2/3 số thành viên và đạt tỷ lệ
dân số 62% dân số EU trở lên. Những sửa đổi tại Hội nghị thƣợng đỉnh về
tƣơng lai của Châu Âu tại Brussels tháng 12/2003 là việc thông qua quyết
định chỉ cần 50% nƣớc thành viên đại diện cho 60% dân số EU ủng hộ là
đƣợc. Pháp và Đức ủng hộ sáng kiến này vì tỷ lệ phiếu bầu tƣơng đối của họ
giảm đi, nhƣng Tây Ban Nha và Ba Lan thì phản đối việc sửa đổi vì hò đang
16
- có số phiếu bầu khá cao, còn một số nƣớc nhỏ cũng không đồng tiền vì muốn
duy trì quyền hạn của mình theo số lƣợng thành viên thông qua quyết định.
Việc mở rộng các lĩnh vực chính trị cho thủ tục bỏ phiếu đa số cũng
gặp khó khăn, Anh vẫn muốn duy trì những lĩnh vực nhạy cảm nhƣ thuế, an
ninh, xã hội, chính sách ngoại giao và các thủ tục xét xử nhƣ cũ.
Việc bất đồng ý kiến vừa rồi cũng làm cho việc cải tổ để đơn giản hoá các
thủ tục bỏ phiếu là chƣa thể đƣa ra, mặc dù các chuyên gia đánh giá rằng nếu áp
dụng các thủ tục phức tạp của Hiệp ƣớc Nice, thì có thể chỉ có 2% số công việc
của EU đạt đƣợc thoả thuận, trong khi áp lực của mở rộng rất lớn, đòi hỏi phải
giải quyết nhiều công việc liên quan tới ngân sách, thể chế, luật pháp...
Hơn nữa, khi số thành viên tăng lên tới 25 và còn tiếp tục tăng nữa thì
thời hạn luân phiên giữ chức chủ tục EU sẽ phải thay đổi nhƣ thế nào để
không quá ngắn cho một phiên, nhƣng lại không bắt các nƣớc phải chờ đợi
quá lâu mới đến lƣợt cũng đang là vấn đề. Ngoài ra việc soạn thảo các văn
bản, biên dịch, phiên dịch theo ngôn ngữ của cả 25 thành viên cũng gây khó
khăn cho hoạt động của Hội đồng.
- Với uỷ ban châu Âu: Trƣớc đợt mở rộng, Uỷ ban cũng nhƣ các thể
chế của EU cũng phải đổi mới theo tinh thần “hợp tác chặt chẽ hơn” của Hiệp
ƣớc Nice, nhằm đảm bảo dân chủ và nâng cao tính minh bạch và hiệu quả hơn
trong các chính sách. Trong khi đảm bảo dân chủ có thể làm tăng vai trò
chính trị hay hoạch định chính sách của Uỷ ban, cho phép thể chế này có
thêm quyền tự quyết định hơn thì thách thức về tính minh bạch hiệu quả đòi
hỏi thể chế này phải có những cải tổ để nâng cao hơn nữa năng lực quản lý.
Mặt khác cùng với việc mở rộng, cơ cấu của Uỷ ban sẽ phải có những thay
đổi. Theo dự kiến, mỗi nƣớc thành viên sẽ chỉ đƣợc đề cử một uỷ viên, và
phải đƣợc Hội đồng bổ nhiệm theo nguyên tắc đa số đủ thẩm quyền QMV,
chức chủ tịch Uỷ ban sẽ do Hội đồng bầu ra theo nguyên tắc nhất trí. Việc các
nƣớc lớn cũng chỉ đƣợc bầu một uỷ viên trong Hội đồng có thể làm cho các
17
- nƣớc “bình đẳng” hơn, tuy vậy các nƣớc lớn vẫn có cảm giác thiệt thòi hơn,
mặc dù trong Hội đồng, số phiếu theo thẩm quyền đủ đã thay đổi. Hơn nữa,
với dự kiến trong số 25 uỷ viên, sẽ có 15 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự
khuyết để tập trung quản lý hiệu quả hơn, sẽ dẫn đến những nƣớc không phải
là uỷ viên chính thức có cảm giác bị gạt ra ngoài lề, đặc biệt là các thành viên
mới.
- Với Quốc hội Châu Âu: Hiện nay đang diễn ra những chuyển biến lớn
về quyền lực của Quốc hội châu Âu nhƣ một thể chế siêu quốc gia đƣợc bầu
cử trực tiếp nhằm tăng tính dân chủ hợp pháp của Cộng đồng cũng nhƣ đƣa
các thể chế EU gần gũi với ngƣời dân hơn. Đây cũng là những nỗ lực của
Quốc hội gắn liền với quá trình cải tổ thủ tục hoạch định chính sách và phân
bổ quyền lực giữa các thể chế nhằm đạt tới sự dân chủ, minh bạch và hiệu quả
hơn. Việc mở rộng EU đòi hỏi phải tăng số ghế trong Quốc hội lên tới 732, và
phân bổ lại số nghị sĩ của các nƣớc thành viên nhƣ Hiệp ƣớc Gia nhập quy
định. Ngoài ra với số thành viên đông hơn, các lực lƣợng chính trị tham gia
nhiều hơn, có thể dẫn tới những mâu thuẫn giữa tính hiệu quả và dân chủ. Dự
thảo Hiệp ƣớc Hiến pháp quy định các sáng kiến của Uỷ ban Châu Âu phải
đƣợc thông qua ở Quốc hội các nƣớc thành viên, sau đó mới phê chuẩn ở cấp
siêu quốc gia, sẽ tăng tính dân chủ nhƣng có thể làm giảm hiệu quả vì thủ tục
nhƣ vậy tốn rất nhiều thời gian, công sức.
- Với toà án Châu Âu: Việc EU mở rộng sẽ buộc phải thay đổi cơ cấu
của Toà án Châu Âu cũng nhƣ Toà án sơ thẩm. Hiệp ƣớc gia nhập quy định sẽ
có sự thay đổi 3 năm một lần, 13 rồi 12 thẩm phán trong 25 thành viên. Toà
sơ thẩm cũng sẽ tăng lên 25 thành viên. Ngoài ra việc tăng số lƣợng ngôn ngữ
và phiên dịch trong hoạt động của toà án cũng là một vấn đề lớn. Một trong
những thách thức lớn nhất là mặc dù các thành viên mới đã cam kết thông qua
và sẽ áp dụng các acquis của Cộng đồng vào luật pháp nƣớc mình, nhƣng quá
trình hoà hợp và hội tụ luật pháp này sẽ kéo dài. Sự khác biệt về luật pháp
18
- giữa các nƣớc thành viên cũ và mới cũng nhƣ giai đoạn quá độ này sẽ làm cho
công việc của Toà án nặng nề hơn.
Ngoài bốn thể chế chính trên, cải tổ cũng đƣợc thực hiện trong tất cả
các thể chế còn lại của EU nhƣ Ngân hàng Trung ƣơng Châu Âu, Toà kiểm
toán, Uỷ ban Kinh tế – xã hội, uỷ ban vùng.
Những bất đồng mới đây giữa các thành viên tại Brussels và những trục
trặc trong việc thông qua Hiệp ƣớc Hiếp pháp, cho thấy những kết quả đạt
đƣợc tại Hiệp ƣớc Nice mới đơn thuần là sự xem xét một cách số học về số
phiếu bầu và số ghế trong các thể chế của EU chứ chƣa phải là cách nhìn nhận
lại thật sự cơ bản về hệ thống. Đó là những vấn đề liên quan tới dân chủ, minh
bạch và hiệu quả, tới vai trò Quốc hội của các nƣớc thành viên, việc đơn giản
hoá các Hiệp ƣớc, Hiến chƣơng về các quyền cơ bản và phân định rạch ròi
quyền hạn giữa EU và các nƣớc thành viên. Đây mới thực sự là những thách
thức to lớn về cải tổ thể chế, đảm bảo thành công cho đợt mở rộng lần này.
Không chỉ cải tổ thể chế mà việc đảm bảo các chính sách và pháp luật
của EU đƣợc thực hiện tốt trong một cộng đồng mở rộng là một thách thức to
lớn đối với EU. Mặc dù các thành viên mới đã thông qua các acquis, nhƣng
còn rất nhiều công việc mà EU phải làm để cải thiện khu vực hành chính của
những nƣớc này, sao cho việc áp dụng các luật pháp và tiêu chuẩn của EU là
công bằng và hiệu quả. Mặt khác EU cũng cần phải cải thiện việc thực thi luật
pháp và chính sách sao cho phù hợp với cả thành viên cũ và mới.
2. Điều chỉnh chính sách kinh tế
2.1. Cải tổ chính sách ngân sách của Liên minh
Đây luôn là lĩnh vực nhạy cảm gắn liền với nghĩa vụ và quyền lợi của
các nƣớc thành viên và đã trải qua nhiều lần cải tổ nhƣ tôi đã trình bày ở phần
trên. Đặc biệt trong đợt mở rộng lần này, cách biệt lớn về thu nhập bình quân
đầu ngƣời, cũng nhƣ trình độ phát triển, tỷ trọng của lĩnh vực nông nghiệp
19
nguon tai.lieu . vn