Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ------------------ NGUYỄN THỊ THƯ ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. Đặng Thị Lan HÀ NỘI, 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ------------------ NGUYỄN THỊ THƯ ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. Đặng Thị Lan HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Đặng Thị Lan. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận là hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về khóa luận của mình. Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019 Tác giả Nguyễn Thị Thư
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình đại học và viết Khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô khoa Triết học – những người dạy dỗ, chỉ bảo và trang bị cho tôi những kiến thức bổ ích trong suốt 4 năm học vừa qua. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS. Đặng Thị Lan, người đã dành rất nhiều tâm huyết và thời gian hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này. Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng xong khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy, cô và các bạ để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Thư
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 NỘI DUNG ......................................................................................................... 9 CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT...................................................................................... 9 1.1. Đạo đức Phật giáo và vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo........................................................................................................... 9 1.1.1. Khái niệm đạo đức Phật giáo .............................................................. 9 1.1.2. Vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo ................ 14 1.2. Những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo ...................................... 16 1.2.1. Quan niệm về Thiện – Ác, Từ bi ...................................................... 16 1.2.2. Quan niệm về Ngũ giới..................................................................... 20 1.2.3. Quan niệm về thuyết Nhân quả, Luân hồi, Nghiệp báo ................... 29 1.3. Đánh giá chung về đạo đức Phật giáo..................................................... 35 1.3.1. Giá trị của đạo đức Phật giáo............................................................ 35 1.3.2. Hạn chế của đạo đức Phật giáo ......................................................... 37 CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY ........ 40 2.1. Vài nét về thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra. .................................................................................................. 40 2.1.1. Khái niệm thanh niên và vai trò của thanh niên đối với xã hội ........ 40 2.1.2. Vài nét về thực trạng đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay và những yêu cầu đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. ...................................................................................................... 43 2.2. Một số vai trò chủ yếu của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay.......................................................... 50
  6. 2.2.1. Đạo đức Phật giáo góp phần hình thành ý thức đạo đức tích cực cho thanh niên Việt Nam. .................................................................................. 50 2.2.2. Đạo đức Phật giáo góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức cho thanh niên Việt Nam ............................................................................................. 56 2.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của đạo đức Phật giáo đối với giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay .............................. 63 2.3.1. Nâng cao hiểu biết, nhận thức của xã hội về vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. .. 63 2.3.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý và tăng cường công tác quản lý đối với các hoạt động và tổ chức của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. . 64 2.3.3. Tăng cường vai trò của các tổ chức, chức sắc Phật giáo trong công tác tuyên truyền những giá trị của đạo đức Phật giáo đến với thanh niên Việt Nam hiện nay. ..................................................................................... 66 2.3.4. Khuyến khích thanh niên tự giác tìm hiểu và tiếp thu các giá trị tốt đẹp của đạo đức Phật giáo. ......................................................................... 67 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 70 PHỤ LỤC ......................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 83
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phật giáo là một tôn giáo lớn ra đời ở Ấn Độ vào thế kỉ VI trước công nguyên và được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên. Là một học thuyết có tính triết học sâu sắc cùng giá trị nhân văn cao cả, Phật giáo đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, với những tư tưởng giáo lý gần gũi, Phật giáo đã nhanh chóng hòa hợp với tín ngưỡng bản địa, với những nguyện vọng, ước mơ của người lao động và hội nhập với văn hóa Việt Nam. Phật giáo đã thấm sâu vào trong dân chúng, tồn tại và phát triển qua nhiều đời, nhiều thế hệ và được đông đảo nhân dân Việt Nam tiếp nhận với thái độ cởi mở. Trải qua gần 2000 năm gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, Phật giáo luôn chứng tỏ được vị thế của mình và để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống tâm linh, văn hóa, đạo đức của con người Việt Nam. Những triết lý nhân sinh cùng với những giá trị đạo đức cao cả của Phật giáo đã có tác động không nhỏ đến đạo đức của người Việt, luôn hướng họ đến cái thiện, cái tốt đẹp với tinh thần “từ, bi, hỉ, xả”, “vô ngã”, “vị tha”. Cho đến ngày nay, Phật giáo nói chung và hệ thống đạo đức cùng với các chuẩn mực đạo đức Phật giáo nói riêng vẫn phát huy được những giá trị tích cực, hòa nhập với nền đạo đức, văn hóa hiện đại của dân tộc Việt Nam và được nhiều người tin theo. Như Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu và quyền lợi tinh thần của một bộ phận nhân dân, nó còn tồn tại lâu dài và chi phối đời sống tinh thần văn hóa của một bộ phận dân chúng, trong đó có những giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích của toàn dân, với công cuộc xã hội mới” [3,67]. Từ năm 1986, Việt Nam bắt tay vào công cuộc đổi mới đất nước. Dưới những tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu hướng hội nhập quốc tế, nước ta đã đạt được những 1
  8. thành tựu to lớn về kinh tế, từng bước ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận được một thực trạng mà chúng ta đang phải đối mặt, đó là sự xuống cấp trầm trọng của nền đạo đức xã hội: nạn tham nhũng, buôn lậu có xu hướng phát triển, xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, lối sống thực dụng và các hành vi phạm đạo đức, pháp luật ngày càng gia tăng đang dần hủy hoải những giá trị thuần phong mỹ tục của dân tộc. Một bộ phận không nhỏ thanh niên sống không có lý tưởng, sa ngã vào con đường ăn chơi, hưởng thụ. Đối với nước ta, thanh niên được coi là lực lượng quan trọng, đóng vai trò to lớn đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là lớp người năng động, dễ tiếp thu, đón nhận cái mới trong xã hội, họ cũng là tầng lớp chịu ảnh hưởng lớn trước những điều kiện kinh tế - xã hội mới, của cơ chế thị trường và việc mở rộng giao lưu, quan hệ, hợp tác quốc tế. Vì thế, vấn đề xây dựng đạo đức, lối sống cho thanh niên Việt Nam hiện nay đã không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục mà nhiều cấp, nhiều ngành cũng đều hết sức quan tâm.Tại Đại hội X, Đảng đã chỉ ra việc phải kế thừa, phát huy và phát triển giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [15, 106]. Ở đây, những giá trị truyền thống, trong đó phải kể đến những giá trị đạo đức dân tộc, đặc biệt là đạo đức Phật giáo sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho sự hình thành và phát triển toàn diện con người Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Việt Nam. Tinh thần từ bi, hướng thiện chính là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân văn; tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hội nhập cùng phát triển hiện nay của các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, việc kế 2
  9. thừa, phát huy và có những biện pháp cụ thể nhằm truyền tải các giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức Phật giáo đến với thanh niên sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam. Có thể thấy, việc khai thác và phát triển các yếu tố của đạo đức Phật giáo, đồng thời, hạn chế những tác động tiêu cực của nó để giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay là điều rất cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu lý luận và thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu công nguyên, trải qua gần 2000 năm đồng hành cùng dân tộc. Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong đời sống tâm linh, văn hóa, đạo đức của con người Việt Nam. Chính vì vậy, nghiên cứu Phật giáo luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả và giới lý luận. Cho đến nay, ở nước ta đã có rất nhiều công trình nghiên cứu Phật giáo dưới những góc độ khác nhau. Có thể tóm lược thành những hướng nghiên cứu cơ bản sau: 2.1. Những công trình nghiên cứu, tìm hiểu Phật giáo Việt Nam nói chung. Bộ sách: “Việt Nam Phật giáo sử luận” (3 tập, 1994, Nhà xuất bản Văn học) của Nguyễn Lang và cuốn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (3 tập, 1999, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh) của Lê Mạnh Thát đã khái quát một cách toàn diện sự phát triển Phật giáo Việt Nam theo từng giai đoạn. Đây là những tư liệu có giá trị đã khảo cứu Phật giáo Việt Nam một cách hệ thống, trong đó có nhiều phần viết về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc. Các cuốn sách: “Việt Nam Phật giáo sử lược” (1943, Nhà xuất bản Hội Tăng Ni Bắc Việt) của Hoà thượng Thích Mật Thể và “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (1988, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội) do tác giả Nguyễn Tài Thư chủ biên đã hệ thống hoá lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập đến 3
  10. thế kỷ XX. Các tác giả đã chỉ rõ Phật giáo đến Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, vào các thời điểm khác nhau từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XVI. Cuốn “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” (1999, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội) của tác giả Nguyễn Duy Hinh có nội dung bước đầu tìm hiểu hệ thống hóa tư liệu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam, nghiên cứu tư tưởng Phật giáo Việt Nam qua đó làm rõ đặc điểm Phật giáo Việt Nam với tư cách là một sản phẩm tôn giáo được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh cư dân bản địa có tiếp thu tôn giáo ngoại nhập. 2.2. Những công trình nghiên cứu về đạo đức Phật giáo Cuốn sách “Đạo đức học Phật giáo” của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Thích Minh Châu chủ biên, được Nhà xuất bản Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1995 bao gồm các bài viết của nhiều tác giả, hầu hết những bài viết này đều đã được phát biểu tại các hội thảo khoa học do Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức vào năm 1993. Nội dung cuốn sách nêu bật được những nét cơ bản về đạo đức học Phật giáo, từ đó thấy được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy những giá trị của đạo đức Phật giáo trong việc giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc. Tác giả Đặng Thị Lan với công trình “Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006 đã đề cập đến những vấn đề trọng tâm của đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong việc xây dựng nền tảng đạo đức xã hội, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm phát huy các mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo, vận dụng những giá trị tốt đẹp của đạo đức Phật giáo trong việc hoàn thiện đạo đức, nhân cách con người Việt Nam ở bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. 2.3. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam và thanh niên Việt Nam 4
  11. Hướng nghiên cứu này có các tác phẩm chủ yếu sau: “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam”của Trần Ngọc Thêm, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh (1997); “Văn hoá Phật giáo và lối sống của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ” của Nguyễn Thị Bảy, Nhà xuất bản Thông tin, Hà Nội (1997); “Phật giáo với văn hoá Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy, Nhà xuất bản Hà Nội (1999)... Ngoài các công trình khoa học trên còn có rất nhiều bài viết đăng trên tạp chí thuộc các ngành khoa học xã hội về đạo đức như: Đặng Hữu Toàn “Hướng các giá trị truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân - thiện - mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường”(Tạp chí triết học, số 4 – 2001, tr.27- 32); tác giả Trần Nguyên Việt với “Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường”(Tạp chí triết học, số 5 – 2002, tr.20 - 25) . Cuốn “Phật giáo và sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Tài Thư (Tạp chí triết học số 4/1993); “Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường” của tác giả Hoàng Thơ (Tạp chí triết học số 7/ 2002). Về ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống đạo đức xã hội cũng có nhiều công trình luận án đã nghiên cứu. Tiêu biểu như công trình nghiên cứu của tác giả Tạ Chí Hồng với “Ảnh hưởng của Đạo đức Phật giáo đối với đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay” (Luận án Tiến sĩ triết học, năm 2003). Luận án đã nhận định vị trí của vấn đề đạo đức trong tư tưởng Phật giáo, nội dung, đặc điểm, nếp sống và giá trị đạo đức Phật giáo, sự dung hợp giữa đạo đức Phật giáo với đạo lý Việt Nam, sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đời sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay và những giải pháp chủ yếu định hướng đối với những ảnh hưởng của Phật giáo. Luận án Tiến sĩ “Đạo đức Phật giáo với công tác giáo dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo Thừa Thiên Huế hiện nay” của Ngô Văn Trân bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2012), đã đề cập khá sâu về đạo đức Phật giáo, chỉ ra nhân sinh quan tiến bộ và độc đáo của đạo đức Phật giáo. 5
  12. Đồng thời, luận án giới thiệu mô hình “Gia đình Phật tử” - một mô hình giáo dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo tại Huế, các chủ thể khác tham gia giáo dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo Huế và những giải pháp nhằm phát huy đạo đức Phật giáo thông qua gia đình Phật tử trong công tác giáo dục thanh thiếu niên Phật tử ở Huế. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã nêu trên đã mang lại một cái nhìn khá toàn diện về lịch sử Phật giáo Việt Nam và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong mọi mặt của đời sống, đối với xã hội nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề “Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” còn ít công trình nghiên cứu một cách hệ thống. Chính vì thế, tác giả mong muốn có một số đóng góp nhất định trong việc phân tích, làm rõ nội dung của đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo, khóa luận làm rõ vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, qua đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được các mục tiêu trên, khóa luận thưc hiện các nhiệm vụ sau: + Thứ nhất: Trình bày khái niệm đạo đức Phật giáo và những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo. + Thứ hai: Trình bày vài nét về thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên. 6
  13. +Thứ ba: Phân tích vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. + Thứ tư: Đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy những vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Khóa luận tập trung nghiên cứu những giáo lý, giới luật cơ bản của Phật giáo thể hiện nội dung đạo đức, ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức thanh niên. - Về mặt thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam kể từ khi đất nước bắt đầu quá trình đổi mới đến nay (từ 1986 đến nay). 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Khóa luận dựa trên quan điểm triết học Mác – Lênin về tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng; những quan điểm đổi mới nhận thức về tôn giáo và những chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước từ khi đất nước đổi mới; sự cần thiết vận dụng, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo vào trong đời sống. 5.2. Cơ sở thực tiễn Cơ sở thực tiễn của khóa luận là quá trình tồn tại, phát triển lâu dài của Phật giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc nói chung cũng như đối với đạo đức con người nói riêng và đặc biệt là thanh niên. 7
  14. 5.3. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, logic - lịch sử, khái quát hóa, đối chiếu, so sánh… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận - Khóa luận góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo và vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. - Khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, tìm hiểu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến Phật giáo, đạo đức Phật giáo, góp thêm cơ sở để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức cho thanh niên Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương, 5 tiết. 8
  15. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT 1.1. Đạo đức Phật giáo và vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo. 1.1.1. Khái niệm đạo đức Phật giáo 1.1.1.1. Khái niệm đạo đức Đạo đức là gì ? Có lẽ, câu hỏi này đặt ra khó có thể trả lời một cách vắn tắt và ngắn gọn được. Bởi lẽ đạo đức xuất hiện từ rất sớm, cùng với sự hình thành của xã hội loài người và sẽ không bao giờ biến mất nếu như con người vẫn còn tồn tại. Chính vì thế, khái niệm đạo đức là gì, nguồn gốc của đạo đức, các yếu tố cấu thành của đạo đức hay những biểu hiện của đạo đức như thế nào luôn là những vấn đề được nhiều học giả quan tâm và cũng đã có rất nhiều quan niệm khác nhau khi giải quyết các vấn đề đó. Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm đạo đức là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1997, “đạo đức” được giải thích theo hai nghĩa như sau: 1. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. 2. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chẩn đạo đức mà có. Trong chữ Hán, từ đạo đức được chú giải: “nguyên lý tự nhiên là đạo, được vào trong lòng người là đức. Cái lượng pháp người ta nên noi theo (morale, vertu)”. Trong tiếng La tinh, đạo đức là moralitas, có nghĩa là thái độ, tính cách, ứng xử là sự khác biệt của ý định, quyết định, hành động giữa những cái tốt hoặc đúng và giữa những cái xấu và cái sai. Ở phương Đông, đạo đức là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Hoa cổ đại. Đạo được hiểu là con đường sống của con 9
  16. người, về sau khái niệm đạo đức được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Hoa cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học nổi tiếng như Socrate (469 -399 TCN), Epiquya (341 – 271 TCN), Aristote (384 -322 TCN) đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Trong đó, Socrate được coi là người đặt nền móng cho khoa học đạo đức. Theo Socrate, đạo đức có mối liên hệ mật thiết với vấn đề ổn định xã hội, bởi vì một xã hội ổn định, con người mới có thể nắm bắt được cái tinh hoa của luân lý. Tiếp sau Socrate, Aristote đã viết tác phẩm “Đạo đức học” gồm 10 quyển với luận điểm nổi tiếng đó là: chúng ta bàn về đạo đức không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh… Đạo đức là một vấn đề phức tạp, có thể tiếp cận dưới góc độ của nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực lại đem đến một cái nhìn riêng về phạm trù đạo đức. Cụ thể: Dưới góc độ xác định đạo đức là một thuật ngữ khoa học, Từ điển triết học đã giải thích khái niệm đạo đức như sau: “Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không trừ lĩnh vực nào. Đạo đức khác với những hình thức điều chỉnh hoạt động quần chúng khác (pháp quyền, những quy chế hành chính sản xuất, những sắc lệnh nhà nước, những truyền thống dân tộc…) ở phương thức luận chứng và thực hiện những yêu cầu của mình. Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu, lợi ích của xã hội hoặc các giai cấp biểu hiện dưới hình thức những quy định và những sự đánh giá đã được mọi người thừa nhận và đã hình thành một cách tự phát, được củng cố bằng sức mạnh của tấm gương quần chúng, của thói quen, phong tục, dư luận xã hội. Cho nên, những yêu cầu của đạo đức 10
  17. mang hình thức bổn phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu sự ra lệnh của ai cả. Những yêu cầu này là có tính chất tương đối bền vững.” [52]. Trong khi đó, Từ điển chính trị vắn tắt lại cho rằng: “Đạo đức là toàn bộ các chuẩn mực hành vi trong xã hội, trong gia đình. Khác với các quy phạm pháp luật mà việc tuân thủ chúng do cơ quan nhà nước duy trì và kiểm tra, đạo đức dựa trên cơ sở dư luận và tác động của xã hội, dựa trên những quan điểm , truyền thống và thói quen” [51,115]. Còn dưới góc nhìn đạo đức học của chủ nghĩa Mác thì “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống sức mạnh của dư luận xã hội” [18,8]. Theo định nghĩa này, đạo đức được xem xét ở ba phương diện chủ yếu: Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội bao gồm toàn bộ những quan điểm, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử trong quan hệ con người với con người, con người với xã hội nhằm đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân với cộng đồng. Thứ hai, đạo đức là phương thức để điều chỉnh hành vi của con người. Những chuẩn mực và quy tắc là những yêu cầu của xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong mới quan hệ với nhau và với xã hội. Thứ ba, đạo đức là một hệ thống giá trị, bao gồm các giá trị vật chất và tinh thần, giá trị sản xuất và tiêu dùng và các giá trị chính trị - xã hội, tôn giáo… Đạo đức còn là một phạm trù lịch sử. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kì hay mỗi dân tộc, giai cấp đều có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức nhất định. Trong tác phẩm “Chống Đuy – rinh”, Ăng- ghen đã phê phán sự thừa nhận của Đuy –rinh về một thứ đạo đức vĩnh cửu cho mọi thời đại và khẳng định: “Xét cho cùng, mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản 11
  18. phẩm của tình hình kinh tế, của xã hội lúc bấy giờ” và do vậy, “từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”. Mỗi giai cấp khác nhau trong những giai đoạn lịch sử nhất định của lịch sử xã hội đều có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Những giai cấp đại diện cho xu thế phát triển theo hướng đi lên của xã hội thì sẽ đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Ngược lại, các giai cấp phản động, đi ngược với sự phát triển của xã hội thì sẽ đại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Thực tiễn xã hội cho thấy, đạo đức không chỉ là phương tiện, hơn thế nữa, nó còn là nội dung, mục đích của cuộc sống con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ. Đó cũng chính là khát vọng, ước mơ của nhân loại từ ngàn xưa cho đến tận mai sau. Một mặt, đạo đức được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống con người nhằm đáp ứng các yêu cầu khách quan của đời sống cộng đồng. Mặt khác, ý thức đạo đức khi đạt đến trình độ lý luận sẽ phản ánh đời sống đạo đức xã hội được hình thành và phát triển chủ yếu bằng con người giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng. Tóm lại, có thể thấy đạo đức ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Đạo đức được coi là một trong những nhân tố cơ bản điều chỉnh hành vi của con người, là cội nguồn của hạnh phúc và là động cơ, sức mạnh để chống lại cái ác, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, sự tiến bộ của xã hội. Đạo đức đặt ra những nguyên tắc ứng xử, những quan niệm về các mối quan hệ xã hội, như đối với bản thân, gia đình, xã hội và với tự nhiên. Vì vậy, tính thiết yếu của đạo đức là rất mạnh mẽ, nó tác động thuận hay nghịch vào quá trình xây dựng hạnh phúc và phát triển xã hội, chuẩn mực của đạo đức bao giờ cũng được đặt ở vị trí cao nhất để khích lệ con người vươn tới mức hoàn thiện bản thân mình. 1.1.1.2. Khái niệm đạo đức Phật giáo Trong mọi thời kì lịch sử, tôn giáo luôn là một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa, văn minh của nhân loại. Tôn giáo không chỉ là nơi để các 12
  19. tín đồ thể hiện niềm tin của mình mà còn là cầu nối văn hóa giữa các nước, các khu vực, vì vậy nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của con người. Mỗi tôn giáo đều sẽ có một hệ thống giáo lý, triết lý riêng song nhìn chung thì đều nhằm mục đích là hướng con người tới các giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Và Phật giáo cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới. Trong suốt quá trình lịch sử, từ khi hình thành cho đến nay, Phật giáo đã không ngừng phát triển và đã để lại cho nhân loại nhiều tư tưởng về tôn giáo, triết học, chính trị, mỹ học, văn hóa,…trong đó nổi bật hơn cả là nội dung tư tưởng đạo đức. Về cơ bản, Phật giáo không phải là một học thuyết về đạo đức, tuy xuất phát điểm của nó lại là sự chỉ dạy của đức Phật cho con người biết nguyên nhân của nỗi khổ và con đường giải thoát. Từ những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, Phật giáo rút ra hệ quả của chúng để xây dựng một hệ thống quan niệm đạo đức. Xuyên suốt nội dung giáo lý Phật giáo đều đề cập đến vấn đề đạo đức với mục đích cao cả là hướng con người tới điều thiện, sự bình đẳng và hạnh phúc. Như vậy, đạo đức là nền tảng quan trọng trong hệ thống giáo lý của Phật giáo. Đạo đức Phật giáo với các chuẩn mực, giá trị đạo đức mang tính phổ quát và nhân bản có giá trị không chỉ cho những người theo đạo Phật mà có rất nhiều điểm phù hợp với đạo đức xã hội nói chung. Trong Luận án tiến sĩ “Đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người Việt Nam”, tác giả Đặng Thị Lan đã đưa ra khái niệm về đạo đức Phật giáo như sau: “Đạo đức Phật giáo là toàn bộ những quan niệm, giá trị, những quy tắc đạo đức được thể hiện trong các giáo lý Phật giáo (đặc biệt trong các điều răn cấm) nhằm điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và xã hội theo thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo”. Tôi cho rằng đây là khái niệm phù hợp với cách mà tôi triển khai khóa luận, chính vì thế, tôi sẽ kế thừa và phân tích các nội dung của đạo đức Phật giáo dựa trên cơ sở của khái niệm này. 13
  20. 1.1.2. Vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo Với lịch sử hơn 2500 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo đã để lại cho nền văn mình nhân loại một hệ thống giáo lý đồ với những tư tưởng về tôn giáo, triết học, chính trị, văn hóa, nghệ thuật,…và đặc biệt là tư tưởng đạo đức. Cũng như các tôn giáo khác, Phật giáo chủ trương hướng con người tới Chân,Thiện, Mỹ. Bản chất của đạo đức Phật giáo được thể hiện qua rõ nét qua các giáo lý từ, bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha, cứu khổ, cứu nạn… Những giáo lý này luôn khuyến khích con người làm điều thiện, bình đẳng trước chúng sinh, xây dựng một cái tâm trong sáng, tốt đẹp, loại trừ mọi dục vọng. Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ này đều có nguyên nhân của nó. Khi nhân kết hợp với duyên thì sẽ sinh ra quả (nhân – duyên – quả), quả lại tiếp tục kết hợp với duyên để trở thành nhân khác và lại sinh ra quả khác. Cứ như vậy, vạn vật vận động, biến đổi không ngừng, bất tận. Thế giới là vô thường, vô ngã, bởi lẽ không có gì là bất định, vĩnh viễn, mọi sự vật đều biến đổi, đều trôi đi như dòng sông đang chảy, kể cả linh hồn con người cũng không thể bất tử. Xuất phát từ quan niệm về thế giới như vậy, Phật giáo đã đi đến giải quyết vấn đề nhân sinh quan. Và đây chính là cơ sở để Phật giáo xây dựng và thực hiện các nguyên tắc đạo đức. Đức Phật cho rằng cuộc đời con người là bể khổ, ngay chính sự hiện hữu của con người trên thế giới này cũng đã là khổ. Cái khổ của con người được Phật giáo khẳng định qua “Tứ diệu đế” bao gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Theo Phật giáo, nguyên nhân gây ra đau khổ là do con người vô minh, không hiểu biết về sự vô thường, vô ngã. Chính vì không hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng nên con người bị “vọng tưởng” và bị “dục” làm cho mù quáng, tạo ra nghiệp báo, luôn quẩn quanh trong nhân – quả, không thể thoát được khỏi vòng luân hồi khổ. Từ đây, Phật giáo chỉ ra mục đích sống trong cuộc đời đó là giải thoát con người ra khỏi khổ đau. Chính vì vậy, tư tưởng đạo đức cũng như các triết lý của đạo Phật đều xoay quanh vấn đề làm sao cho chúng sinh thoát khỏi cái 14
nguon tai.lieu . vn