Xem mẫu
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
-------------------
TRẦN THỊ HOA
CON NGƢỜI CÔ ĐƠN
TRONG TRUYỆN NGẮN BẢO NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH
HÀ NỘI- 2016
- LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị
Tuyết Minh. Cô đã trực tiếp hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
học tập nghiên cứu cũng nhƣ luôn động viên khuyến khích tôi thực hiện đề tài
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt
Nam, khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi thực hiện và hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Tác giả khóa luận
Trần Thị Hoa
- LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của cô
giáo – TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Tôi xin cam đoan:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
Đề tài không trùng với kết quả có sẵn của bất cứ tác giả nào khác.
Hà Nội, tháng5 năm 2016
Tác giả khóa luận
Trần Thị Hoa
- MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU................................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 4
4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận............................................................................ 5
7. Cấu trúc của khóa luận .............................................................................. 5
NỘI DUNG............................................................................................................................... 6
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG ................................................................................... 6
1.1. Chủ đề con ngƣời cô đơn trong văn học ................................................ 6
1.1.1. Chủ đề con người cô đơn trong văn học thế giới........................... 6
1.1.2. Chủ đề con người cô đơn trong văn học Việt Nam......................... 8
1.2. Truyện ngắn Bảo Ninh trong bối cảnh truyện ngắn Việt Nam
đƣơng đại ..................................................................................................... 12
1.2.1. Khái niệm truyện ngắn .................................................................. 12
1.2.2.Diện mạo truyện ngắn Việt Nam đương đại .................................. 14
1.2.3. Truyện ngắn Bảo Ninh và chủ đề con người cô đơn .................... 17
Chƣơng 2. NHẬN DIỆN CON NGƢỜI CÔ ĐƠN TRONG TRUYỆN NGẮN
BẢO NINH............................................................................................................................. 20
2.1. Ngƣời lính ............................................................................................ 20
2.1.1. Người lính từ cái nhìn lịch sử ....................................................... 21
2.1.2. Người lính từ cái nhìn cá nhân ..................................................... 23
2.2 Ngƣời phụ nữ ........................................................................................ 27
2.2.1 Người phụ nữ từ cái nhìn lịch sử ................................................... 27
- 2.2.2 Người phụ nữ từ cái nhìn cá nhân ................................................. 30
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CON NGƢỜI CÔ ĐƠN TRONG
TRUYỆN NGẮN BẢO NINH ........................................................................................... 32
3.1. Điểm nhìn trần thuật linh hoạt ............................................................. 32
3.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ................................................................. 35
3.3. Giọng điệu xót xa, thƣơng cảm ............................................................ 38
KẾT LUẬN............................................................................................................................. 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chiến tranh đã lùi xa bốn mƣơi năm song những dấu vết về quá khứ đau
thƣơng vẫn hằn sâu trong tâm thức của ngƣời Việt. Vết thƣơng da thịt theo
năm tháng có thể lành lại, nhƣng những vết thƣơng về tinh thần đã thấm sâu
vào trong từng ngõ ngách thể xác và tâm hồn của họ. Đề tài chiến tranh và
ngƣời lính luôn là một đề tài lớn của văn học nƣớc nhà, nhƣng giờ đây nó
đƣợc thể hiện với “những cảm hứng mới, những cách thức tiếp cận mới,
những cách viết mới chứ không phải sự nối dài của quá khứ”(Phong Lê). Văn
học Việt Nam đã có nhiều tác phẩm hay, có giá trị về đề tài này, nhƣng những
ngƣời cầm bút vẫn chƣa hài lòng về thành tựu của chính mình. Họ vẫn luôn ý
thức tìm tòi, đổi mới trong phƣơng pháp sáng tạo, trong tƣ duy thể loại để thai
nghén và cho ra đời những tác phẩm tƣơng xứng với tầm vóc của cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.Trên con đƣờng đó, văn xuôi Việt Nam, đặc
biệt truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh và ngƣời lính đã có những bƣớc
chuyển biến mới mẻ và đạt đƣợc những thành tựu quan trọng.
Năm 1987 truyện ngắn Trại bảy chú lùn của Bảo Ninh chính thức xuất
hiện trên văn đàn. Từ đó đến nay, trên hành trình sáng tạo hơn hai thập kỉ,Bảo
Ninh đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam đƣơng đại, đặc
biệt là mảng văn học viết về chiến tranh thời hậu chiến.
Có thể nói, bên cạnh tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh(Thân phận của
tình yêu) đạt giải nhất Hội Nhà văn năm 1991 đã làm nên tên tuổi Bảo Ninh
trên văn đàn Việt Nam và thế giới, ông còn có những tác phẩm tự sự cỡ nhỏ
“bặt thiệp và tinh tế”. Những điều ông viết có thể xem nhƣ sự tri ân cho cuộc
sống mà tuổi trẻ của ngƣời lính đã dâng hiến cho dân tộc với những trải
nghiệm sâu sắc: “Chiến tranh và đồng đội ấy là tình yêu của chúng tôi, lớp
1
- trẻ trưởng thành lên trong hầm trú ẩn và làm nên ý nghĩa của cuộc đời mình
trong trận mạc”[13;282].
Truyện ngắn Bảo Ninh đem đến cho ngƣời đọc một cái nhìn khác về chiến
tranh. Dƣới cái nhìn hồi cố, nhân vật trong những trang văn của ông đã suy
tƣ, trải nghiệm cuộc đời của hôm qua, hôm nay đầy đặn hơn, trọn vẹn hơn.
Những truyện ngắn đó là sự đào sâu hiện thực chiến tranh bằng sự trải nghiệm cá
nhân để làm phong phú thêm cái nhìn của cộng đồng về hiện thực lịch sửmột
cách sâu sắc, cảm động và để lại nhiều ấn tƣợng trong lòng độc giả.
Truyện ngắn Bảo Ninh thu hút sự chú ý của bạn đọc và giới nghiên cứu
phê bình văn học đƣơng đại. Phải chăng ngòi bút tài hoa này đã tạo hình nên
những thiên truyện để đến thế hệ hôm nay và ngày mai sẽ mãi còn nhớ đến
những con ngƣời trong thời chiến với những tâm tƣ sầu kín. Đó là lí do
chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Con người cô đơn trong truyện ngắn
Bảo Ninh”.
2.Lịch sử vấn đề
Truyện ngắn Bảo Ninh nhận đƣợc khá nhiều sự quan tâm của giới sáng
tác cũng nhƣ phê bình văn học đƣơng đại. Trong Văn học Việt Nam thế kỉ
XX,Bùi Việt Thắng khẳng định: Bảo Ninh “là một trong những nhà văn có
duyên với truyện ngắn và là cây bút ấn tượng mạnh với người đọc”[2;337].
Bích Thu trong Những thành tựu của truyện ngắn sau năm 1975 cũng
xem Bảo Ninh là “một cây bút ấn tượng với người đọc” [17;32]. Mai Quốc
Liên khi nhận xét về cuốn sánh Bảo Ninh - Tác phẩm chọn lọc cho rằng:
“Đã lâu lắm, tôi mới đọc được một tập truyện hay như thế. Anh tôi, tuy làm
“chính trị” đọc xong cũng thốt lên “hay”…Một nỗi buồn sâu lắng nhưng
trong lành, một tình yêu thương đằm thắm, xót xa thấm đượm trong từng
trang sách…Và cao hơn, một sự nhận thức đầy đủ, chân thành, lương tâm
của một người lính trở về từ chiến trận. Một cái nhìn, một cách nhìn và điểm
2
- nhìn đã được lọc qua tháng năm những suy nghĩ trải nghiệm qua máu xương,
chiến trận…Số phận của từng người, số phận của tình yêu, cái ngẫu nhiên và
cái sống, cái chết đã làm cuộc đời thêm xót xa, cay đắng nhưng càng đáng
yêu hơn” [6;42].
Phạm Xuân Thạch cho rằng:Truyện ngắn Bảo Ninh “giống như những
mảnh vỡ của tiểu thuyết hoặc phản chiếu hoặc soi gương thế giới của tiểu
thuyết” , “như một sự đào sâu hiện thực của chiến tranh bằng sự trải nghiệm
cá nhân để làm phong phú thêm cái nhìn của cộng đồng về hiện thực lịch
sử”[8;251].
Giới thiệu tuyển tập truyện ngắn Lan man trong lúc kẹt xe của Bảo Ninh,
tác giả Nguyễn Chí Hoan đã chú ý đến một số yếu tố nghệ thuật và cho
rằng:“Nó là một suy tư chiêm nghiệm vô tận về thân phận qua cái nhìn hồi cố.
Các nhân vật trong truyện kể về các sự kiện và con người như là những ấn
tượng mạnh mẽ khác thường mà kí ức còn lưu giữ”.Các mạch truyện “nối với
nhau như những đoạn phim tư liệu được một tay đạo diễn dựng lại một cách
ngẫu nhiên”. Cái nhìn hình tượng ấy cho ta thấy quá khứ được kể là “cao
nhất, lớn hơn, hư ảo hơn đồng thời là thực hơn”. Đó là “cái nhìn vào ý
nghĩa” mà “không phải vào sự kiện, biến cố, con người một cách thông
thường”[10;50].
Trong bài viết Bảo Ninh – nhìn từ thân phận truyện ngắn, Đoàn Ánh
Dƣơng nhận xét:Tập truyện ngắn “là một đối ứng với Nỗi buồn chiến tranh,
nhưng trong sự thống nhất gần như trọn vẹn của những vấn đề được đề cập:
nỗi buồn hậu phương”. Tác giả cũng khẳng định “Với Bảo Ninh, chiến tranh
là một chấn thương”. Trở về sau chiến tranh ám ảnh những gì cuộc chiến
mang lại “Bảo Ninh đã viết về nó, nhìn đời qua lăng kính đó, để vượt lên chấn
thương, vượt thoát cái chết mà chấn thương đó quy định”. Và “Chủ âm trong
sáng tác của Bảo Ninh là hồi tưởng về quá khứ”. Do vậy “Kí ức là chất liệu
3
- chủ đạo trong sáng tác của Bảo Ninh, còn Bảo Ninh là kẻ ăn mày kí ức
ấy”.Tác giả bài viết còn đƣa ra kết luận: “Đã đến lúc phải đọc Bảo Ninh theo
một cách khác. Văn Bảo Ninh là câu chuyện đời của chính ông. Ở đó kí ức cá
nhân trở thành chất liệu của hư cấu, còn hư cấu xét đến cùng như một lẽ viết
và vì thế một lẽ sống”[4].
Về tập truyện mới nhất của Bảo Ninh - Chuyện xưa kết đi được chưa,
Nhị Linh trong blog của mìnhcó những nhận xét: “Chưa bao giờ văn học Việt
Nam có một sự kéo dài và nồng độ đậm đặc như thế”. “Ám ảnh như một sự
quán xuyến cả tập sách. Nhưng sự ám ảnh này cũng có một nét đặc biệt, nó
không thể hiện trong nỗi nhớ, niềm tiếc nuối, mà lại thể hiện nhiều hơn trong
sự quên. Rất nhiều nhân vật trong các truyện không thực sự nhớ mình đã như
thế nào, cuộc đời xưa kia của mình ra sao. Chỉ thỉnh thoảng mới le lói một
chút kí ức, và chỉ cần một hạt bụi nhỏ(nhỏ và tầm thường như một cái
“búng”) cũng đủ khơi dậy day dứt, day dứt trộn lẫn với sự quên, day dứt
cũng chính vì đã quên những điều lẽ ra không quên”[5].
Trong luận văn thạc sĩ Chiến tranh chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh
(Đại học Vinh năm 2006), tác giả Lƣu Thị Thanh Trà nghiên cứu đề tài chiến
tranh trong truyện ngắn Bảo Ninh qua đối sánh với tiểu thuyết Nỗi buồn
chiến tranh. Tác giả khẳng định: “Bảo Ninh đã đem đến cho người đọc một
hiện thực chiến tranh với nỗi buồn dằng dặc, bàng bạc, đau xót trong các
truyện ngắn. Nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn hậu chiến đã tác động vào số
phận, nhân cách của mỗi người lính”.
Tiếp thu từ những gợi ý trên đây của các nhà nghiên cứu, trong khóa luận này,
chúng tôi tập trung tìm hiểu Con người cô đơn trong truyện ngắn Bảo Ninh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là cuốnBảo Ninh- những truyện
ngắn, NXB Trẻ, 2013.
4
- - Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp Đại
học và thời gian có hạn, chúng tôi không tìm hiểu mọi phƣơng diện về nội
dung và nghệ thuật của truyện ngắn Bảo Ninh nói chung mà chỉ tập trung tìm
hiểu về Con người cô đơn trong truyện ngắn Bảo Ninh.
4. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận làm rõ Con người cô đơn trong truyện ngắn Bảo Ninh. Từ đó,
khẳng định đóng góp của Bảo Ninh đối với nền văn học đƣơng đại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận tập trung sử dụng các phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp hệ thống
- Phƣơng pháp so sánh- đối chiếu
- Phƣơng pháp phân tích văn học
- Phƣơng pháp khái quát, tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận là công trình khoa học tìm hiểu một cách hệ thống về Con
người cô đơn trong truyện ngắn Bảo Ninh. Từ đó,nhận diện về truyện ngắn
Việt Nam thời kì đổi mới.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
khóa luận đƣợc chia làm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Giới thuyết chung
Chƣơng 2: Nhận diện con ngƣời cô đơn trong truyện ngắn Bảo Ninh
Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện con ngƣời cô đơn trong truyện ngắn
Bảo Ninh
5
- NỘI DUNG
Chƣơng 1
GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Chủ đề con ngƣời cô đơn trong văn học
1.1.1. Chủ đề con người cô đơn trong văn học thế giới
“Cái cô đơn” là đề tài có tính chất triết học truyền thống trong văn học
phƣơng Tây. Có thể thấy đề tài này hiện hình trong nhiều tác phẩm và trong
mỗi con ngƣời. Từ thời Phục Hƣng, Đônkihôtê – một chàng dũng sĩ đơn
thƣơng độc mã với những chuyến đi mong muốn làm hiệp sĩ giang hồ. Anh ta
tách mình ra khỏi cộng đồng ngƣời, đam mê với những loại truyện và tiểu
thuyết kiếm hiệp. Chàng Hămlet (Hamlet) một mình đối diện với cả một đất
nƣớc đầy rẫy sự xấu xa. Hămlet nhận ra “đời chỉ là một vườn hoang, mọc lên
từ những hạt giống độc”. Chàng nhận thức đƣợc sự phức tạp, tráo trở của con
ngƣời. Hămlet đặt ra hàng trăm câu hỏi “sống hay không sống”, “tồn tại hay
không tồn tại”. Anh băn khoăn, hoài nghi cái xã hội mà anh đang sống, bởi lẽ
trong cái vƣơng quốc ấy anh hoàn toàn cô độc, không ai hiểu anh. Thậm chí
là Giăng-Van-Giăng(Những người khốn khổ) hay nàng Anna Karenia (Anna
Karenia), dòng họ nhà Buendia (Trăm năm cô đơn),…Chính cô đơn là
nguyên nhân dẫn đến nhiều cái chết trong các tác phẩm. Nhà thơ Octavio Paz
từng đoạt giải Nobel văn chƣơng năm 1990 cho rằng: “Cái cô đơn là đặc
trưng cuối cùng của thân phận con người” và nhấn mạnh “con người là sinh
vật duy nhất cảm thấy mình cô đơn”. Nhà văn G.G.Marquez (giải thƣởng
Nobel năm 1982 từ cuốn Trăm năm cô đơn) đã từng thừa nhận: “Trên thực tế
mỗi nhà văn chỉ có một cuốn sách, cuốn sách mà tôi đang viết là cuốn sách
nói về cái cô đơn”.
6
- Các nhà văn phƣơng Tây đã xây dựng rất thành công hình tƣợng con
ngƣời cô đơn trong tác phẩm của mình. Tiểu thuyết của F.Kafka nói về thế kỉ
XX đầy biến động, con ngƣời đã trở thành nạn nhân của xã hội. Hơn nữa bản
thân của F.Kafaka lại mang trong mình tƣ tƣởng bi quan sâu sắc, do đó nói tới
thân phận con ngƣời, nhà văn cảm nhận rõ sự cô đơn, bất lực. Nhân vật
GiôdepK rơi vào một vụ án khó hiểu mà không ai giúp đỡ để tìm lối thoát cho
mình. GiôdepK đi đến đâu cũng gặp ngƣời của tòa án theo dõi và rình rập.
Một mình anh phải đối mặt cả với bộ máy pháp quyền trong nỗi cô đơn, sợ
hãi. Lúc đầu GiôdepK còn mắng tòa án nhƣng càng về sau GiôdepK lại càng
tự giác tuân theo, chờ đợi cái chết giáng xuống đầu mình. Đến đây, thực sự
con ngƣời đã tới bƣớc đƣờng cùng, hoàn toàn cô đơn, bất lực. Con ngƣời
không làm chủ đƣợc mình.
Cô đơn đƣợc thể hiện là những u buồn, sự xa lánh muốn trốn tránh thực
tại và sự cô độc của con ngƣời trong xã hội loài ngƣời. Cũng nhƣ các nhà văn
phƣơng Tây, các nhà văn phƣơng Đông cũng xây dựng những tác phẩm viết
về nỗi cô đơn. Cảm thức cô đơn đƣợc phát khởi từ Khuất Nguyên thuở trƣớc,
vọng về thẳm sâu trong tâm hồn con ngƣời bất đắc chí với cuộc đời. Nhà thơ
ƣớc muốn xây dựng một nền “mỹ chỉnh” tốt đẹp nhƣng lại cô độc bởi mọi
ngƣời ghen ghét, đố kị. Và đến với Đỗ Phủ là nỗi buồn, cô đơn chới với của
cả một gia đình, một thời đại, một dân tộc đang oằn mình trong khoảng tối
tăm của trời đất, mang trong mình nhiều bi kịch lịch sử đau thƣơng. Nó là
những lớp trầm tích văn hóa phƣơng Đông xuôi chảy trong dòng thời gian cổ
kim, thức tỉnh đƣợc sự đồng vọng, cảm thông của biết bao ngƣời đời xƣa, đời
nay và cả mãi sau. Ngoài ra ta có thể kể đến những tác phẩm văn xuôi viết về
cái cô đơn của con ngƣời nhƣ: Hồng lâu mộng (tiểu thuyết của Tào Tuyết
Cần). Nhân vật cô đơn trƣớc thực tại cuộc sống với chế độ khoa cử, hôn nhân,
gia đình, tình yêu,… Báu vật của đời, Sống đọa thác đày,…(tiểu thuyết của
7
- Mạc Ngôn), tiểu thuyết Nỗi lòng của nhà văn Nhật Bản Natsume Sô- se – ki,
hay Rừng Na-uy(tiểu thuyết của Haruiki Murakami) đều đề cập đến nỗi cô
đơn của con ngƣời trong xã hội hiện đại. Đó là nỗi ám ảnh của cái chết đối
với sự sống, là mâu thuẫn giữa hiện thực truyền thống chƣa đủ sức để chấp
nhận cái mới ùa vào,… Hầu hết các tác phẩm trên đều ra đời vào thời kì đất
nƣớc bƣớc vào cuộc sống mới, hoặc có sự thay đổi lớn trong cuộc sống của
con ngƣời. Nhà văn đã lấy hiện thực đời sống phản ánh vào trang viết của
mình. Do vậy, hình bóng của nhân vật trong tác phẩm thƣờng mang nỗi cô
đơn.
1.1.2. Chủ đề con người cô đơn trong văn học Việt Nam
Văn học Việt Nam vƣơn đến với bạn đọc thế giới không chỉ là sự đa dạng
về thể loại mà còn là sự phong phú về đề tài. Con ngƣời cô đơn là vấn đề
không ít nhà văn, nhà thơ trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã
tốn giấy mực bàn luận. Có những tác phẩm đề cập đến con ngƣời cô đơn một
cách trực tiếp, nhƣng cũng có những tác phẩm đề cập một cách gián tiếp. Ở
Việt Nam, con ngƣời cô đơn đƣợc các nhà thơ, nhà văn trung đại khai thác từ
rất lâu. Con ngƣời cô đơn bởi mâu thuẫn giữa hiện thực cuộc sống và lý tƣởng
của họ. Điều này ta có thể bắt gặp qua trang thơ của các nhà thơ trung đại nhƣ
Nguyễn Khuyến. Ông cô đơn vì giấc mơ trị quốc bình thiên hạ không thực
hiện đƣợc, đôi tay bất lực đã cáo quan về ở ẩn khi mâu thuẫn giữa hiện thực
và lý tƣởng không thể dung hòa. Đại thi hào Nguyễn Du từng viết: “Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong mỗi trang văn trang thơ của Nguyễn
Du, ta bắt gặp nỗi niềm tâm sự của một con ngƣời cô đơn, mệt mỏi u sầu, mất
đi niềm tin vào cuộc sống. Sinh ra trong cảnh loạn ly, chứng kiến bao nhiêu bi
hoan, tan hợp Nguyễn Du chán ngẩm thế sự, âu lo về con đƣờng tƣơng lai,
không biết ngỏ cùng ai những ƣớc nguyện hùng tâm tráng chí, một mình một
thếvới bao sự cố thăng trầm, với những năm tháng của tuổi già xế bóng,…Dễ
8
- thấy ở những vần thơ chữ Hán của ông có một con ngƣời lặng im, “vô ngôn”,
cô độc tự chôn vùi tâm sự vào lòng mình. Hiếm khi Nguyễn Du tâm sự cùng
ai, chỉ thấy một tấc lòng cô đơn không lí giải:
“Ngã hữu thốn tâm vô dư ngữ”
(Ta có một tấc lòng không biết nói cùng ai)
- My trung mạn hứng –
Tâm sự của Nguyễn Du không thoát ra ngoài, không gửi đƣợc vào thiên
nhiên, không hòa điệu đƣợc vào gió, trăng, mây, nƣớc, mà cơ hồ đã thấm vào
máu thịt con ngƣời. Thi nhân chỉ còn biết đối diện với bốn mùa:
“Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm”
(Mây khói bốn mùa một mình trầm ngâm)
- Thu dạ 2 –
Với bóng đêm:
“Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê”
(Suốt đêm bồi hồi, nghĩ ngợi miên man)
- Ngẫu hứng 2 –
Và đỉnh cao tâm trạng cô đơn của nhà thơ là khi Nguyễn Du đứng trƣớc
thành Tín Dƣơng nghe tiếng kèn mùa thu ảo não, u buồn mà cảm xúc dâng
trào lai láng. Chừng nhƣ Nguyễn Du đã đồng vọng với Thôi Hiệu năm xƣa
khi đứng trƣớc lầu Hoàng Hạc buâng khuâng nhớ về cánh hạc, hoài vọng cái
đã qua, trở về với chính mình, cảm nhận sự cô đơn của gót chân lãng du mà
man mác sầu nhớ quê hƣơng:
“Vạn lí hương tâm hồi thư xứ
Bạch Vân nam hạ bất thăng đa”
(Ở nơi muôn dặm nhớ tới quê hƣơng, ngoảnh đầu nhìn lại
Chỉ trông thấy mây trắng bay về nam không kể xiết)
- Ngẫu hứng –
9
- Nhƣ vậy, bên dòng trôi phi ngã của văn học trung đại, ta vẫn thấy liên tục
và liền mạch sự thể hiện của cái tôi cá nhân trong hành trình cô đơn, lạc lõng
ngay trong thời đại của mình. Vậy hình tƣợng con ngƣời cô đơn đã có nguồn
gốc biện chứng của nó. Dù thể hiện với cách này hay cách khác, ở góc độ này
hay góc độ kia thì hình tƣợng con ngƣời cô đơn cũng đã đƣợc xác định tồn tại
cụ thể là lôgic trong dòng văn học trung đại. Nó phổ quát nhƣng sâu, nó
không đại trà nhƣng tập trung nhiều năng lƣợng. Hầu nhƣ tác giả trung đại
nào cũng có một góc đối diện với chính mình và nhận ra nỗi cô đơn đích thực
đang cự quậy trong sự ổn định của tƣ tƣởng Nho giáo. Cô đơn thƣờng đi liền
với bất an, bế tắc và tuyệt vọng. Mỗi tác giả trên đây đều xây dựng hình
tƣợng con ngƣời cô đơn theo cách riêng của mình.
Đến văn học hiện đại, các nhà Thơ mới cảm thấy bất mãn với hiện thực
cuộc sống nên tìm cách trốn tránh thực tại và quay vềquá khứ. Cảm thức về
nỗi cô đơn đƣợc thể hiện rõ. Xuân Diệu tự coi mình là “chàng sầu”, “con nai
chiều”, “ngƣời kỹ nữ”,… Cùng ngơ ngác trƣớc cuộc đời, nhƣng nếu nhƣ “con
nai vàng” của Lƣu Trọng Lƣ chí ít còn bƣớc đi để lại đằng sau tiếng chân xào
xạc thì “con nai chiều” của Xuân Diệu không thể cất chân vì hoàn toàn bị bủa
vây “chân vƣớng rễ cây, lòng vƣớng muôn dây” giữa chiều rừng tội nghiệp:
“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối"
(Khi chiều giăng lƣới - Xuân Diệu).
Tột đỉnh của sự cô đơn là lúc nhà thơ thấy mình phải đối diện với chính
lòng mình:
"Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn
Chớ để riêng em phải gặp lòng em"
(Lời kỹ nữ - Xuân Diệu).
10
- Nhà thơ Hữu Thỉnh có ý thơ rất sâu sắc khi gán cái cô đơn của chủ thể trữ
tình vào vạn vật:
"Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn… "
(Thơ viết ở biển – Hữu Thỉnh)
Không chỉ ở lĩnh vực thơ ca, ở văn xuôi cảm thức về sự cô đơn cũng
đƣợc thể hiện khá rõ. Đặc biệt, sau năm 1975, đất nƣớc hòa bình và đi vào
quỹ đạo mới, ý thức cá nhân đã xuất hiện trở lại. Văn học đƣợc giải phóng
khỏi chức năng tuyên truyền, cổ vũ để mở rộng khả năng khám phá cuộc
sống. Những biến động lớn, cảm quan bất an trƣớc một thời điểm nhiều xáo
trộn, rạn vỡ là cơ số cho sự quan tâm đến trạng thái cô đơn và hình tƣợng con
ngƣời cô đơn. Chứng tỏ văn học đang có sự quan tâm đến con ngƣời, đến đời
sống tinh thần của con ngƣời. Chủ đề cô đơn góp phần làm mới diện mạo văn
học. Ngƣời ta cảm nhận rằng quan niệm về con ngƣời và văn chƣơng thay đổi
nhiều so với văn học ba mƣơi năm chiến tranh. Ý vị cô đơn thấm đƣợm trong
dòng thơ mang cảm hứng thế sự và đời tƣ, phảng phất trong những bài thơ
triết lí về bản thể con ngƣời. Trong văn xuôi, đề tài chiến tranh, đề tài cải cách
ruộng đất, đề tài hôn nhân gia đình,… khi hiện thực đƣợc phơi mở cũng là lúc
những mặt khuất tối của đời sống hiện lên. Bao giờ cũng thấp thoáng hình ảnh
con ngƣời cô đơn. Đó là văn xuôi Nguyễn Khải với kiểu nhân vật "lạc thời".
Tạ Duy Anh có những trang viết về hành trình cô độc của những con ngƣời
trong cuộc xô dạt dữ dằn của thời cuộc. Đó còn là nỗi cô đơn của những con
ngƣời bất hòa với môi trƣờng sống khi các giá trị truyền thống bị phá sản, khi
các mối quan hệ trong xã hội bị rời rạc, lỏng lẻo. Những con ngƣời kiếm tìm
hoặc chạy trốn đƣợc thể hiện qua nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Ma
11
- Văn Kháng,… Nguyễn Huy Thiệp trong tác phẩm Tướng về hưuđề cậpđến
con ngƣời cô đơn ở một phƣơng diện khác. Ông Nguyễn Thuấn, một vị tƣớng
có uy lực trong quân đội, nay nghỉ hƣu trở về với đời thƣờng, chứng kiến bao
chuyện đau lòng trong gia đình, họ hàng, làng xóm, ông bất lực. Ông cố gắng
để hòa nhập với những con ngƣời ấy nhƣng sự cố gắng của ông đều trở nên
vô nghĩa vì ông không thể nào hòa nhập nổi. Truyện ngắn Phan Thị Vàng
Anh nói đến những con ngƣời trẻ tuổi luôn ở trạng thái hụt hẫng, chơi vơi, cô
đơn vì không điểm tựa tinh thần. Họ phải đối diện với cuộc sống lúc nào cũng
toát lên mùi vị đơn điệu, buồn chán, nhạt nhẽo,…
Nhƣ vậy, cô đơn là chủ đề quen thuộc của văn học Đông Tây kim cổ.
Văn học đƣơng đại Việt Nam nói chung và truyện ngắn của Bảo Ninh nói
riêng cũng tiếp nối quy luật này.
1.2. Truyện ngắn Bảo Ninh trong bối cảnh truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại
1.2.1. Khái niệm truyện ngắn
Truyện ngắn là một thể loại cơ bản của văn học. Các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nƣớc đã đề xuất nhiều định nghĩa khác nhau về truyện ngắn.
Giáo trình Lí luận văn học định nghĩa: “Truyện ngắn đích thực xuất hiện
tương đối muộn trong lịch sử văn học. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới
khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ con người
hay đời sống tâm hồn con người”[14;397].
Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Khác với tiểu thuyết, truyện ngắn
là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó,
truyện ngắn thường hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một
nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người”[3,
371]. Victor Sawdon Pritchett coi truyện ngắn là “một điều gì đó thoáng
trông thấy khi ta đi ngang qua”. Còn John Updike thì nói: “Đấy là các tác
phẩm dài vài ngàn từ, được viết trên cơ sở kinh nghiệm trực tiếp của tôi hơn
12
- là tiểu thuyết. Chúng chứa đựng những cuộc phiêu lưu, những khó khăn,
những giây phút khủng hoảng và niềm vui của chính tôi”.
Xem xét những quan niệm về truyện ngắn nhƣ trên, chúng ta dễ dàng
nhận thấy, mặc dù truyện ngắn là một thể loại có hình thức nhỏ song nó lại chứa
đựng những giá trị nội dung lớn lao. Truyện ngắn gây cho ngƣời đọc một cái
nút, một khúc mắc cần đƣợc giải đáp. Cái nút đó càng thắt chặt đến lúc lên đỉnh
điểm thì đột ngột cởi tung ra, khiến ngƣời đọc hả hê, hết băn khoăn.
Nhƣ vậy, truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ. Nó đƣợc ví nhƣ một
trinh sát viên của thời đại. Nó khoan vào một khúc, cƣa một lát nhƣng nó thật
sâu về một ấn tƣợng nào đó trong cuộc sống. Hình hài của truyện ngắn hiện
đại nhƣ ta thấy hiện nay là một kiểu tƣ duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một
cách nắm bắt cuộc sống rất riêng, mang tính chất thể loại.
Đến nay, truyện ngắn đã ngày một khẳng định vị trí và ƣu thế của mình
trong hệ thống loại hình tự sự của văn học thế giới. Từ những câu chuyện kể
vặt vãnh hàng ngày rất tự nhiên nhƣng dƣới ngòi bút sáng tạo, gọt rũa ngôn từ
của muôn thế hệ nhà văn, truyện ngắn dần dần đƣợc hình thành và phát triển,
thành công nở rộ. Trên văn đàn Việt Nam, tác phẩm Sống chết mặc bay của
Phạm Duy Tốn đƣợc đánh giá là mốc xuất hiện đầu tiên của truyện ngắn. Tác
phẩm đƣợc in trên báo Nam Phong tháng 12 năm 1918. Đây đƣợc coi là
truyện ngắn đầu tiên theo lối Tây phƣơng của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Tác phẩm đƣợc giới thiệu một cách thực ấn tƣợng: Dƣới tiêu đề chữ to MỘT
LỐI VĂN MỚI và lời giới thiệu đặc biệt của chủ báo Phạm Quỳnh, câu
chuyện trải dài suốt ba cột báo. Từ những trải nghiệm thực tế với trận lũ lịch
sử ở Bắc Kì mà Phạm Duy Tốn từng miêu tả trong bài báo nổi tiếng “Hoạn
nạn tƣơng cứu” đã trở thành chất liệu dồi dào để nhà văn viết nên Sống chết
mặc bay. Truyện phản ánh chân thực thảm cảnh xã hội đƣơng thời. Sống chết
mặc bay là “khởi nguyên” của thể loại truyện ngắn trên diễn đàn văn xuôi
13
- Việt Nam, cũng là sự kết thúc hoàn hảo trong sự nghiệp văn học của Phạm
Duy Tốn ở mảng truyện ngắn. Mặc dù ông không viết truyện ngắn nữa nhƣng
trên văn đàn Việt Nam đã có sự kế tiếp của nhiều nhà văn tài năng đã đƣa
truyện ngắn bƣớc thêm một bƣớc tiến mới trên bục đài vinh quang nhƣ Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,...
Truyện ngắn vốn là thể loại mạnh của văn học Việt Nam hiện đại. Giai
đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám, truyện ngắn gặt hái thành tựu với nhiều
cây bút tài năng nhƣ Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,...Ba mƣơi
năm đất nƣớc có chiến tranh, truyện ngắn ghi dấu ấn ở những tên tuổi nhƣ Tô
Hoài, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thành Long, Ma Văn Kháng,...Thời kì
đổi mới, truyện ngắn tiếp tục phát huy đƣợc thế mạnh của mình với một đội
ngũ ngƣời viết đông đảo, trong số đó đặc biệt phải kể đến vai trò của các nhà
văn nhƣ Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng
Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tƣ,… và không thể không nhắc
đến Bảo Ninh.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, văn học cũng cần phải có sự đổi thay
để đáp ứng đƣợc nhu cầu của thời đại. Theo quy luật ấy, truyện ngắn cũngcó
sự vận động, phát triển riêng qua từng giai đoạn. Những đổi mới của truyện
ngắn đƣơng đại đã ngày càng thu hút đƣợc sự quan tâm của độc giả. Đọc một
truyện ngắn chỉ mất khoảng mƣời lăm phút nhƣng khả năng thuyết phục của
nó thì rất rõ. Có thể đây là điều mà độc giả hiện đang rất kì vọng: Truyện
ngắn- một quả bom nghệ thuật với hiệu ứng mạnh mẽ và tức thời.
1.2.2.Diện mạo truyện ngắn Việt Nam đương đại
Sau năm 1975, không khí dân chủ đƣợc mở rộng và cũng là thời kì giao
lƣu văn hóa đa chiều. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng đƣa
đến sự phát triển của văn học nƣớc ta. Thông qua giao lƣu hội nhập, văn học
nƣớc ta có điều kiện để tiếp xúc, lĩnh hội những giá trị đích thực của văn học
14
- thế giới. Các nhà văn cũng có cơ hội để bộc lộ quan điểm và cá tính sáng tạo
của mình. Bên cạnh những cây bút đã trƣởng thành qua hai cuộc kháng chiến
xuất hiện những cây bút mới hăm hở, xông xáo, tài năng và nhiều hoài
bão.Quan niệm văn học thời kì này cũng cởi mở hơn, gắn với cá tính sáng tạo
của ngƣời viết. Các nhà văn không thần thánh hóa văn chƣơng, không đặt vào
đó quá nhiều hi vọng cao siêu. Văn chƣơng cũng nhƣ một hiện tƣợng của đời
sống. “Văn chương sẽ sống cái sức sống của nó. Nhưng như tất cả mọi việc
trên đời này, văn chương cũng có giới hạn, có sự sáng lên, sự mất đi, có cái
cao cả cũng như cái bình thường” (Lê Minh Khuê). “Với tôi văn chương là
một tôn giáo, nó không mang màu sắc chính trị nào cả. Nó là nỗi đau, là khát
vọng của con người” (Thái Thăng Long). Nhƣ vậy, cách nhìn văn học nhƣ
một vũ khí tuyên truyền về cơ bản đã đƣợc giải tỏa. Văn học đã đƣợc nhìn
nhận trong bảnchất đặc thù của nghệ thuật ngôn từ, xuất phát từ quan niệm của
ngƣời cầm bút. Từ đây nhà văn chủ động và tự do hơn trong sáng tạo của mình.
Trong mối quan hệ với độc giả, nhà văn đã thiết lập đƣợc mối quan hệ bình
đẳng thân mật và dành quyền quyết định cuối cùng cho bạn đọc đối với tác
phẩm của mình. Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ cho rằng: “Người viết chỉ nên
làm một người bạn tâm tình với người đọc chứ đừng là người dạy người đọc
vì chưa chắc cứ nhà văn giỏi đã có văn hóa”. Nhiệm vụ của nhà văn không
phải là nói ra chân lí mà thức tỉnh ý thức, hƣớng về chân lí hoặc thức tỉnh
lƣơng tri hoặc ý thức con ngƣời “Nhà văn giữ vai trò là người đối thoại, đưa
ra những nhận xét, đề nghị với người đọc để cùng suy nghĩ, tìm kiếm, có thể
cả tranh luận” (Lê Minh Khuê). Ngƣời đọc ngày nay không còn thụ động,
không tiếp nhận hay đánh giá tác phẩm theo những lối mòn mà có quyền
“đồng sáng tạo” với nhà văn.
Có thể thấy, sau 1975 truyện ngắn Việt Nam đã đạt đƣợc những thành
tựu đáng kể. “Chỉ tính riêng ba cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ, Hội
15
nguon tai.lieu . vn