Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- ----------------------- NGUYỄN THỊ THU TRANG LÊ THỊ DIỆU NGỌC HIỆN TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL DƢỚI GÓC NHÌN CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA N.MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM QUÂN VƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Khóa học: QH 2016 - X NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH 2016 – X HÀ NỘI -– 2020 HÀ NỘI 2020 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- NGUYỄN THỊ THU TRANG HIỆN TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL DƢỚI GÓC NHÌN CỦA TRẦN ĐỨC THẢO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH 2016 - X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.s Trần Minh Hiếu HÀ NỘI - 2020 2
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................5 CHƢƠNG 1. HIỆN TƢỢNG HỌC HUSSERL ..................................................11 1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Edmund Husserl ............................................11 1.1.1 Tiểu sử.......................................................................................................11 1.1.2. Giai đoạn duy tâm lý ...............................................................................12 1.1.3. Giai đoạn phản duy tâm lý ......................................................................14 1.1.4. Giai đoạn Hiện tượng học .......................................................................15 1.2. Hiện tƣợng học Husserl ...............................................................................18 1.2.1. Bối cảnh hình thành Hiện tượng học Husserl .........................................18 1.2.2. Tiền đề tư tưởng của Hiện tượng học Husserl ........................................21 1.2.3. Một số nội dung cơ bản của Hiện tượng học Husserl .............................25 1.3. Một số ý nghĩa và ảnh hƣởng của Hiện tƣợng học Husserl đối với triết học phƣơng Tây hiện đại ....................................................................................38 CHƢƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN ĐỨC THẢO ĐỐI VỚI HIỆN TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL .................................................................42 2.1. Đôi nét về Trần Đức Thảo và những hƣớng nghiên cứu của ông. ..........42 2.2. Lập trƣờng nhìn nhận Hiện tƣợng học Husserl của Trần Đức Thảo.....44 2.2.1. Chủ nghĩa duy vật ở Trần Đức Thảo .......................................................44 2.2.2. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Bản chất” trong Hiện tượng học Husserl ...............................................................................................................47 3
  4. 2.2.3. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Tính ý hướng” trong Hiện tượng học Husserl ...............................................................................................................49 2.2.4. Quan điểm của Trần Đức Thảo về phương pháp quy giản Hiện tượng học ......................................................................................................................54 2.3. Sự “vƣợt bỏ” của Trần Đức Thảo với Hiện tƣợng học Husserl ..............55 2.3.1. Quan điểm của Trần Đức Thảo về nguồn gốc và bản chất của ý thức ...55 2.3.2. Vấn đề con người và cuộc cách mạng ở Việt Nam ..................................61 KẾT LUẬN .............................................................................................................68 4
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhận thức luận - lý luận về bản chất, quá trình hình thành, phát triển của nhận thức cũng như khả năng phản ánh thế giới của con người – vốn là một trong những nội dung cơ bản của triết học. Trong nhiều vấn đề đặt ra, việc nhận thức vận động như thế nào để đạt tới chân lý luôn là một đề tài thu hút sự chú ý và gây tranh cãi. Nguyên nhân là vì, thứ nhất, ngay trong những nguyên lý mang tính nền tảng của nhận thức vốn chứa đựng mâu thuẫn biện chứng nội tại, thứ hai, mỗi quan niệm, dù đặc sắc đến thế nào, chỉ có giá trị khi giúp con người giải quyết được những vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra. Thật vậy, trong khi chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức là sự phức hợp những cảm giác của con người thì chủ nghĩa duy tâm khách quan lại coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” hay là sự vận động của “Ý niệm tuyệt đối” trong sự “chiêm ngưỡng” lại chính mình (Hegel). Trong khi những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức thì chủ nghĩa duy vật lại thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người… Trong dòng chảy sôi động của lịch sử tư tưởng về nhận thức đó, Hiện tượng học Husserl xuất hiện, một mặt là những suy tư nhằm giải quyết phần nào “nan đề” của nhận thức, mặt khác, quan trọng hơn nhằm “đối mặt” với cuộc khủng hoảng của xã hội Đức cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Với quan niệm về “Bản chất”, “Tính ý hướng”, “Thế giới sống”…, Hiện tượng học Husserl đề xuất cách tiếp cận mới, với phương pháp nhận thức đặc thù, giúp con người soi rọi sâu hơn vào thế 5
  6. giới tinh thần, từ đó góp phần lý giải những vấn đề của xã hội đương thời, tạo nền tảng cho triết học phương Tây hiện đại. Trần Đức Thảo – một nhà nghiên cứu triết học Việt Nam - trong khi tìm thấy những giá trị cốt lõi, khoa học trong Hiện tượng học của Hurrserl cũng nhận ra một số hạn chế của nó, đặc biệt khi vận dụng vào việc lý giải, tìm đường cho hiện thực Việt Nam những năm 1952. Trần Đức Thảo đã có một sự chuyển mình âm thầm, đầy nội lực bằng sự kết hợp giữa Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng không phải theo kiểu “trung dung”, “hài hoà” mà bằng những trăn trở phản tư đau đáu, bằng sự dấn thân mạnh mẽ vào thực tiễn với sự trở về, góp sức trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cho chúng ta nhận ra một cốt cách, một sự “sống trải” đáng kính. Đó là lý do chúng tôi lựa chọn đề tài “Hiện tượng học Edmund Husserl dưới góc nhìn của Trần Đức Thảo”. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu * Các công trình nghiên cứu về Hiện tượng học E. Husserl: Hiện tượng học là học thuyết ra đời những năm đầu thế kỷ XX, tuy nhiên việc tiếp cận nó ở Việt Nam và thể hiện những nghiên cứu thông qua các công trình, tài liệu chuyên khảo vẫn còn khá ít. Công trình đầu tiên cần phải kể đến chính là tác phẩm “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” của giáo sư Trần Đức Thảo, xuất bản lần đầu tiên tại Paris năm 1951, được dịch và xuất bản sang tiếng Việt năm 2004. Tác phẩm là những tiếp thu Hiện tượng học Husserl của Trần Đức Thảo với tư duy phê phán độc đáo. Ở đó, tác giả đã cố gắng tìm kiếm điểm gặp nhau, bổ sung cho nhau của hai học thuyết Hiện tượng học và biện chứng nói riêng, chủ nghĩa Marx nói chung. Mặc dù đánh giá cao những thành tựu của Hiện tượng học, ông vẫn chỉ ra những mâu thuẫn mà nó chưa thể giải quyết. Theo ông, Hiện tượng học chưa thể giúp con 6
  7. người có được sự hiểu biết chính xác về thế giới hiện thực, đặc biệt là phương hướng giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, bởi sự thiếu hụt tính chất “thực tiễn” và “thực hành” trong nó. Do đó, chủ nghĩa Marx sẽ là sự bổ sung cần thiết cho những khoảng trống này. Đúng như lời nhận xét của Phan Ngọc: “Trần Đức Thảo đến với chủ nghĩa duy vật sau khi trèo lên cái đỉnh cao nhất của chủ nghĩa duy tâm thời đại này là Hiện tượng học, rồi lật ngược lại nó” [14, tr.17]. Công trình chuyên khảo đáng chú ý thứ hai là “Edmund Husserl” của tác giả Diêu Trị Hoa người Trung Quốc, được dịch và xuất bản sang tiếng Việt vào 2006 thuộc dự án “Tủ sách triết học Đông Tây”. Trong tác phẩm này, tác giả Diêu Trị Hoa đã đem đến cho độc giả một cách nhìn căn bản về Hiện tượng học Husserl. Theo Diêu Trị Hoa, lộ trình gần 40 năm hoạt động nghiên cứu của Husserl gắn liền với quá trình đi từ chủ nghĩa tự nhiên đến Hiện tượng học, từ tâm lý học mô tả đến Hiện tượng học tiên nghiệm và dừng lại ở thế giới đời sống. Điều cơ bản nhất của Hiện tượng học là một hệ thống khoa học chặt chẽ với lập trường triệt để. Sự phong phú và đa dạng về các công trình nghiên cứu về Hiện tượng học Husserl đã đem lại một bức tranh mới hơn về một trào lưu triết học lớn. Tài liệu chuyên khảo đáng chú ý tiếp theo là “Hiện tượng học Husserl” của nhóm tác giả Nguyễn Chí Hiếu, Đỗ Minh Hợp, Phạm Quỳnh Trang xuất bản năm 2008. Là một công trình nghiên cứu công phu, cuốn sách gồm 3 chương, trong đó chương 2 khái quát toàn bộ nội dung Hiện tượng học với các khái niệm cơ bản “Tính ý hướng”, “Ý thức tuyệt đối”, “Dòng ý thức”, “Hiện tượng”, và “Thế giới sống”. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống các khái niệm này giúp cho người đọc có một cái nhìn khá toàn diện, có chiều sâu về một học thuyết làm nền tảng cho các trào lưu triết học cũng như nền văn hoá phương Tây hiện đại. * Các công trình nghiên cứu về Trần Đức Thảo và góc nhìn của ông đối với Hiện tượng học Husserl: 7
  8. Không chỉ là một nhà nghiên cứu về Hiện tượng học Husserl, Trần Đức Thảo còn là một triết gia. Bởi thế, những tác phẩm cũng như tư tưởng của ông trở thành một đối tượng nghiên cứu đầy sức hút, và hơn thế, cực kỳ quan cũngtrọng, cần thiết đối với những người nghiên cứu khác, ở cả Việt Nam và trên thế giới. Trước tiên cần kể đến một số bài báo mang tính học thuật cao. Đó là bài viết “Trần Đức Thảo với Hiện tượng học Husserl” của Nguyễn Anh Tuấn (in trong sách “Những vấn đề phương Tây thế kỷ XX”, 2007), đã nêu lên cách thức mà Trần Đức Thảo thoát khỏi mâu thuẫn và bế tắc trong việc luận giải về ý thức mà Hiện tượng học Husserl đã mắc phải [xem 33]. Bài viết “Hiện tượng học và Hiện tượng học của Trần Đức Thảo” của Ngô Hương Giang đưa ra nhận định, Trần Đức Thảo đã mở ra một dòng “Hiện tượng” riêng tạm gọi là Hiện tượng học duy vật [xem 7]. Hội thảo khoa học “Trần Đức Thảo - cuộc đời và di sản” được tổ chức tháng 11/2007, tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Trần Đức Thảo tập hợp các bài viết quan tâm đến Hiện tượng học Husserl cũng như các quan điểm kiến giải, phát triển, phê phán của Trần Đức Thảo đối với Hiện tượng học Husserl. Hội thảo khoa học quốc tế “Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo” được tổ chức vào năm 2013, tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của giáo sư Trần Đức Thảo. Một số bài viết được lựa chọn tại hội thảo này đã được in trong tập sách cùng tên vào năm 2015, cũng tập trung chủ yếu vào chủ đề Hiện tượng học và Hiện tượng học của Trần Đức Thảo. Qua tổng quan tài liệu chúng tôi nhận thấy vấn đề Hiện tượng học Husserl và quan điểm của Trần Đức Thảo đối với Hiện tượng học Husserl đã thu hút sự quan tâm của đông đảo học giả và người nghiên cứu. Dù vậy, theo cảm nhận, dường như những khái niệm căn bản như “Hiện tượng”, “Ý thức sống trải”, “Bản 8
  9. chất”, “Thế giới sống”… vẫn là những “ẩn số” chưa được khai thác hết. Một học thuyết là kết tinh cả cuộc đời của một triết gia lớn, một học thuyết làm nền tảng cho không chỉ triết học mà còn cả nền văn hoá phương Tây hiện đại chắc chắn sẽ còn nhiều điều thú vị, hấp dẫn, truyền cảm hứng cho người nghiên cứu, nhất là đối với trình độ một sinh viên đang bước đầu tìm hiểu như chúng tôi. Mặt khác, là người thế hệ sau, có điều kiện để cùng đặt lên bàn không chỉ Hiện tượng học Husserl mà còn cả sự phê phán Hiện tượng học từ một triết gia Việt Nam như Trần Đức Thảo, chúng tôi không những được hiểu rõ hơn các nội dung của Hiện tượng học mà còn hiểu được thế nào là một sự phê phán triết học. Đó là sự phê phán không phải chỉ để phê phán mà còn để tự “vượt bỏ” chính mình. Trong khuôn khổ của một khoá luận sinh viên, chúng tôi mong muốn nghiên cứu phần nào các nội dung trên, qua đó làm rõ những đặc sắc trong tư tưởng của triết gia Trần Đức Thảo khi “đọc” Hiện tượng học Husserl. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Phân tích, làm rõ một số nội dung cơ bản của Hiện tượng học Husserl, đồng thời phân tích, làm rõ góc nhìn của Trần Đức Thảo về Hiện tượng học Husserl cũng như sự “vượt bỏ” của ông về vấn đề Hiện tượng học. Nhiệm vụ: Phân tích điều kiện kinh tế, xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời quan niệm của Hiện tượng học Husserl Phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về Hiện tượng học Husserl. Phân tích và làm rõ góc nhìn của Trần Đức Thảo về Hiện tượng học Husserl. Đưa ra những đánh giá về sự lĩnh hội, vượt bỏ trong nghiên cứu của Trần Đức Thảo. 9
  10. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Những khái niệm cơ bản của Hiện tượng học Husserl và quan điểm của Trần Đức Thảo về Hiện tượng học Husserl. Phạm vi nghiên cứu: Một số tác phẩm như “Ý niệm Hiện tượng học” của Edmund Husserl; “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, “Tìm cội nguồn ngôn ngữ, ý thức”, “Sự hình thành con người” của Trần Đức Thảo. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm Marx – Lenin về lịch sử tư tưởng và lịch sử triết học. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, thống nhất lịch sử - logic, khái quát hóa, trừu tượng hóa,… 6. Ý nghĩa của khoá luận Ý nghĩa lý luận: Khóa luận góp phần vào việc hiểu rõ hơn Hiện tượng học Husserl và cách nhìn của Trần Đức Thảo đối với Hiện tượng học, qua đó cho thấy giá trị tư tưởng của Trần Đức Thảo đối với hệ thống triết học Việt Nam và thế giới. Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề Hiện tượng học và tư tưởng Trần Đức Thảo. 7. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương và 5 tiết. 10
  11. CHƢƠNG 1. HIỆN TƢỢNG HỌC HUSSERL 1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Edmund Husserl 1.1.1 Tiểu sử Edmund Husserl (1859 - 1938) là người sáng lập ra trường phái “Hiện tượng” luận của thế kỷ XX. Ông sinh tại Prossnitz miền Movarie, lúc ấy đang thuộc đế quốc Áo - Hung. Tốt nghiệp phổ thông tại Áo, Husserl sau đó lần lượt học đại học từ năm 1876 ở đại học Leipzing, Berlin và Viên. Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XIX, ông chịu ảnh hưởng các nhà tư tưởng theo chủ nghĩa Kant mới như F. A. Lange, H. L. F. Heimholtz, những người ủng hộ chủ nghĩa tâm lý thịnh hành khi đó. Nhưng người có tầm ảnh hưởng lớn đến con đường chuyển từ toán học sang triết học của ông là nhà tâm lý học, triết học người Áo F. Brentano (1838 -1917). Vào năm 1886, Husserl bảo vệ luận án tiến sĩ triết học với đề tài “Các vấn đề triết học của số học”. Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ vào năm 1887, Husserl trở thành phó giáo sư đại học tổng hợp Halle. Từ năm 1901 đến năm 1916, ông giảng dạy tại Goettingen và trở thành giáo sư vào năm 1906. Trong thời gian này tư tưởng Husserl đã có bước chuyển to lớn. Ông phê phán gay gắt việc nghiên cứu toán học, số học - một môn khoa học khách quan - dựa trên các lý thuyết của tâm lý học. Ông cho rằng toán học, logic học là khoa học độc lập, thuần tuý không phụ thuộc vào bất kỳ nội dung tâm lý nào, và xác định đây là khoa học làm nền tảng cho các môn khoa học thực chứng khác. Đối với Husserl, logic học thuần tuý không gì khác là học thuyết nghiên cứu “nhận thức”. Ông đặc biệt quan tâm tới những khái niệm “hiện tượng”, “hiện tượng học”, “thời gian”, “ý thức” cũng như học thuyết về phép quy giản Hiện tượng học. Khi Hitle lên cầm quyền, luật phân biệt chủng tộc đối với viên chức nhà nước có hiệu lực vào tháng 4/1933 và Husserl bị loại khỏi hàng ngũ giáo sư do 11
  12. nguồn gốc Do Thái của mình, thậm chí ông còn không được phép đến trường đại học và thư viện. Nếu trước đây, ông ít quan tâm tới triết học xã hội thì giờ đây, nhãn quan của ông hướng vào những vấn đề thời sự bức thiết của xã hội và sự phát triển của lịch sử nhân loại. Husserl mất ngày 27 tháng 4 năm 1938. Cả cuộc đời mình, Husserl đã suy tư, nghiên cứu, lao vào biển cả triết học đầy rẫy những khó khăn, thử thách. Quá trình tư duy của Husserl là sự chuyển biến từ chủ nghĩa tâm lý đến Hiện tượng học, từ Hiện tượng học mô tả đến Hiện tượng học siêu nghiệm, từ chủ thể tiên nghiệm đến “Thế giới sống”. Tương ứng với 3 giai đoạn: sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ là giai đoạn duy tâm lý, giai đoạn phản duy tâm lý, giai đoạn Hiện tượng học - Hiện tượng học siêu nghiệm trong tư tưởng của ông. 1.1.2. Giai đoạn duy tâm lý Husserl sinh ra và lớn lên vào những năm cuối của thế kỷ XIX, những năm này diễn ra nhiều xung đột giữa các luồng tư tưởng ở châu Âu. Trong thời gian này, các ngành khoa học tự nhiên có nhiều bước phát triển vượt bậc, khẳng định vị trí thống trị. Các bộ môn thuộc ngành khoa học xã hội - nhân văn chủ yếu vận dụng các phương pháp của ngành khoa học tự nhiên vào những nghiên cứu của mình. Để chống lại sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các phương pháp khoa học tự nhiên vào các nghiên cứu, nhiều nhà khoa học xã hội - nhân văn đã đề xuất thiết lập môn “khoa học tinh thần”. Vấn đề đặt ra khi đó là đối tượng thực sự của khoa học tự nhiên và “khoa học tinh thần” là gì? Không gì khác trước hết đó là vấn đề logic học và tiếp sau đó là mối liên hệ của các cấu trúc tư duy và hiện thực. Hai vấn đề cơ bản khi đó được đặt ra: thứ nhất, các cấu trúc logic có đưa được về các cấu trúc tâm lý hay không?; thứ hai, các thao tác logic có phải là các mô hình về quá trình tư duy hiện thực hay không? Khi trả lời hai vấn đề trên, hầu hết các nhà theo chủ nghĩa tâm lý đều khẳng định tính chất mô tả của logic học đối với quá trình tư duy. Chủ nghĩa tâm lý cổ điển thế kỷ XIX (J. Mill) cho rằng, thứ 12
  13. nhất, logic học được quy về tâm lý học tức là các khái niệm logic có thể được suy ra từ các khái niệm tâm lý học, đồng thời các các quy luật logic học cũng có thể được tách từ các quy luật của tâm lý học. Thứ hai, logic học là mô hình về quá trình tư duy vì bản thân nó cũng là một bộ phận cấu thành nên quá trình ấy. Một số quan điểm khác thì không đồng tình, phủ định vấn đề thứ nhất nhưng vẫn nhất trí sự đồng nhất của cấu trúc logic và cấu trúc tâm lý theo một con đường kinh nghiệm xác định nào đó. Lập trường nghiên cứu giai đoạn sơ kỳ của Husserl chịu ảnh hưởng bởi thời đại và trực tiếp chịu ảnh hưởng từ nhà tâm lý học Brentano. Trong tác phẩm “Tâm lý học xét từ góc độ kinh nghiệm” (1874), Brentano đã xác định đối tượng của tâm lý học là những yếu tố ý thức của con người và phương thức liên kết chúng cũng như các tiền đề và các điều kiện làm xuất hiện những yếu tố ấy. Đối với Brentano thì không gì có thể thay thế được tâm lý học trong việc nhận thức chân lý khoa học, nó đem đến cho nhà nghiên cứu nhận thức chân thực và chính xác về ý thức con người. Brentano lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Tính ý hướng” (intentio). Đây là khái niệm quan trọng, mấu chốt đối với hệ thống triết học phương Tây hiện đại sau này, mà người đang chịu ảnh hưởng trực tiếp là Husserl. “Tính ý hướng” luôn giả định phải có một cặp tương liên, một là hành vi ý hướng, hai là cái mà hành vi ý hướng vào, trong đó chỉ hành vi ý hướng là thực tồn. Sau này, Husserl sử dụng hai khái niệm noesis và noema để chỉ mối tương liên này. Sự ra đời của khái niệm “Tính ý hướng’ đã giải quyết những mâu thuẫn trong việc xác định đối tượng, cung cấp một nhãn quan mới mẻ hướng tới đối tượng và cũng mở lối cho sự phát triển đường hướng triết học phi duy lý sau này. Husserl xây dựng các kết luận dựa trên cơ sở phân tích logic toán thời bấy giờ dựa trên sự đồng tình với Brentano về lý giải phénomène tâm lý trong tâm lý học mô tả. Phénomène tâm lý là các “Bản chất” không đòi hỏi phải viện dẫn các 13
  14. khách thể bên ngoài mà chỉ đòi hỏi được trải nghiệm từ bên trong. Một giai đoạn mà người ta lý giải logic học trên tinh thần tâm lý học là vì thế. Husserl đã viết tác phẩm “Các vấn đề triết học số học” với mong muốn lý giải các khái niệm số học, các nguyên tắc, các nguyên lý số học dựa trên các kiến giải tâm lý học. Giai đoạn này diễn ra trong thời gian không lâu. Sau này, Husserl gọi tác phẩm “Các vấn đề triết học số học” là “vô tội nhưng ấu trĩ” vì đã tiếp cận nhiều vấn đề mà không hiểu rõ vấn đề. Đây là giai đoạn đánh dấu sự phê phán và tự phê phán trong suốt cuộc đời ông. 1.1.3. Giai đoạn phản duy tâm lý Đối lập với chủ nghĩa tâm lý là chủ nghĩa phản tâm lý, coi logic học là một môn khoa học độc lập với tập lý học với mục đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng. Trước hai vấn đề1 nêu trên của thời đại, các nhà theo chủ nghĩa phản tâm lý cổ điển (Frege, Husserl) đã trả lời như sau. Thứ nhất, không thể quy logic học về tâm lý học, bởi lẽ không thể rút ra được các khái niệm logic học từ các khái niệm tâm lý học, không thể tách các định đề logic từ các định đề tâm lý học, không thể viện dẫn các sự kiện tâm lý để luận chứng cho các nguyên tắc logic học. Thứ hai, logic hoàn toàn không thể là mô hình về tư duy, vì các kết quả và phương pháp của logic không đem lại bất kỳ thông tin nào về tư duy tự nhiên của con người. Trong khi đồng tình với lý giải của Brentano về quan hệ ý hướng là cái thuần túy mô tả, là đặc thù nội tại của các trải nghiệm xác định, là tính quy định về bản chất của các hiện tượng tâm lý hay hành vi tâm lý [xem 9, tr.165], Husserl lại phê phán ông khi cho rằng có sự tách biệt giữa hành vi ý hướng và đối tượng ý hướng, bởi Brentano luôn hướng tới triết học đạt tới sự đồng nhất chủ khách thể. Ông hiểu ý hướng là hành vi quy định đối tượng nhờ phương pháp biểu tượng, tưởng tượng, khát vọng,… “Không ai có thể suy luận, hy vọng hay sợ hãi nếu 1 Trong bài viết, tr. 4. 14
  15. người ấy không biểu tượng một cái gì” [9, tr.166]. Trên thực tế có những khái niệm không hề có ngoại diên, nhưng vẫn có nội hàm xác định. Theo cách lý giải của Husserl, ngay cả khi đối tượng không tồn tại trên thực tế thì cũng hoàn toàn không ảnh hưởng tới tính thực tại của đối tượng ấy. Trong tác phẩm “Những nghiên cứu logic” tập 1 Husserl đã kịch liệt phê phám chủ nghĩa tâm lý. Bác bỏ các luận đề của chủ nghĩa tâm lý về sự phụ thuộc của logic học vào tâm lý học, ông cho rằng đây là chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa hoài nghi. Husserl bày tỏ mong muốn xây dựng logic thuần túy trở thành khoa học về những “Bản chất” tuyệt đối, không phụ thuộc vào chủ thể. Bước ngoặt tư tưởng Husserl chuyển từ chủ nghĩa logic tuyệt đối của khoa học sang Hiện tượng học khi ông viết tập thứ 2 của “Những nghiên cứu logic”. Chính Hiện tượng học đã in đậm dấu ấn Husserl trong sự phát triển của triết học thế giới. 1.1.4. Giai đoạn Hiện tượng học Xuất phát từ quan niệm Hiện tượng học như khoa học về ý thức thuần túy, như dòng chảy của những “Hiện tượng” (phénomène) với tư cách sản phẩm của hoạt động kiến tạo ý thức thuần túy, Husserl đã mang một hơi thở hoàn toàn mới thổi vào khái niệm “Hiện tượng”. Cho đến trước quan niệm của Husserl, khái niệm “Hiện tượng” đã được bàn trong lịch sử triết học. Những tranh luận xoay quanh các câu hỏi như sau: “Hiện tượng” là những tồn tại khách quan hay là những thứ được mang lại trong cảm giác”? “Hiện tượng” tách rời hay đồng nhất với “Bản chất”? Các nhà triết học thời kỳ Hy Lạp cổ đại chia thành hai trường phái khi đưa ra quan điểm về “Hiện tượng”. Trường phái thứ nhất cho rằng “Hiện tượng” là 15
  16. những gì khách quan, xuất hiện trước giác quan. Trường phái thứ hai cho rằng thế giới các sự vật cảm tính (thế giới hiện thực) chính là “Hiện tượng” với tư cách là cái bóng của thế giới ý niệm. Bản chất thật sự thuộc về thế giới ý niệm, không thuộc về thế giới “Hiện tượng”. Ở đây, bắt đầu có sự tách rời giữa “Hiện tượng” và “Bản chất”. Triết học Cận đại, Berkeley, Hume và sau này là triết học cổ điển Đức, cho rằng “Hiện tượng” không còn phản ánh ý niệm đáng tin cậy nữa. Họ đưa ra các khái niệm khác có quan hệ gần gũi với khái niệm “Hiện tượng”, biểu hiện các mức độ đáng tin cậy, hiện ra khác nhau của tồn tại (cảm tưởng, vẻ bề ngoài,…) như là cái đứng giữa ảo tưởng và chân lý. Kant cho rằng “Hiện tượng” không gì khác chính là hiện thực hoạt động sống của con người, và năng lực nhận thức của con người là có giới hạn. Hegel dành cả cuộc đời để nghiên cứu, biện giải cho tinh thần tuyệt đối. Ông coi “Hiện tượng” là thế giới hiện thực bao gồm cả con người, là sự phản ánh “Tinh thần tuyệt đối”. Nhưng trong khi “Tinh thần tuyệt đối” vận động biện chứng, thì thế giới “Hiện tượng” lại chết cứng, không vận động. Trong triết học, việc sử dụng từ hiện tượng là để nói đến một sự kiện có thể nhận biết được. Có thể nhận biết qua giác quan hoặc trong tâm trí. Thuật ngữ này bắt đầu được sử dụng trong triết học bởi triết gia người Kant, khái niệm “Hiện tượng” đã được Kant sử dụng “vật tự nó” - Ding an sich hoặc "vật tự vật" - thing-in-itself) hoặc Tuyệt đối. Kant bị ảnh hưởng bởi triết gia “tiền bối” Absolute về phần này trong triết lý của ông. Hiện tượng và vật tự thể tương quan với nhau, ta không thể trực tiếp dùng mắt mà thấy. Hiện tượng học tinh thần của Hegel là cội nguồn thực sự và “bí ẩn” của học thuyết Hegel, tức là cái chìa khoá mà có nó, người ta sẽ mở toang được cánh cửa đi vào nội dung quý giá của học thuyết này. Đây là lãnh địa của tinh thần tuyệt đối – bản chất, chi phối toàn bộ thế giới hiện thực. Mọi sự vật chỉ là hiện thân cá biệt của tinh thần tuyệt đối. Theo Hegel, tinh thần thế giới trực tiếp hay gián tiếp 16
  17. bị tha hoá thành tự nhiên, thành các thể chế và các đồ vật do con người tạo ra. Và, tất cả các quá trình tha hoá đó dường như là mặt trái của sự vận động của ý niệm tuyệt đối đến chính mình, đến sự hiện thân trọn vẹn như sự tự nhận thức. Quá trình này diễn ra nhất thiết phải thông qua mặt đối lập của mình, tức là qua vô tri và thậm chí, qua tri thức giả dối xuất hiện trên đường nhận thức một cách tất yếu như tồn tại khác của nó, tức không phải như lỗi ngẫu nhiên, mà như sai lầm tất yếu và cần thiết. Những giới hạn đó của các hiện tượng tha hoá tương ứng với nguyên tắc Hegel về đồng nhất tư duy và tồn tại vốn giống hệt như quá trình bản thể luận phổ quát. Và, với bất kỳ quá trình nào trong số chúng - nhận thức luận hay bản thể luận, thì theo Hegel, tha hoá nhất định phải được vượt bỏ và được khắc phục: Tinh thần quay trở về với chính mình qua đầy rẫy những đớn đau cực hình và những thử thách trải nghiệm đầy thông thái. Chân lý đạt tới độ trọn vẹn và tuyệt đối, thế giới được lý tính rọi sáng hoàn toàn. Lập trường của Hegel trong vấn đề tha hoá đầy lạc quan và chúng ta có thể cảm thấy điều đó ở khắp nơi trong Hiện tượng học tinh thần. Triết học Marx - Lenin khắc phục tính chất duy tâm của triết học cổ điển Đức, đặt khái niệm “Hiện tượng” trong mối tương quan biện chứng với khái niệm “Bản chất”. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua “Hiện tượng”, còn “Hiện tượng” bao giờ cũng là sự thể hiện của “Bản chất” nhất định. Bản chất nào thì sẽ thể hiện ra qua “Hiện tượng” ấy. Một “Bản chất” có thể được biểu hiện thông qua nhiều “Hiện tượng” và ngược lại một “Hiện tượng” có thể bộc lộ ra nhiều “Bản chất”. Nhưng sẽ luôn chỉ có một “Hiện tượng” là phù hợp hơn cả với “Bản chất” mà nó thể hiện. Khái niệm “Hiện tượng” cũng đóng vai trò quan trọng ở Brentano: tri thức về con người (nhiệm vụ của tâm lý học) mà theo ông chỉ nhận được từ việc quan sát đời sống tâm thần, còn cái gì đạt được từ nhờ sự quan sát như vậy là “Hiện 17
  18. tượng” (phénomène). Theo nghĩa rộng, phénomène là tất cả những gì có thể trở thành khách thể của sự nghiên cứu khoa học. Với nghĩa đó, ta có các phénomène “nội tâm” - tâm lý và các phénomène “ngoại tâm” - vật lý. Cái đặc thù của các phénomène tâm lý là sự tồn tại ý hướng vốn có của chúng. Đối với Husserl, khái niệm “Hiện tượng” trở thành then chốt trong triết học của ông. Bên cạnh cách hiểu truyền thống về “Hiện tượng” như trên, theo Husserl, “Hiện tượng” không những biểu thị những phương diện xác định của sự vật được đem lại trong trực giác cảm tính mà còn đặc trưng cho “dòng ý thức”. Hiện tượng ở Husserl là những “Bản chất” của ý thức được xây dựng dựa trên phương pháp đặc thù của riêng nó. Ông cho rằng, “Hiện tượng học: thuật ngữ này biểu thị một môn khoa học, một phức hợp những bộ môn khoa học; nhưng đồng thời và trên hết nó biểu thị một phương pháp và một thái độ tư duy: đó là thái độ tư duy triết học riêng biệt và phương pháp triết học riêng biệt” [13, tr.23]. Như vậy, Hiện tượng học Husserl có ba đặc trưng cơ bản. Thứ nhất, học thuyết Hiện tượng học là học thuyết về ý thức. Thứ hai, phương pháp riêng biệt, độc đáo của Hiện tượng học là phương pháp quy giản Hiện tượng học. Thứ ba, Hiện tượng học còn là học thuyết về “Thế giới sống” và sự khủng hoảng loài người châu Âu. Thông qua Hiện tượng học, Husserl đã chuyển sự suy từ vấn đề khủng hoảng của khoa học sang cuộc khủng hoảng của con người. Ông đã dành cả đời mình để trăn trở, để suy ngẫm về khoa học, về con người, là nét chấm phá nhưng là nét chấm phá quan trọng nhất trong bức tranh triết học muôn màu, muôn vẻ. 1.2. Hiện tƣợng học Husserl 1.2.1. Bối cảnh hình thành Hiện tượng học Husserl Vào nửa cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển tới cực thịnh của nó, chứng kiến sự biến đổi dữ dội nhất trong lịch sử châu Âu. Đây là thế kỷ của chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa khoa học lên ngôi với những thành tựu khoa học, kỹ thuật, 18
  19. các lý thuyết thực nghiệm chi phối toàn bộ đời sống xã hội, đem lại những ảnh hưởng to lớn cho con người châu Âu. Bước sang thế kỷ XX, một kỷ nguyên hưng thịnh chứng kiến sự phát triển vượt bậc của khoa học, kỹ thuật vượt qua thời kỳ cổ điển bước sang thời kỳ hiện đại. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được đánh dấu bằng các nguồn năng lượng được khai thác và sử dụng một cách phổ biến. Các ngành công nghiệp năng lượng ra đời: khai thác dầu mỏ, sản xuất gang thép, sản xuất ô tô, đặc biệt là năng lượng điện đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt nhân loại thế kỷ XX trên mọi phương diện đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần,… Khoa học ngày càng phát triển, nền sản xuất phát triển kéo theo năng suất lao động tăng nhanh, thúc đẩy chất lượng đời sống con người đi lên. Thế nhưng, do cả quy mô sản xuất lẫn số lượng sản phẩm làm ra tăng nhanh một cách không thể kiểm soát, cần hạn chế cạnh tranh tự do, nên như một điều tất yếu chủ nghĩa tư bản bắt buộc phải thực hiện bước chuyển mình sang chủ nghĩa tư bản độc quyền và ngay sau đó là sang chủ nghĩa đế quốc. Khi nghiên cứu sâu vấn đề kỹ thuật, tiến bộ kỹ thuật, Karl Marx đã chỉ ra mặt trái của nó trong xã hội tư bản “…Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về tinh thần” [22, tr.10], hay Albert Einstein cũng nhận xét “sự phát triển về khoa học và kỹ thuật đã khiến cho cuộc đấu tranh sinh tồn của con người ngày càng thêm gay gắt” [6, tr.26] với biểu hiện rõ ràng nhất là chiến tranh thế giới thứ nhất. Đầu thế kỷ XX, vật lý học Newton gặp thách thức to lớn. Vật lý học hiện đại của A Einstein, L. Planck đập tan hòn đá tảng tưởng như không thể lay chuyển nổi của vật lý học kinh điển. Các công thức toán học mới ra đời phá vỡ quy luật toán học cổ điển. Tình hình trên làm cho người ta lo sợ trước nguy cơ của khoa học. Nhưng cho đến những năm 30 của thế kỷ XX, từ đó trở đi thì người ta cũng hiểu ra rằng cuộc khủng hoảng đó đã phá vỡ được phần sơ cứng của vật lý học cổ điển, 19
  20. thúc đẩy vật lý học phát triển thêm một bước tiến mới. Với sự ra đời của định lý bất toàn thì mọi người cũng thấy rõ hơn tính không thể của khoa học cho dù đó có là một khoa học chính xác như toán học. Những cố gắng không ngừng nghỉ của các nhà khoa học, cơ bản khắc phục được những khủng hoảng trong lòng nó. Lúc này, Husserl vẫn nói nhiều về khủng hoảng của khoa học châu Âu. Khủng hoảng mà ông đề cập đến ở đây không đơn giản là cuộc khủng hoảng vật lý, số học hay bản thân của bất kỳ khoa học nào mà khủng hoảng về nguồn gốc của khoa học, là khủng hoảng của toàn bộ bầu không khí văn hoá mà khoa học hoạt động trong đó. Hơn ai hết, Husserl hiểu rõ cho dù Newton, Einstein, Planck hay bất kỳ ai sau này là nhân vật tiêu biểu cho vật lý học thì vật lý học từ trước đến nay và từ nay về sau vẫn luôn là một khoa học chính xác. Mọi người có thể phản bác rằng sẽ không bao giờ có được một cấu trúc vật lý đúng tuyệt đối song đó chưa từng là lý do ngăn cản vật lý học là môn khoa học chính xác. Cuộc khủng hoảng ấy, không phải cá biệt cho một môn khoa học nào, một học thuyết cá biệt nào mà là cuộc khủng hoảng chung, tức là khủng hoảng tính người châu Âu. Khủng hoảng cá biệt xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau, có những đặc trưng khác nhau nhưng chúng vẫn ràng buộc nhau bởi cuộc sống con người. Cuộc sống con người được đề cập tới là hoạt động sáng tạo có mục đích, sáng tạo văn hoá được tiến hành trong quá trình lịch sử. Con người đánh mất tính người. Trong trạng thái mơ màng, không mục đích con người không thể sáng tạo, cải tạo bản thân, cải tạo thế giới đã dẫn đến sai lầm cả trong lý luận và thực tiễn. Husserl ví khủng hoảng như một con bệnh mà triệu chứng bệnh nó biểu hiện ra là cuộc khủng hoảng khoa học. Khủng hoảng của khoa học không phải ở chỗ bản thân nó được xây dựng không vững chắc, không đồ sộ mà ở cái nền của nó xét về căn bản là không đạt tiêu chuẩn. Đánh mất tính người đó là nguồn gốc thực sự cho mọi sự khủng hoảng. Và, vấn đề 20
nguon tai.lieu . vn