Xem mẫu

  1. Khóa Luận Tốt nghiệp “Đền Hùng trong đời sống kinh tế và tín ngưỡng của người dân xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ” 1
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 3 2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................... 5 3. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................. 8 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................. 8 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 8 6. Đóng góp của khóa luận............................................................................. 8 7. Bố cục của khóa luận.................................................................................. 8 NỘI DUNG.................................................................................................... 10 CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VÙNG VĂN HÓA PHÚ THỌ VÀ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG ...................................................................... 10 1.1. Phú Thọ vùng văn hóa đất Tổ............................................................... 10 1.1.1 Vị trí địa lí............................................................................................. 10 1.1.2 Phú Thọ- vùng đất định cư cổ.............................................................. 10 1.1.3 Phú Thọ- vùng đất văn hóa cổ ............................................................. 13 1.2. Xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ- trung tâm di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng ................................................................................... 15 1.3. Khu di tích lịch sử Đền Hùng................................................................ 17 1.3.1 Vị trí địa lý ............................................................................................ 18 1.3.2 Lịch sử hình thành của Đền Hùng ...................................................... 19 1.3.3 Quá trình trùng tu ................................................................................ 21 1.3.4 Các di tích kiến trúc thờ tự tại Đền Hùng ............................................ 22 Tiểu kết chương 1.......................................................................................... 30 CHƯƠNG 2: ĐỀN HÙNG TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ NGƯỜI DÂN XÃ HY CƯƠNG- VIỆT TRÌ- PHÚ THỌ.......................................................... 31 2. 1. Khái quát chung đời sống kinh tế của người dân xã Hy Cương. ....... 31 2.2 . Khảo sát bộ phận dân Hy Cương làm dịch vụ quanh Đền Hùng....... 33 2.2.1 Những người bán hàng quanh Đền Hùng ........................................... 34 2.2.2 Những người làm nghề chụp ảnh quanh Đền Hùng ........................... 38 2.3 Khảo sát bộ phận dân Hy Cương làm trong Ban quản lý Đền Hùng .. 40 Tiểu kết chương 2.......................................................................................... 43 CHƯƠNG 3:ĐỀN HÙNG TRONG ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI DÂN XÃ HY CƯƠNG- VIỆT TRÌ- PHÚ THỌ ......................................... 44 3.1 Các di tích xã Hy Cương ........................................................................ 44 3.1.1 Đình Cổ Tích (Đình Hy Cương)........................................................... 44 3.1.2 . Chùa Am Đường (chùa Tổ)................................................................ 46 3.2 Khảo sát .................................................................................................. 47 3.3 Nhận xét .................................................................................................. 60 3.3.1 Về việc đi lễ Đền Hùng ......................................................................... 60 3.3.2 Về hiểu biết các sự tích liên quan đến sự tích Đền Hùng .................... 62 3.3.3 Về việc tham gia lễ hội Đền Hùng........................................................ 68 Tiểu kết chương 3.......................................................................................... 71 2
  3. PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 75 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng là một di sản văn hóa mang tính bản sắc của dân tộc Việt. Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Từ bao đời nay, mỗi người dân Việt Nam luôn nhớ về ngày giỗ Tổ qua câu ca được truyền tụng: Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba Khắp nơi truyền mãi câu ca Nước non vẫn nước non mình ngàn năm Người Việt Nam may mắn có chung một đạo, Đạo thờ cúng Ông Bà. Người Việt Nam còn may mắn hơn nữa khi có chung một Tổ để hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân. Giỗ Tổ Hùng Vương - từ rất lâu đã trở thành ngày Giỗ trọng đại của cả dân tộc; đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đất Cội nguồn - xã Hy Cương – Việt Trì - Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn 3
  4. hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam. Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một gốc gác tổ tiên - một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc, nghĩa đồng bào và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam. Đền Hùng ngày càng có vai trò quan trọng và có tác động lớn đến đời sống người dân. Đời sống hiện đại, nhu cầu về tâm linh của người dân càng cao. Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên. Do vậy việc tìm hiểu tác động của Đền Hùng trong đời sống người dân sẽ giúp chúng ta định vị được di sản trong lòng con người và xã hội đương đại. Hy Cương là nơi gìn giữ tôn tạo và tiến hành các nghi lễ tín ngưỡng ở Đền Hùng từ hàng nghìn năm nay. Bởi từ trong quá khứ lịch sử Hy Cương đã được các triều đại phong kiến giao cho làm xã trưởng để trông nom Đền Hùng. Vùng đất này chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, nơi được coi là “đất thiêng” trong thời đại Hùng Vương. Vì vậy việc tìm hiểu vai trò của Đền Hùng với người dân trong xã là cần thiết đối với các nhà quản lý văn hóa và khả thi với một khóa luận tốt nghiệp. Đền Hùng ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của nhân dân. Mỗi vùng đất, mỗi một miền quê, đều lưu giữ những trầm tích văn hóa khác nhau. Ở mỗi địa phương lại có cách tưởng niệm, thờ cúng và lưu giữ truyền thuyết theo tập quán riêng của mình. Do đó tìm hiểu “Đền Hùng trong đời sống kinh tế và tín ngưỡng người dân Hy Cương, thành phố Việt 4
  5. Trì, tỉnh Phú Thọ” để thấy được nét đặc sắc của Đền Hùng và ảnh hưởng của Đền Hùng trong đời sống người dân Hy Cương. Đồng thời qua đó khẳng định giá trị văn hóa thiêng liêng của vùng đất Tổ. Tất cả những lý do trên từ phương diện lý luận và thực tiễn khiến chúng tôi hướng đến tìm hiểu đề tài “Đền Hùng trong đời sống kinh tế và tín ngưỡng của người dân xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ”. Hy vọng rằng khóa luận này sẽ cung cấp thêm thông tin về khu di tích lịch sử Đền Hùng và vị trí của nó trong lòng người dân xã Hy Cương. 2. Lịch sử nghiên cứu Đền Hùng là khu di tích lịch sử- văn hóa có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tâm linh của người dân Việt Nam. Vì vậy đã có rất nhiều tác giả có những công trình nghiên cứu về Đền Hùng. Những tác phẩm này bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau sẽ cung cấp cho chúng ta những tư liệu quý báu mà đề tài kế thừa và phát triển. Cuốn “Hùng Vương dựng nước”, tập 1, xuất bản năm 1970 gồm các bài báo cáo và tham luận về niên đại và quá trình diễn biến văn hóa thời kì Hùng Vương. “Hùng Vương dựng nước” tập 2, xuất bản năm1972 của nhiều tác giả nghiên cứu thời đại Hùng Vương từ niên đại, truyền thuyết và giá trị lịch sử của chúng đến trình độ văn minh và chế độ chính trị của buổi bình minh lịch sử nước ta. “Hùng Vương dựng nước” tập 3, xuất bản năm 1973 của các tác giả Phạm Huy Thông, Hoàng Hưng…gồm các hình thức viết về thời kỳ Vua Hùng dựng nước và thời An Dương Vương, những di tích lịch sử, con người cổ đại, đời sống vật chất và tinh thần, tổ chức xã hội thời Hùng Vương… 5
  6. “Hùng Vương dựng nước” tập 4, xuất bản năm 1974 của tác giả Nguyễn Khánh Toàn nghiên cứu thời Hùng Vương và thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc. Chứng minh thời kỳ Hùng Vương là có thật. Cuốn sách viết về đất nước, con người thời Hùng Vương: kinh tế, văn hóa, xã hội… Cuốn “Thời đại Hùng Vương: Lịch sử- kinh tế- chính trị- văn hóa- xã hội”, xuất bản năm 1973 của tác giả Văn Tâm. Cuốn sách cung cấp những thông tin về các mặt lịch sử, kinh tế… trong thời đại Hùng Vương. Cuốn sách “ Đền Hùng di tích và cảnh quan”, xuất bản năm 2000 của tác giả Phạm Bá Khiêm. Cuốn sách này sẽ cung cấp cho người đọc những hiểu biết về Đền Hùng, về thời đại Hùng Vương và cảnh quan vùng đất thiêng Nghĩa Lĩnh. Cuốn sách “Đền Hùng nơi hội tụ văn hóa tâm linh” do Lê Lựu chủ biên xuất bản năm 2005. Đây là một tập sách sưu tầm những bài nghiên cứu và viết về Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng do trung tâm văn hóa doanh nhân sưu tầm, biên soạn của nhiều tác giả. Tập sách thể hiện một tầm suy nghĩ sâu rộng về cội nguồn văn hóa dân tộc từ xa xưa đến hiện đại; phản ánh tâm thức của người Việt Nam dù sống ở trong nước hay ngoài nước đều luôn nhớ đến ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Các bài nghiên cứu thể hiện một tầm suy nghĩ nghiêm túc, khoa học nhằm cung cấp cho bạn đọc nhiều kiến thức về nguồn gốc phát sinh, nguồn gốc tâm linh của dân tộc Việt Nam trên vùng đất Tổ. Đồng thời các nhà nghiên cứu còn khẳng định Phú Thọ là cội nguồn, là cái nôi văn hóa vô tận và rực rỡ cho muôn đời. Những công trình đã nghiên cứu: Tác giả Vũ Kim Biên đã đưa ra cuốn sách viết về khu di tích lịch sử Đền Hùng : “Giới thiệu khu di tích lịch sử Đền Hùng”, xuất bản năm 2010. Cuốn sách này tác giả giới thiệu về các di tích lịch sử ở Đền Hùng, những truyền thuyết tiêu biểu, những di chỉ khảo 6
  7. cổ, thơ, các hoành phi câu đối về Đền Hùng. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những thông tin cơ bản nhất về khu di tích Đền Hùng. Cuốn “Đền Hùng di tích lịch sử văn hóa quốc gia” của tác giả Lê Tượng và Phạm Hoàng Oanh, xuất bản năm 2010. Tác phẩm này nhằm giới thiệu cho người đọc những hiểu biết sâu sắc và toàn diện về lịch sử, văn hóa, kiến trúc, tín ngưỡng và cách thờ tự ở Đền Hùng. Bên cạnh những tác phẩm đó còn có những báo cáo khoa học nghiên cứu về Đền Hùng như: Báo cáo của Phạm thị Ngọc Mai “Đền Hùng nơi hội tụ những giá trị văn hóa thời Hùng Vương” năm 2006,. Trong báo cáo này trình tìm hiểu về vị trí địa lý văn hóa của Đền Hùng, sau đó đi tìm hiểu những giá trị văn hóa thời Hùng Vương và ảnh hưởng của văn hóa Hùng Vương đến việc xây dựng con người ngày nay. Tuy nhiên bài báo cáo của tác giả còn đơn giản, viết chung chung. Chưa nêu bật được những giá trị văn hóa . Công trình dự thi sinh viên nghiên cứu khoa học cấp khoa: “Đền Hùng- lễ hội tiềm năng du lịch văn hóa cội nguồn” của Nguyễn Thị Bích và Vũ Chí Cường, năm 2007. Bài báo cáo của hai tác giả đã nêu ra được những tiềm năng du lịch tại Đền Hùng. Tuy nhiên, các tác giả chưa phân tích và đánh giá cụ thể những tiềm năng đó, chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể để khai thác tiềm năng du lịch. Những tác phẩm trên, hầu hết giới thiệu về Các di tích trên Đền Hùng, những thông tin về lịch sử, văn hóa, xã hội của thời kì Hùng Vương . Hoặc viết về tiềm năng du lịch của Đền Hùng. Thực tế thì chưa có tác phẩm nào nghiên cứu về sự ảnh hưởng của Đền Hùng đến đời sống của người dân tại nơi có Đền Hùng (xã Hy Cương) để thấy được mức độ hiểu biết và vị trí của Đền Hùng trong lòng người dân. Vì vậy rất cần những công trình nghiên cứu một cách thực tế sự ảnh hưởng đó. 7
  8. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu về lịch sử, giá trị văn hóa Đền Hùng Khảo sát để thấy được ảnh hưởng của Đền Hùng về mặt kinh tế và tín ngưỡng đối với người dân xã Hy Cương. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Đền Hùng Phạm vi: Trong bài nghiên cứu này chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu trong xã Hy Cương 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu văn bản Phương pháp điền dã Phương pháp điều tra xã hội học Phương pháp thống kê xã hội học 6. Đóng góp của khóa luận Đề tài được thực hiện sẽ có những đóng góp sau: Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách chuyên sâu về Đền Hùng trong mối quan hệ với đời sống kinh tế và tín ngưỡng của người dân Xã Hy Cương- việt Trì- Phú Thọ. Chỉ ra được sự ảnh hưởng của Đền Hùng trong đời sống của người dân Hy Cương và vị trí của Đền Hùng trong lòng người dân. Khẳng định giá trị văn hóa của Đền Hùng 7. Bố cục của khóa luận Chương1: Khái quát vùng văn hóa Phú Thọ Chương 2: Đền Hùng trong đời sống kinh tế của người dân xã Hy Cương- Việt Trì- Phú Thọ 8
  9. Chương 3: Đền Hùng trong đời sống tín ngưỡng của người dân Hy Cương- Việt Trì- Phú Thọ 9
  10. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VÙNG VĂN HÓA PHÚ THỌ VÀ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG 1.1 Phú Thọ vùng văn hóa đất Tổ 1.1.1 Vị trí địa lí Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái, phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Đông Nam giáp thành phố Hà Nội, phía Tây giáp tỉnh Sơn La, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình. Thành phố Việt Trì là trung tâm hành chính của tỉnh, cách thủ đô Hà Nội 80 km và sân bay quốc tế Nội Bài 50 km về phía Tây Bắc. Phú Thọ nằm ở đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng, nối các tỉnh Tây Bắc với Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ. Nơi đây là vùng hợp lưu của ba con sông: Thao, Đà, Lô (Chính vì thế mà đây được gọi là "ngã ba sông"), nằm giữa dãy Ba Vì- Tam Đảo và là trung tâm sinh tụ của người Việt cổ thời các Vua Hùng dựng nước. 1.1.2 Phú Thọ- vùng đất định cư cổ Phú Thọ là một trong những cái nôi của loài người. Thời tiền sử trên các bậc thềm phù sa cổ sông Hồng, sông Đà, sông Lô đã có các thị tộc. Dấu vết hóa thạch ở hang Ngựa (Thu Cúc- Thanh Sơn) và nhiều công cụ bằng đá thuộc nền văn hóa Sơn Vi đã khai quật tại hàng trăm địa điểm. Tiếp nối thời đại đồ đá là thời đại kim khí: có đồ đồng và đồ sắt. Đây cũng là thời kì xuất hiện nhiều nền văn minh và nhà nước đầu tiên, đồng thời cũng là thời kì mở đầu cho sự nghiệp dựng nước của dân tộc. Phú Thọ là một trong những nơi 10
  11. tiêu biểu của cả nước có quá trình phát triển văn hóa thời dựng nước, trong đó phải kể đến văn hóa Phùng Nguyên và Gò Mun. Với thời đại đồ đồng thau phát triển, thời kì nước Văn Lang dưới triều đại các Vua Hùng bắt đầu. Thời đại Hùng Vương chia làm hai thời kỳ: Thời kỳ bộ lạc khoảng từ thế kỷ thứ X trước công nguyên trở về trước ứng với văn hóa Đồng Đậu- Phùng Nguyên. Thời kỳ dựng nước Văn Lang khoảng từ thế kỷ X trước Công nguyên đến giữa thế kỷ III trước Công nguyên, ứng với văn hóa Gò Mun- Đông Sơn. Theo truyền thuyết và sử cũ, nước Văn Lang có 15 bộ lạc hợp thành gồm: Văn Lang, Giao Chỉ, Việt Thường, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Bình Văn, Kê Tử, Bắc Đái. Dân số Văn Lang khi đó khoảng một triệu người. Trong số các bộ lạc ấy, bộ lạc Văn Lang là hùng mạnh nhất. Lãnh thổ của bộ lạc này trải rộng từ chân núi Ba Vì đến sườn Tam Đảo, có sông Hồng cuồn cuộn phù sa chảy xuyên giữa. Thủ lĩnh bộ lạc Lạc Việt đóng vai trò lịch sử, là nguồn thống nhất các bộ lạc khác, dựng lên nhà nước Văn Lang. Ông xưng Vua sử gọi là Hùng Vương. Giúp việc bên cạnh Vua có các Lạc hầu, Lạc tướng là người cai quản một bộ (tức bộ lạc cũ). Dưới Lạc tướng là các Bồ chính đứng đầu các bản. Dân gọi là Lạc dân, nghề chính là cấy lúa nước kết hợp với chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, đánh đồ đá, đan nát, dệt vải, rèn sắt, đóng thuyền… Lúc này đã xuất hiện một bộ phận làm nghề buôn bán đổi chác. Có một tỉ lệ nhỏ nô tỳ (gọi là xảo xứng, thần bộ, nữ lệ…) phục vụ trong gia đình quý tộc. ở nước ta không thiết lập chế độ chiếm hữu nô lệ, đại đa số dân trong nước là dân tự do tức Lạc dân. Quan hệ giữa Vua Hùng và Lạc dân rất gần gũi,cùng cày ruộng, cùng săn bắn, cùng xem hội. Lương thực chủ yếu là gạo tẻ và các lương thực đồng quê. Quốc tục là bánh chưng, bánh dày. Nhà ở chủ yếu là nhà sàn. 11
  12. Tín ngưỡng thờ thần đất , thần sông, tổ tiên, linh hồn người qua đời và các vật thiêng khác có từ thời kỳ này. Cư dân thích trang trí nhà cửa , đồ dùng, thích đồ trang sức, yêu văn nghệ. Nhạc cụ có sáo, nhị, kèn, trống, chiêng, đàn bầu… Ca dao, tục ngữ và truyện kể đã xuất hiện. Lực lượng quân sự có quân thường trực và quân hương dũng (tân binh). Vũ khí có gậy, thước, lao, nỏ, rìu, dao găm, giáo. Triều Hùng Vương đóng đo ở thành Văn Lang (nay thuộc khu vực Việt Trì, Phong Châu). Tục truyền rằng: Cung điện nhà vua dựng ở Gò làng Cả, thôn Việt Trì Tháp Long là nơi các Lạc hầu ở Cẩm Đội (Thụy Vân) đặt ở trường huấn luyện quân sỹ Nông trang là nơi đặt kho thóc của nhà vua Chợ Lý là nơi mua bán gạo Đồng Lú (ló, lúa) Minh Nông là xứ đồng vua dạy dân cấy lúa nước Gò Tiên Cát là nơi dựng lầu kén chồng cho các công chúa Xứ đồng Hương Trầm là nơi Hoàng Tử Lang Liêu trồng nếp thơm làm bánh chưng, bánh dày. Lâu Thượng, Lâu Hạ là khu lầu vợ con vua ở Dưới thời Pháp thuộc, tỉnh Phú Thọ nguyên là tỉnh Hưng Hóa, sau tách dần đất để lập thêm các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái. Ngày 5/5/1903 tỉnh lỵ Hưng Hóa chuyển tới làng Phú Thọ cho gần đường xe lửa hơn. Do vậy tỉnh Hưng Hóa cũng đổi tên thành tỉnh Phú Thọ. Khi đó tỉnh Phú Thọ gồm hai phủ (Đoan Hùng và LâmThao) và tám huyện (Tam Nông, Thanh Thủy, Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Hạc Trì) và hai Châu (Thanh Sơn, Yên Lập). Trước Cách mạng tháng Tám cư dân rất thưa thớt nhất là các huyện miền núi. Nguyên nhân do điều kiện sinh sống còn khó khăn, dịch bệnh đã cướp đi nhiều sinh mệnh con người. Phần khác, Phú Thọ là căn cứ của nhiều 12
  13. cuộc khởi nghĩa nên thực dân Pháp mở nhiều cuộc hàng quân chống phá khiến nhân dân phải lưu tán. Do cư dân thưa thớt nên dưới thời phong kiến và thời Pháp thống trị, dân nghèo vùng đồng bằng lên đây khai khẩn lập nghiệp trở thành dân địa phương. Vì vậy đặc điểm cư dân Phú Thọ có sự hòa quyện, hòa nhập giữa nhân dân địa phương sống lâu đời và đồng bào các nơi khác đến xây dựng quê hương. 1.1.3 Phú Thọ- vùng đất văn hóa cổ Phú Thọ là nơi phát triển của nhiều nền văn hóa dân tộc rực rỡ và lâu đời. Những di chỉ khảo cổ văn hóa Sơn Vi, Đồng Đậu, làng Cả và nhiều đình chùa, lăng tẩm còn lại quanh vùng Nghĩa Lĩnh cho thấy đất Phong Châu là một trung tâm văn hóa của dân tộc. Bản sắc ấy gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước từ thời Hùng Vương với trên 200 di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, di tích Cách mạng… Phú Thọ cũng là đất của lễ hội với nhiều lễ hội tổ chức quanh năm như lễ hội Đền Hùng, hội đền Mẫu Âu Cơ, hội Chu Hóa, hội Phết Hiền Quang, hội đánh cá, hội mở cửa rừng… Từ nhiều đời nay, các thế hệ dân Việt luôn hướng đến một điểm tựa tâm linh. Điểm tựa đó trở thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chung của dân tộc: thờ tự Vua Hùng. Trải qua bao thăng trầm ngày nay các ngôi đền trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ là nơi tiến hành tín ngưỡng truyền thống độc đáo đó. Núi Hùng cao nhất trong các ngọn núi nơi đây, tạo nên vùng đất thiêng “Tam sơn cấm địa”. Lễ hội Đền Hùng và giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch. Thường thì sau tết Nguyên đán đồng bào hành hương về đây. Sự ra đời và tồn tại lâu đời của truyền thuyết Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng cùng tín ngưỡng giỗ tổ là sự khẳng định niềm tin cùng truyền thống dựng nước và giữ nước muôn đời của dân tộc ta. Đây là lễ hội mang tính chất văn hóa tâm linh lớn nhất. Con cháu trên khắp mọi miền tổ quốc 13
  14. trở về với lòng thành kính dâng lên tổ tiên lòng biết ơn công lao dựng nước của các Vua Hùng. Tín ngưỡng này xuất phát từ đạo lý và truyên thống của dân tộc: lòng yêu nước, kiên cường bất khuất luôn hướng về cội nguồn. Lễ hội Đền Hùng đã tái hiện lại một phần nào đó truyền thuyết về thời đại Hùng Vương, trở thành động lực tinh thần của dân tộc Việt nam. Theo tư liệu lịch sử thì năm 1943 cờ Đảng và cờ Tổ Quốc đã được treo trên gác chuông của chùa Thiên Quang (thuộc khu di tích lịch sử Đền Hùng). Ngày 19/9/1954, trước khi về tiếp quản Thủ Đô Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp gỡ, căn dặn chiến sỹ Đại đoàn quân tiên phong tại Đền Hùng: “ Các Vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” Lễ hội giỗ Tổ gồm hai phần: Lễ được tiến hành với nghi thức nghiêm trang tại Đền Thượng. Hội diễn ra quanh chân núi Hùng với nhiều hoạt động phong phú. Ở Minh Nông, thành phố Việt Trì có lễ hội xuống đồng. Đó là tên gọi vùng đất sáng lập nghề nông. Vùng đất này nằm dọc sông Thao, tiếp giáp hợp lưu 3 con sông: Sông Hồng, sông Lô, sông Đà vì thế Minh Nông là vùng đất bồi tụ phù sa màu mỡ và trở thành quê hương của nghề trồng lúa nước. Nơi đây có những cánh đồng rộng bên bãi bồi các con sông và có đồi Ba Búa, nơi cu trú của người Sơn Vi cách đây hơn 30.000 năm gần khu cư trú Làng Cả- văn hóa Đông Sơn. Các tài liệu khoa học cho biết: cách đây nhiều ngàn năm,văn minh lúa nước đã bắt đầu phát triển. Hội Bạch Hạc diễn ra từ ngày mùng 3 đến ngày mùng 5 tháng Giêng tại đền thờ Thổ Lệnh Đại Vương ở xã Bạch Hạc, thành phố Việt Trì. Ở Xã Chu Hóa, huyện Lâm Thao vào ngày mùng 5 tháng Giêng hàng năm tổ chức lễ hội Chu Hóa nhằm tưởng nhớ ba anh em Cả Đông, Nhị 14
  15. Đông, Tam Đông là các tướng giỏi của Vua Hùng thứ mười tám. Ở Thanh Sơn từ ngày mùng 6 đến ngày 10 rằm tháng Giêng có lễ hội mở cửa rừng. Ngoài ra còn nhiều các lễ hội khác như hội cầu tháng Giêng, hội hát Xoan, đâm đuống, hát trống quân… Đất Phú Thọ còn bảo lưu được nhiều nghi lễ cổ xưa của cư dân nông nghiệp như rước lúa thần, lễ gọi lúa, rước nông cụ, lễ cầu nước… Có thể nói Phú Thọ chính là đất ươm trồng văn hóa làng xã với các biểu hiện tập trung là lễ hội. Đến với Phú Thọ người ta có thể tìm thấy những lời giải đáp về quá khứ của nền văn hóa dân tộc đi từ cội nguồn. 1.2 Xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ- trung tâm di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng Hy Cương là một xã miền núi thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Ngược dòng lịch sử, tìm hiểu về sự thay đổi địa danh làng xã qua các thời kì thì Hy Cương thuộc những khu vực hành chính sau: Thời Hùng Vương vùng đất đai xã Hy Cương thuộc huyện Chu Diên, Bộ Văn Lang, đến thế kỉ thứ VI thuộc Phong Châu, Thừa Hóa quận gọi tắt là Phong Châu. Thời Trần (thế kỉ XIII- XIV) thuộc huyện Sơn Vi, châu Thao Giang, lộ Tam Giang Thời Lê (thế kỉ XV-XVIII) thuộc huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây. Dưới thời Nguyễn (thế kỉ XIX) trấn đổi thành tỉnh, do đó xã Hy Cương thuộc huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây. Năm 1891 huyện Sơn Vi nhập vào tỉnh Hưng Hóa. Vì vậy xã Hy Cương thuộc tỉnh Hưng Hóa. Năm 1903, tỉnh Hưng Hóa đổi tên thành tỉnh Phú Thọ, xã Hy Cương thuộc tổng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Năm 1919 giải thể huyện Sơn Vi gọi chung là phủ Lâm Thao Năm 1945, Hy Cương thuộc xã Hùng Sơn huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. 15
  16. Tháng 6/1946, xã đổi tên là xã Phong Châu, Hy Cương thuộc xã Phong Châu, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ Tháng 7/1954 đổi tên xã là xã Hy Cương thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Tháng 3/1968 hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ sáp nhập thành tỉnh Vĩnh Phú, xã Hy Cương thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Vĩnh Phú (xã Hy Cương có một thôn Cổ Tích). Năm 1978 theo quyết định của Hội đồng bộ trưởng, hai huyện Lâm Thao và Phù Ninh sáp nhập thành huyện Phong Châu, do đó xã Hy Cương thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1997 tỉnh Phú Thọ được tái thành lập, xã Hy Cương thuộc tỉnh Phú Thọ. Năm 1999, hai huyện Lâm Thao và Phù Ninh được tái thành lập, Hy Cương lại thuộc về Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Năm 2007, Hy Cương được sáp nhập vào thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Hiện nay, đơn vị hành chính xã Hy Cương được chia thành 8 khu được gọi tên theo số thứ tự từ khu 1 đến khu 8. Hy Cương tổng diện tích đất tự nhiên là 702,98 ha, dân số là 4600 người (2009) Hy Cương có khoảng 80% diện tích là đất đồi gò. Nơi đây nổi lên những ngọn núi như núi Nghĩa Lĩnh (còn gọi là núi Hùng) cao 175m, núi Vặn cao 170m, núi Nỏn cao 105m và núi Trọc cao 145m so với mặt biển. Từ xa xưa, 3 đỉnh núi Hùng, Trọc, Vặn làm thành 3 đỉnh “Tam Sơn cấm địa” được nhân dân thờ cúng và bảo vệ nghiêm ngặt. Núi Hùng cao nhất vùng, có đền thờ các Vua Hùng, núi Trọc có di tích hòn đá cối xay, núi Vặn có đền thờ Mẫu Âu Cơ mới xây dựng và hoàn thành năm 2004. 16
  17. Ngoài khu di tích lịch sử Đền Hùng thì Hy Cương còn đình Cổ Tích , thờ Vua Hùng và thần núi. Đây là một ngôi đình còn lưu giữ được cuốn ngọc phả từ thời Hồng Đức thứ nhất (1470). Hy Cương còn có chùa Am Đường thờ phật, một ngôi chùa đã ăn sâu trong đời sống tín ngưỡng của người dân. Hy Cương là mảnh đất chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa và tâm linh. Bởi đây là nơi mà từ xa xưa Các Vua Hùng đã chọn làm nơi đóng đô lập nên nước Văn Lang. Nơi đây còn ghi dấu những nét văn hóa tín ngưỡng từ thời Hùng Vương. Hệ thống các di tích trong khu di tích lịch sử Đền Hùng trên địa bàn xã đã chứng minh cho sự độc đáo của một vùng đất Tổ với nhiều tín ngưỡng từ thời xa xưa. 1.3 Khu di tích lịch sử Đền Hùng Người Việt Nam vốn có một đạo lý truyền thống sâu sa: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”. Các thế hệ tiếp nối sau luôn tôn kính và biết ơn các thế hệ tiền nhân, biết ơn tổ tiên, gia đình dòng họ. Từ truyền thống đạo lý đó đã phát triển thành một hình thức văn hóa tinh thần và tín ngưỡng dân tộc độc đáo, đó là tín ngưỡng thờ phụng Tổ tiên chung của cả dân tộc- Các Vua Hùng. Các ngôi đền thờ Hùng Vương trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, là cơ sở chủ yếu để thể hiện, biểu đạt loại hình và hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần và tín ngưỡng độc đáo, đặc sắc ấy. Lễ hội Đền Hùng và giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm được tổ chức vào mồng 10 tháng 3 âm lịch ở nơi đây. Đền Hùng và lễ giỗ Tổ Hùng Vương có cội dễ bắt đầu từ thời đại Hùng Vương. Thời đại Hùng Vương là buổi bình minh của lịch sử dân tộc. Chính thời đại Hùng Vương với những giá trị lịch sử văn hóa đã tạo nên về sau một Đền Hùng lịch sử ở chính giữa trung tâm dựng nước của các Vua Hùng. Sự xuất hiện và tồn tại của Đền 17
  18. Hùng và lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương là sự khẳng định niềm tin vào truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của lịch sử dân tộc ta. 1.3.1 Vị trí địa lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng nằm ở phía Tây Bắc thành phố Việt Trì. Tổng diện tích tự nhiên trên 1000 ha. Di tích lịch sử Đền Hùng nằm trên núi Hùng. Núi Hùng còn được gọi là núi Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Bảo Thiếu Lĩnh, núi Cả. Núi Hùng cao nhất vùng: 175m so với mặt nước biển, có cây cối bốn mùa xanh ngắt thâm u với 458 loài cây cỏ, xưa kia có nhiều loài sơn cầm dã thú. Các cụ già trong làng nói rằng núi Hùng giống như một chiếc đầu rồng hướng về Nam, mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc, núi Pheo. Núi Vặn cao xấp xỉ núi Hùng (170m), núi Trọc cao 145m nằm giữa núi Hùng và núi Vặn. Núi Hùng ngày nay thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Người xưa nói: Từ núi Hùng nhìn ra : Phía trước, ngã ba Việt Trì có hàng chục quả đồi thấp là đàn rùa bò từ ao nước lớn lên. Phía sau, mảnh đất làng Hy Sơn (Tiên Kiên) là hình một con phượng cặp thư Phía bên phải, quả đồi Khang Phụ(Chu Hóa) là hình một con hổ phục. Phía bên trái, quả đồi An Thái (Phượng Lâu) hình vị tướng quân bắn nỏ. Làng Cổ Tích bên chân núi, nằm trên lưng một con ngựa ghì cương. Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình là 99 con voi chầu về đất Tổ. Xa xa phía tây dòng sông Thao nước đỏ, phía đông dòng sông Lô nước xanh, như hai dải lụa màu viền làm ranh giói của cố đô xưa. Đặc biệt không khí trên núi rất thông thoáng, mát dịu và quanh năm tỏa hương thơm. 18
  19. Tương truyền Vua Hùng đi khắp trong nước, cuối cùng mới chọn được vùng đất sơn thủy hữu tình này làm đất đóng đô. 1.3.2 Lịch sử hình thành của Đền Hùng Trước khi Đền Hùng xuất hiện ở khu vực mà ngày nay là khu di tích lịch sử Đền Hùng, thì nơi đây cách ngày nay hàng ngàn năm, đã có một vị trí đặc biệt ở giữa- cả về mặt địa bàn lịch sử xã hội- vùng tụ cư và khởi nghiệp của cộng đồng cư dân và văn hóa trung tâm, đứng đầu một đất nước ở thời đại Hùng Vương- chính là khu vực về sau và bây giờ đang được gọi là “khu vực lịch sử văn hóa Văn Lang”, “Đất Tổ Hùng Vương”, “Khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng”. Đây không chỉ là cơ sở, mà còn là điều kiện môi trường và lịch sử quan trọng để đến độ và đến tầm, thì Đền Hùng và lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương sẽ xuất hiện ở chính nơi đây chứ không phải một nơi nào khác. Thời đại Hùng Vương, khu vực Đền Hùng từng giữ vị trí địa dân cư- địa văn hóa quan trọng bậc nhất, hàng đầu ở trung tâm của nước Văn Lang cổ xưa. Vào khoảng thế kỷ thứ III trước công nguyên, khi Thục Phán rời kinh đô về Cổ Loa, thì khu vực Đền Hùng không còn giữ vị trí quan trọng hàng đầu của đất nước. Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, khu dân khu vực Đền Hùng đã có những di cư và biến động. Tới tận thế kỷ thứ X, khi đất nước giành được độc lập, sự cố gắng phục hưng đất nước, phục hưng văn hóa dân tộc của các vương triều Lý- Trần, đã đưa đất nước bước vào thời kỳ mới của lịch sử- thời phục hưng của văn hóa Thăng Long. Thời Lý- Trần là thời kì lịch sử mà hầu như tất cả các công trình nghiên cứu đều nhận định là một thời kỳ thịnh vượng của Phật giáo và văn hóa phật giáo. Từ cuối thiên kỷ I trước công nguyên, vừa ra khỏi đêm trường Bắc thuộc, thế kỷ X sau công nguyên đã là thế kỷ của phật giáo. Tiếp đến thế kỷ XI-XIV, triều đại Lý- Trần làm nhiệm vụ quản lý đất nước ở thời kì này cũng là một triều đại sùng phật. Phật giáo thời Lý- Trần góp phần làm 19
  20. nên sự phục hưng của đất nước trong nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội… trong số này có sự mở mang thêm và mở mang lại những miền xa trung tâm của đất nước. Với những biện pháp tích cực của sự mở mang đó, thường thấy phổ quát là việc làm gắn bó và đồng bộ: Lập làng và xây chùa. Lập làng là để mở mang đất nước, và xây chùa là để mở mang và cố kết cộng đồng làng. Làng Cả là điểm tụ cư duy nhất sát gần ngọn núi thiêng cổ truyền: Núi Cả, theo đứng mô hình của sự mở mang, cũng như quy luật của cuộc sống (lối sống) đương thời, làng Cả xây chùa làng, “Đất vua chùa làng”. Địa điểm để xây dựng loại hình tôn giáo tín ngưỡng này không phải đâu xa, vì núi Cả ngự ngay trên đầu làng Cả. Cư dân làng Cả là những người xây dựng các kiến trúc sớm nhất trên núi Hùng- kiến trúc chùa, tháp- của tín ngưỡng phật giáo. Làng Cả sang thế kỷ XV, dân cư phát triển dần dần về phía Đông vào sát chân núi Hùng, có tên mới là làng Cổ Tích. Càng về sau cư dân càng phát triển nhanh, địa bàn cư dân mở rộng sang phía Tây, hình thành thêm làng mới là làng Trẹo, làng Vi, làng Trẹo thuộc Hy Cương, làng Vi thuộc Chu Hóa do sự phân chia hành chính về sau. Một bộ phận dân cư nữa ra ở làng Tiên Kiên. Lúc đầu làng Cả vẫn dựng đình ở làng để thờ Hùng Vương. Thế kỷ XV, di đình ra khu giếng Mánh (Điếm Mánh), đình mới có tên là đình Cổ Tích (đình Hy Cương), xây dựng lại ngôi chùa trên núi Hùng, đổi tên chùa “Viễn sơn cổ tự” thành chùa “Thiên Quang Thiền Tự”. Các làng mới lập là làng Trẹo, làng Vi cũng dựng đình làng trên đất làng, lập đền thờ Hùng Vương trên núi Cả (núi Hùng). Những người dân làng Cả đã tạo nên một “Cổ Tích ” trên đất đai của mình và tạo ra trên đỉnh cao thiêng liêng một ngọn núi Cả, một công trình xây dựng để đồng nhất với thờ Trời, thờ Núi với việc thờ tổ tiên- Vua Hùng, mà “Kính Thiên Lĩnh Điện” là tên gọi được mỹ tự hóa. Từ thời điểm này núi Cả có tên là núi Hùng (tên chữ là Nghĩa 20
nguon tai.lieu . vn