Xem mẫu

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG ---------***--------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA CÔNG TY SẢN XUẤT XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP HAPROSIMEX Sinh viên thực hiện : Lê Anh Phƣơng Lớp : Anh 18 Khóa : 42E Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Vũ Thị Hạnh HÀ NỘI, 11/2007
  2. LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, quốc tế hoá đang là xu thế chung của toàn cầu. Không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà có thể tăng trƣởng kinh tế mạnh mẽ đƣợc. Trong bối cảnh đó thƣơng mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nền kinh tế trong nƣớc hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hàng dệt may đƣợc coi là một trong những mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, phát triển hàng dệt may là bƣớc đi có tính chất chiến lƣợc và lâu dài. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thƣơng mại thế giới WTO, trong bối cảnh mới này, ngành dệt may Việt Nam đứng trƣớc những cơ hội và thách thức lớn. Là một doanh nghiệp Nhà nƣớc, công ty sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Haprosimex từ khi thành lập đến nay, trải qua nhiều gian nan vất vả nhƣng đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. Cùng với sự phát triển của đất nƣớc, công ty Haprosimex đã dần hoàn thiện mình và đang cố gắng góp phần khẳng định khả năng phát triển của ngành dệt may xuất khẩu. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của công ty còn có một số hạn chế. Sau một thời gian thực tập ở công ty Haprosimex em đã quyết định chọn đề tài: “Các giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty sản xuất xuất nhập khẩu tổng hợp Haprosimex” làm nội dung nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích chung tình hình hàng dệt may thế giới trong xu thế tự do hóa thƣơng mại, phân tích hoạt động xuất khẩu của hàng dệt may ở công ty Haprosimex trong thời gian qua. Qua đó thấy đƣợc những lợi thế, hạn chế và nguyên nhân từ đó đƣa ra một số ý kiến giải pháp để phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty trong thời gian tới. Đề tài chủ yếu chỉ nghiên cứu các vấn đề có liên quan tới hoạt động 1
  3. xuất khẩu hàng dệt may ở công ty Haprosimex trên cơ sở kết hợp các lý thuyết kinh tế đƣợc trang bị tại trƣờng đại học với phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của công ty để đề ra một số giải pháp kiến nghị nhằm phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty. Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Khái quát chung về ngành dệt may thế giới và Việt Nam Chƣơng 2: Thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty Haprosimex Chƣơng 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty Haprosimex Do thời gian thực tập ngắn, khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong đƣợc sự đóng góp của Thầy Cô và bạn bè để khóa luận tốt nghiệp đƣợc hoàn thiện hơn. Đề tài này đƣợc hoàn thành với sự giúp đỡ và hƣớng dẫn trực tiếp của Thạc sỹ Vũ Thị Hạnh. Em xin bày tỏ lòng biết ơn về sự chỉ bảo tận tình, những ý kiến quý báu của Cô trong thời gian qua. 2
  4. CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH DỆT MAY THẾ GIỚI VÀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH DỆT MAY THẾ GIỚI 1. Lịch sử hình thành và phát triển ngành dệt may thế giới Lịch sử phát triển ngành dệt may cũng là lịch sử chuyển dịch công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do tác động của các lợi thế so sánh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là ngành dệt may không còn tồn tại ở các nƣớc phát triển mà nó đã phát triển cao hơn với những sản phẩm thời trang cao cấp để phục vụ cho một nhóm ngƣời . Sự chuyển dịch này bắt đầu vào năm 1840 từ nƣớc Anh sang các nƣớc Châu Âu khác. Tiếp theo là từ Châu Âu sang Nhật Bản vào những năm 1950. Từ năm 1960, khi chi phí sản xuất ở Nhật Bản tăng cao và thiếu nguồn lao động thì công nghiệp dệt may lại chuyển sang các nƣớc mới công nghiệp hoá (NICs) nhƣ Hồng Kông, Đài Loan, Nam Triều Tiên. Theo quy luật chuyển dịch của ngành công nghiệp dệt may thì đến năm 1980 lợi thế so sánh của ngành dệt may mất dần đi, các quốc gia này chuyển sang sản xuất các mặt hàng có công nghệ và kĩ thuật cao hơn nhƣ ô tô, điện tử. Ngành dệt may lại tiếp tục chuyển dịch sang các nƣớc Nam Á, Trung Quốc rồi tiếp tục sang các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. 2. Vai trò của ngành dệt may Công nghệ dệt may thƣờng đƣợc gắn với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hoá ở nhiều nƣớc. Ngành công nghệ dệt may có khả năng tạo nhiều việc làm cho ngƣời lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề phát triển cho các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội. 3
  5. Công nghệ dệt may có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành công nghiệp khác. Khi dệt may là ngành công nghiệp hàng đầu của nền kinh tế, nó sẽ cần một khối lƣợng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế tạo điều kiện để đầu tƣ và phát triển các ngành kinh tế này. Ngƣợc lại, công nghiệp dệt lớn mạnh sẽ là động lực để công nghiệp may và các ngành khác sử dụng sản phẩm dệt làm nguyên liệu phát triển theo. Vai trò của ngành dệt may đặc biệt to lớn đối với kinh tế của nhiều quốc gia trong điều kiện buôn bán hàng hoá quốc tế. Xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh. Điều này đặc biệt thể hiện rõ trong lịch sử phát triển kinh tế của các nƣớc nhƣ Anh, Nhật, NICs, Trung Quốc, Nam Á và Đông Nam Á. Ở các nƣớc đang phát triển hiện nay, công nghệ dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua tăng trƣởng sản xuất bông, đay, tơ tằm và là phƣơng tiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Ở các nƣớc công nghiệp phát triển, công nghệ dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, sản xuất những sản phẩm cao cấp có giá trị gia tăng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của ngƣời tiêu dùng. 3. Đặc điểm của ngành dệt may thế giới 3.1 . Về tiêu thụ Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế, hàng dệt may có những đặc trƣng riêng biệt ảnh hƣởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Một số đặc trƣng đó là: 4
  6. -Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tƣợng tiêu dùng-ngƣời tiêu dùng khác nhau về văn hoá, khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác... sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Nghiên cứu thị trƣờng để nắm vững nhu cầu tiêu dùng của từng nhóm ngƣời trong các thị trƣờng khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm. -Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thƣờng xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng đƣợc nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tƣợng của ngƣời tiêu dùng. Do đó để tiêu thụ đƣợc sản phẩm, việc am hiểu các xu hƣớng thời trang là rất quan trọng. -Vấn đề nhãn mác cũng là một trong những đặc trƣng nổi bật trong buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo đƣợc nhãn hiệu hàng hoá của riêng mình. Nhãn hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thƣờng là yếu tố chứng nhận chất lƣợng hàng hoá và uy tín của ngƣời sản xuất, đây là vấn đề quan tâm trong chiến lƣợc của sản phẩm vì ngƣời tiêu dùng không chỉ tính đến giá cả mà còn rất coi trọng chất lƣợng sản phẩm. -Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ. Phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trƣờng mà cung cấp hàng hoá cho phù hợp. Điều này cũng liên quan đến thời hạn giao hàng. Thói quen tiêu dùng cũng là một đặc điểm cần lƣu ý trong buôn bán hàng dệt may vì nó ảnh hƣởng trực tiếp đến vấn đề tìm thị trƣờng tiêu thụ cho sản phẩm. 3.2 Về sản xuất Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, vốn đầu tƣ ban đầu không quá lớn nhƣng lại có tỷ lệ lãi cao.Vì vậy, sản xuất dệt 5
  7. may thƣờng phát triển mạnh và có hiệu quả rất lớn đối với các nƣớc đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hóa, khi một nƣớc trở thành nƣớc công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt may giảm thì họ lại vƣơn tới những ngành công nghiệp khác có hàm lƣợng kỹ thuật cao, tốn ít lao động và đem lại nhiều lợi nhuận. Công nghiệp dệt may lại phát huy vai trò của mình ở các nƣớc kém phát triển hơn. Lịch sử phát triển của ngành dệt may thế giới cũng là lịch sử chuyển dịch của công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do sự chuyển dịch về lợi thế so sánh. Nhƣ vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở những nƣớc công nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.Trong những năm gần đây, sản xuất dệt may của VN đã có những tiến bộ nhất định và đang cố gắng để hoà nhập với lộ trình của ngành dệt may thế giới. 3.3 . Tác động của tự do hóa thƣơng mại đối với ngành dệt may thế giới Đặc điểm của thị trƣờng dệt may trong giai đoạn hiện nay thể hiện rõ tính toàn cầu hóa và hội nhập, đây là tính chất chung nhất trong phát triển thƣơng mại toàn cầu. Việc sử dụng hàng rào thuế quan và bảo hộ mậu dịch sẽ trở nên lỗi thời, các biên giới thƣơng mại sẽ dần đƣợc xóa bỏ. Trong tƣơng lai việc quyết định nơi sản xuất sẽ là nơi có chi phí lao động thấp và là nơi gần với nguồn cung cấp nguyên liệu đáp ứng nhanh yêu cầu của khách hàng. Vì thế bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều phải tham gia vào thị trƣờng thế giới bằng lợi thế riêng của mình với việc khai thác hiệu quả các công nghệ tiên tiến của thế giới. Sự hội nhập không có nghĩa là tạo ra sự phát triển và nguồn lực nhƣ nhau cho tất cả các quốc gia trên thế giới mà là tạo ra môi trƣờng bình đẳng cho các quốc gia thành viên để phát huy tối đa khả năng của 6
  8. mình trong việc phát triển hàng dệt may, do vậy mà sự phát triển ở mỗi quốc gia sẽ khác nhau. Với các nƣớc có ngành dệt may phát triển nhƣ: EU, Mỹ, Nhật... sẽ tập trung vào thị trƣờng hàng có chất lƣợng cao. Đồng thời, các nƣớc này cũng sẽ chuyển giao công nghệ cho các nƣớc có ngành sản xuất với công nghệ thấp hơn. Với các nƣớc đang phát triển, việc đổi mới công nghệ là yêu cầu sống còn để nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra các sản phẩm chất lƣợng tốt phù hợp với nhu cầu của thị trƣờng. Tuy nhiên do trình độ công nghệ chƣa cao lắm, đồng thời lợi thế của các quốc gia này là giá nhân công rẻ và việc phát triển dệt may còn có ý nghĩa lớn trong việc giải quyết việc làm cho ngƣời lao động với các quốc gia đông dân nhƣ: Trung Quốc, Việt Nam, Inđônêsia....Vì vậy trong tƣơng lai các nƣớc đang phát triển vẫn sẽ tiếp tục sản xuất gia công xuất khẩu là chính nhằm tận dụng giá nhân công rẻ. Bên cạnh đó các quốc gia này cũng sẽ đầu tƣ phát triển một số mặt hàng có chất lƣợng cao, giá cả cạnh tranh nhằm nâng cao mức lợi nhuận thu về từ xuất khẩu. II. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam 1. Lịch sử ngành dệt may Việt Nam 1.1. Giai đoạn trƣớc 1954 Ngành dệt ra đời sớm hơn ngành may, ban đầu chủ yếu là ngƣời dân tự dệt vải phục vụ cho nhu cầu của bản thân rồi sau đó mới xuất hiện các phƣờng dệt nơi tập trung các thợ dệt với mục đích thƣơng mại. Ngành may ra đời muộn hơn, bắt đầu là các thợ may phục vụ triều đình phong kiến. Khi thực dân Pháp xâm lƣợc, chúng thổi vào xã hội Việt Nam lối sống Âu hóa, nhiều nhà may âu phục ra đời. Nhƣng đây cũng là thời kì cả 2 ngành Dệt – May không đƣợc quan tâm phát triển. Với chính sách cai trị độc đoán và hà khắc, thực dân Pháp vơ vét tài nguyên và cấm các nghề truyền thống ngành Dệt – May cũng bị mai một dần. 7
  9. 1.2. Giai đoạn 1954 - 1975: Giai đoạn vừa xây đụng, vừa chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến lớn. Khi đất nƣớc giành độc lập, công nghiệp Dệt – May khôi phục lại. Đảng và Nhà nƣớc coi ngành công nghiệp Dệt – May là ngành ƣu tiên phát triển hàng đầu, một mặt giải quyết nhu cầu xã hội, mặt khác giải quyết công ăn việc làm cho ngƣời lao động. Đƣợc sự quan tâm, chăm lo phát triển của Đảng và Nhà nƣớc, Ngành Dệt - May đã phát triển nhanh chóng. Lực lƣợng sản xuất tăng nhanh với nhiều nhà máy mới đƣợc xây dựng. Đội ngũ công nhân đông đảo hàng vạn ngƣời đã hăng say lao động với tinh thần ''mỗi ngƣời làm việc bằng hai'' theo lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu để tăng nhanh sản lƣợng hàng hóa nhằm đảm bảo nhu cầu cơ bản về sợi, vải chăn, màn, bông băng y tế cho nhân dân và cho lực lƣợng vũ trang. Với khẩu hiệu ''Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lƣợc'', mặc dù cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc ngày càng ác liệt nhƣng công nhân quyết tâm bám ca, bám máy với tinh thần đội bom để sản xuất liên tục, hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nƣớc giao. Vì vậy, Ngành đã chi viện đầy đủ ngƣời và của cho tiền tuyến lớn ''vải không thiếu một mét, quân không thiếu một ngƣời''. Từ phong trào thi đua sản xuất và anh dũng chống chiến tranh phá hoại thời kì này, nhiều cán bộ, công nhân Ngành Dệt - May đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động và nhiều tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa. Những thành tích này đã tô thắm lá cờ truyền thống của Ngành Dệt - May VN trong một giai đoạn vẻ vang nhất của dân tộc ta. 1.3. Giai đoạn 1976 - 1990: Thời kì xây dựng hoà bình và hợp tác toàn điện với các nƣớc XHCN Thời kì xây dựng hoà bình và hợp tác toàn điện với các nƣớc XHCN Ngành Dệt - May VN đã phát triển nhanh chóng về năng lực sản xuất do tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp Dệt - May ở phía Nam và tiếp tục xây 8
  10. nhiều nhà máy lớn trên cả nƣớc nhƣ Nhà máy Sợi Hà Nội, Sợi Vinh, Sợi Huế, Sợi Nha Trang, Dệt Kim Hoàng Thị Loan... Trong các kế hoạch 5 năm (1976-1980, 1981-1985 và 1986-1990), bằng nhiều phong trào thi đua lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, Ngành Dệt - May VN đã hoàn thành xuất sắc trƣớc thời hạn các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nƣớc giao, bảo đảm các nguyên liệu cho sản xuất, vải, quần áo, chăn màn... cho tiêu dùng và là đầu mối xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hoá theo nghị định thƣ hàng năm với các nƣớc xã hội chủ nghĩa, tạo việc làm và đổi về từ 55 - 60 ngàn tấn bông xơ mỗi năm từ Liên Xô. Cho đến năm 1990, Ngành đã có quy mô: về dệt có 129 DNNN, 1.979 HTX và hộ cá thể về may có 166 DNNN, 620 HTX và hộ cá thể. Năng lực thiết bị có 860.000 cọc sợi và 2000 rô to, 43.000 máy dệt (kể cả khung dệt thủ công), 60.000 thiết bị và máy may; đã xây dựng 1 Viện công nghệ sợi dệt và 1 Trung tâm nghiên cứu may. Toàn Ngành có trên 2.000 tiến sĩ, phó tiến sĩ và kĩ sƣ công nghệ dệt may. Sản lƣợng thực hiện cuối năm 1990 đạt 50 ngàn tấn sợi và hơn 450 triệu mét vải (khổ 0,80m), sản xuất 150 triệu sản phẩm may. 1.4. Từ 1991- 1999: Sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trƣờng theo định hƣớng XHCN Tuy quy mô công suất thiết bị đã tăng lên nhanh chóng trong thời kì kế hoạch hoá, nhƣng do mới chỉ làm ra đƣợc những sản phẩm chất lƣợng trung bình và thấp nên khi chuyển sang cơ chế thị trƣờng, Ngành Dệt - May VN đứng trƣớc những khó khăn hết sức gay gắt: thiết bị công nghệ sợi, nhuộm, hoàn tất (khoảng 50%) cũ kĩ, lạc hậu, đã sử dụng 30 - 40 năm (có nhà máy đã sử dụng 50 - 60 năm); máy dệt đa phần khổ hẹp, tiêu hao năng lƣợng và lao động cao; thiếu vốn cho đầu tƣ đổi mới công nghệ và thiếu kĩ năng quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trƣờng. Nhƣng nhờ có đƣờng lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc, đƣợc sự phối hợp của các bộ, ngành trong việc 9
  11. mở thị trƣờng mới, cùng với tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công nhân, các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tƣ nâng cấp thiết bị cũ và đầu tƣ công nghệ mới để sản xuất ra những sản phẩm theo yêu cầu thị trƣờng. Bên cạnh đó, với luật khuyến khích đầu tƣ nƣớc ngoài, các xí nghiệp liên doanh và 100% vốn nƣớc ngoài bắt đầu đầu tƣ vào lĩnh vực dệt may. Trong vòng 10 năm, có gần 170 dự án với số vốn đăng kí hơn 1.600 triệu USD, đã góp phần làm cho Ngành Công nghiệp Dệt - May VN có sự phát triển mới cả về quy mô, trình độ công nghệ, mẫu mã hàng hóa và kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy, đến cuối năm 1999, hơn 30% thiết bị dệt và 95% thiết bị may đã đƣợc đầu tƣ bằng thiết bị, công nghệ tiên tiến. Công suất kéo sợi đạt 177 ngàn tấn, đã sản xuất gần 100 ngàn tấn, trong đó có các loại sợi chất lƣợng cao cho hàng dệt kim và dệt vải cao cấp. Tổng sản lƣợng vải đạt khoảng 500 triệu mét (khổ 0,8m), sản phẩm dệt kim đạt 34.000 tấn, khăn bông 10.000 tấn, mền chăn 1 triệu chiếc, thảm len hơn 5 triệu m2, sản phẩm may khoảng 250 triệu sản phẩm. Tổng số lao động sử dụng gần một triệu ngƣời trong đó số có trình độ kĩ sƣ trở lên hơn 3000 ngƣời. Có 2 viện và 1 trung tâm nghiên cứu, 4 trƣờng đào tạo trung học và công nhân lành nghề. Các Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Kĩ thuật thành phố Hồ Chí Minh đều có khoa đào tạo kĩ sƣ công nghệ sợi, dệt, nhuộm. Từ năm 1991 - 1999, Ngành Dệt - May VN đã có những thay đổi về chất rất quan trọng, từ thiết bị công nghệ đến sản phẩm (nhất là công nghệ may và sản phẩm may). Từ chỗ chỉ sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nƣớc và thực hiện một phần theo Nghị định thƣ với Liên Xô và các nƣớc XHCN Đông Âu đầu vào đầu ra do Nhà nƣớc quyết định, các doanh nghiệp Dệt - May VN đã thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối, tự chọn mua nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, tự định giá mua, giá bán... Đến nay, sản phẩm dệt may VN đã thoả mãn một phần nhu 10
  12. cầu của ngƣời tiêu dùng trong nƣớc và có kim ngạch xuất khẩu lớn sang các thị trƣờng khó tính trên thế giới nhƣ EU, Nhật Bản, Mĩ, Canađa... Thời kỳ 1991 - 1999, toàn Ngành đạt tốc độ tăng trƣởng bình quân khoảng 10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ hạng cao trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nƣớc, chỉ sau dầu thô nhƣng dẫn đầu các ngành chế biến xuất khẩu, đạt gần 1,7 tỉ USD (năm 1999), trong đó hơn 60% sản phẩm xuất khẩu sang thị trƣờng phi hạn ngạch, chiếm 14,6% kim ngạch xuất khẩu cả nƣớc. Tạo việc làm cho gần một triệu lao động công nghiệp, chƣa kể số lao động sản xuất nguyên liệu trồng bông, trồng đay, trồng dâu nuôi tằm). 1.5.Giai đoạn 2000 – 2007 Dệt – May Việt Nam nỗ lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong giai đoạn 2000 – 2005 ngành dệt may Việt Nam đó đạt tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu tƣơng đối cao – bình quân 20%/năm. Năm 2001 tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 2001 triệu USD. Năm 2005 Việt Nam đã xuất khẩu đƣợc 4806 triệu USD tức gấp 2.4 lần so với năm 2001 đứng thứ hai sau dầu mỏ. Nhƣng dù vậy sản xuất hàng dệt may vẫn chủ yếu là gia công, lệ thuộc vào đối tác nƣớc ngoài về mẫu mã, thị truờng và giá cả. Giai đoạn 2005 – 2007 ngành dệt may Việt Nam liên tục có những thành tựu xuất sắc với tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu cao và ổn định. HIện nay Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thƣơng mại thế giới WTO. Việc Việt Nam gia nhập WTO mang lại cả cơ hội và thách thức cho ngành dệt may Việt Nam. Thuận lợi lớn nhất đối với dệt may Việt Nam là các doanh nghiệp sẽ tự do tiếp cận với nhiều thị trƣờng hơn. Các rào cản vào thị trƣờng nƣớc ngoài sẽ bị xóa bỏ. Các doanh nghiệp sẽ ko phải lo chạy hạn ngạch nữa mà tập trung vào sản xuất. Với những doanh nghiệp trƣớc kia 11
  13. không có hạn ngạch thì nay có nhiều khả năng tiếp cận với thị trƣờng may mặc Mỹ. Còn với những công ty đã xuất khẩu vào Mỹ rồi, việc không còn hạn ngạch sẽ tạo cơ hội gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng này. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc tạm thời đang bị Mỹ áp dụng biện pháp tự vệ đến năm 2008 do sau khi gia nhập WTO, nƣớc này đã gia tăng quá nhanh sản phẩm dệt may vào thị trƣờng Mỹ, buộc Mỹ phải áp hạn ngạch với 28 mặt hàng dệt may xuất xứ từ Trung Quốc. Do đó, từ nay đến năm 2008, Việt Nam vẫn có nhiều cơ hội gia tăng xuất khẩu vào thị trƣờng đầy tiềm năng này. Bên cạnh những thuận lợi, ngành dệt may Việt Nam phải đối đầu với những thách thức lớn, mặt trái của WTO là các doanh nghiệp cũng sẽ phải chia sẻ thị trƣờng nội địa cho các đối thủ nƣớc ngoài. Điều lo ngại nhất đối với các doanh nghiệp dệt may chính là sự cạnh tranh trên sân nhà sẽ trở nên gay gắt hơn, bởi các chính sách hỗ trợ của Chính phủ dành cho ngành không còn và quan trọng hơn là hàng rào thuế quan bảo hộ doanh nghiệp ở thị trƣờng nội địa cũng bị dỡ bỏ. Tình hình ngành dệt may Việt Nam qua 9 tháng đầu năm 2007 có những bƣớc tiến rất đáng kể. Xuất khẩu dệt may qua 9 tháng đầu năm 2007 đã đạt 5,805 tỷ USD, trong khi dầu thô mới chỉ đạt 5,781 tỷ USD. Nhƣ vậy, vị trí dẫn đầu xuất khẩu của dầu thô trong suốt những năm qua đã bị thay thế bởi dệt may. Theo số liệu của Phòng Thƣơng mại Biella (Italia) đƣa ra trong chuyến làm việc mới đây tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam đã lọt vào top 10 nƣớc và vùng lãnh thổ xuất khẩu lớn nhất thế giới. Hiện Việt Nam đứng sau Trung Quốc, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, ấn Độ, Mêxicô, Hồng Công (Trung Quốc), Băngla Đét và gần ngang bằng với Inđônêxia, Mỹ. Với mức tăng trƣởng 30% và dự kiến đạt 7,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu trong năm 2007, Việt Nam đã có bƣớc nhảy vọt từ vị trí thứ 16 lên top 10. 2. Vai trò của ngành dệt may đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. 12
  14. 2.1. Ngành dệt may góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế Việc chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế đƣợc thể hiện rõ nhất là sự chuyển đổi cơ cấu của các ngành kinh tế mũi nhọn trong đó vai trò của ngành dệt may Việt Nam trong quá trình chuyển dịch cơ cấu là không thể phủ nhận. Xét về cơ cấu các thành phần kinh tế tham gia ngành dệt may Việt Nam, trƣớc thời mở cửa chỉ có các công ty, xí nghiệp và hợp tác xã quốc doanh hoạt động với tổng sản lƣợng bị hạn chế, nhƣng sau khi Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng mở cửa, phát triển kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần, ngành dệt may Việt Nam đã thể hiện sự năng động chuyển mình đáng khâm phục, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dệt may Việt Nam bao gồm đầy đủ cả doanh nghiệp nhà nƣớc, tƣ nhân, liên doanh và 100% vốn nƣớc ngoài. Hiện nay ƣớc tính có khoảng 1200 doanh nghiệp dệt may trong toàn ngành và hàng chục ngàn cơ sở nhỏ khác (tính mọi thành phần kinh tế) trên lãnh thổ Việt Nam có: 187 doanh nghiệp dệt may nhà nƣớc (Trung ƣơng và địa phƣơng, trong đó 72 thuộc về lĩnh vực sợi, dệt, nhuộm, 117 doanh nghiệp May. Khoảng 800 công ty trách nhiệm hữu hạn, cổ phần, tƣ nhân trong đó khoảng 600 đơn vị là may mặc, thêu và đan len chủ yếu ra đời từ năm 1998 trở lại đây. 2.2. Ngành dệt may góp phần mở rộng hợp tác quốc tế 2.2.1. Hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ Cùng với xu hƣớng hòa bình, hợp tác trên thế giới, kinh tế, công nghệ, khoa học và môi trƣờng không còn có thể bó hẹp trong pham vi từng quốc gia. Do tác động ngày càng sâu rộng của cuộc cách mạng mới trong khoa học và công nghệ, những hoạt động sản xuất ngày càng có tính chất tƣơng tác qua lại vƣợt ra khỏi khuôn khổ từng quốc gia riêng lẻ. 13
  15. Trong những dự án đầu tƣ liên doanh và 100% vốn nƣớc ngoài đang triển khai hoạt động tại Việt Nam thì các lĩnh vực đầu tƣ chủ yếu của họ là hƣớng vào đầu tƣ khoa học công nghệ, máy móc thiết bị cho các ngành Sợi – Dệt - Nhuộm - Đan len - May mặc - Phụ tùng máy may. 2.2.2. Hợp tác và hội nhập dƣới góc độ thƣơng mại Dƣới góc độ kinh tế, sự hội nhập trong ngành dệt may Việt Nam với thế giới đƣợc thể hiện ở việc phát triển theo chiều rộng và chiều sâu các giao dịch thƣơng mại với các nƣớc khác một cách có hiệu quả. Xét dƣới góc độ kinh tế, sự hội nhập trong ngành dệt may Việt Nam với thế giới đƣợc thể hiện ở việc phát triển theo chiều rộng và chiều sâu các giao dịch thƣơng mại với các nƣớc khác một cách có hiệu quả. Xét dƣới góc độ hợp tác theo con đƣờng đầu tƣ nƣớc ngoài ta có thể thấy tốc độ tăng trƣởng sản xuất trong quá trình phát triển của ngành dệt may Việt Nam bình quân đạt 10,7%/năm trong đó có sự đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài . Hiện nay Việt Nam có 170 dự án đầu tƣ liên doanh và 100% vốn nƣớc ngoài đang triển khai hoạt động với tổng số vón đầu tƣ ƣớc tính là 1,2 tỉ đô la. Tính đến nay trong số 13 nƣớc tham gia đầu tƣ, Đài loan và Hàn quốc là hai nƣớc có số dự án nhiều nhất. Ngoài ra Nhật Bản, Hồng Kông là những nƣớc kế tiếp đầu tƣ nhiều trong lĩnh vực may mặc. 2.3. Ngành dệt may góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân Trong bốn thập kỷ qua, công nghiệp dệt may luôn có vị trí quan trọng trong đời sống con ngƣời, đây là ngành tạo nhiều công ăn việc làm nhất cho ngƣời lao động. Lao động ngành may chiếm 25% lực lƣợng lao động công nghiệp: 5,58% giá trị sản xuất công nghiệp (1999). Năm 2000 ngành này đang 14
  16. có 1,6 triệu lao động và dự kiến năm 2005 sẽ sử dụng 3 triệu lao động, năm 2010 là 4,5 triệu lao động. Nƣớc ta vốn là nƣớc có dân số phát triển khá nhanh, nguồn lao động dồi dào và ngƣời dân vốn cần cù, khéo léo. So với các nƣớc khác giá sinh hoạt ở Việt Nam thấp hơn do đó giá nhân cũng rẻ hơn, đây cũng là điều kiện quan trọng tạo cho hàng hoá của ta nói chung và hàng dệt may nói riêng có ƣu thế cạnh tranh thị trƣờng thế giới. Ngành dệt và đặc biệt là ngành may nƣớc ta có đội ngũ công nhân lành nghề, tiếp thu kỹ thuật nhanh, có thể sản xuất những sản phẩm chất lƣợng cao do vậy may công nghiệp đang là một thị trƣờng gia công hấp dẫn các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Nói đến vai trò của dệt may Việt Nam với việc cải thiện đời sống nhân dân, trƣớc hết nó thể hiện ở việc cung cấp sản phẩm may mặc đến cho từng ngƣời dân Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu giành độc lập, Bác Hồ kính yêu đã nói những lời hết sức giản dị nhƣng thật là vĩ đại: “Tôi có mong ƣớc là đất nƣớc đƣợc thống nhất, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc và đƣợc đi học”. Ngƣời Việt Nam bây giờ quan tâm đến mặc đẹp hơn là mặc ấm và mặc lành, điều đó đã chứng tỏ sự đóng góp quan trọng của ngành dệt may Việt Nam đối với việc cải thiện đời sống nhân dân. Ngoài ra, vai trò của dệt may Việt Nam với việc cải thiện đời sống nhân dân còn đƣợc thể hiện ở nguồn lợi mà nó đem về cho đất nƣớc, từ tổng kim ngạch xuất khẩu, ngân sách nhà nƣớc có nguồn thu, từ đó nhân dân có bệnh viện, trƣờng học, nơi vui chơi giải trí và các công trình phúc lợi xã hội. Với vai trò vừa thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc, vừa là nguồn xuất khẩu thu ngoại tệ chủ yếu, ngành dệt may luôn luôn là một trong những ngành kinh tế lớn của đất nƣớc và đƣợc Nhà nƣớc khuyến khích phát triển. Bảng 1.1: Kim ngạch XK hàng dệt may Việt Nam 2001- 9 tháng 2007 Đơn vị: Triệu USD Năm Kim ngạch xuất khẩu Tổng kim ngạch Tỷ trọng / 15
  17. dệt may xuất khẩu tổng số 2001 2000 15100 7.55 2002 2710 16530 6,1 2003 3630 19880 5,5 2004 4319 26003 6 2005 4806 34278 7,13 2006 5800 40000 14,5 9 tháng 2007 5805 35200 16,5 (Nguồn: Tổng công ty Dệt - May Việt Nam) Qua bảng trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam liên tục tăng qua các năm và ngày càng góp phần quan trọng trong việc tăng tổng kim ngạch xuất khẩu. Đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thƣơng mại thế giới, kim ngạch xuất khẩu dệt may có bƣớc tiến vƣợt bậc, chiếm tỷ trọng 16,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm 2007 tăng 2% so với tỷ trọng/ tổng số của toàn năm 2006. 3. Những khó khăn và thuận lợi của ngành dệt may Việt Nam 3.1. Những thuận lợi Ngành dệt may VN đƣợc đánh giá là ngành có lợi thế so sánh cao nhờ các yếu tố : - Nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ, tuy nhiên đây không phải là yếu tố ổn định trong cạnh tranh. Khi trình độ khoa học kỹ thuật nâng cao, lợi thế về lao động sẽ không còn sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tƣ nữa. - Vị trí địa lý và điều kiện giao lƣu hàng hoá: VN nằm trong khu vực Đông Nam Á, Vị trí của VN cũng thuận tiện cho việc phát triển giao lƣu hàng 16
  18. hải quốc tế với các khu vực trên thế giới với bờ biển dài, có nhiều hải cảng nƣớc sâu và có khí hậu tốt... - Khả năng cung cấp nguyên liệu: VN có rất nhiều vùng có điều kiện khí hậu thổ nhƣỡng phù hợp cho sự phát triển cây bông. Nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa truyền thống của VN đã đƣợc phát triển với việc áp dụng kỹ thuật mới, cho ra đời các sản phẩm có chất lƣợng cao, đƣợc ƣa chuộng trên thế giới tuy sản lƣợng còn thấp. - Khả năng đổi mới thiết bị công nghệ: Trang thiết bị ngành may đã có những thay đổi đáng kể với các thiết bị công nghệ mới của các nƣớc tiên tiến, có thể sản xuất những mặt hàng chất lƣợng quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp may có quy mô vừa và nhỏ, có khả năng thích nghi linh hoạt, dễ dàng đổi mới trang thiết bị, công nghệ theo điều kiện biến động của thị trƣờng. - Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ: Ngành dệt may với đặc điểm có hàm lƣợng lao động lớn và có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao, đƣợc xếp vào lĩnh vực khuyến khích đầu tƣ phát triển. Nhiều chính sách thƣơng mại và đầu tƣ đã có tác dụng thiết thực trong việc tạo môi trƣờng kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp dệt may và thu hút vốn đầu tƣ vào lĩnh vực này. - Khả năng cạnh tranh: Xuất phát từ những lợi thế trên, mặc dù sản phẩm dệt may của VN hầu nhƣ chƣa đƣợc biết đến trên thị trƣờng thế giới nhƣng sản phẩm may xuất khẩu của VN đƣợc đánh gía cao về nhiều phƣơng diện. Chất lƣợng sản phẩm tốt và ổn định, thời gian giao hàng đƣợc xem vào loại tốt nhất so với các nƣớc Châu Á. 3.2. Những khó khăn Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, ngành dệt may VN đang phải đƣơng đầu với nhiều khó khăn và thách thức từ nhiều phía: 17
  19. -Không những phải nhập nguyên liệu, mà hầu hết các phụ liệu khác ngành may xuất khẩu cũng phải nhập ngoại, một phần do sản xuất phụ liệu trong nƣớc chƣa đƣợc chú trọng đúng mức, một phần do khách hàng nƣớc ngoài yêu cầu phải sử dụng phụ liệu do bên họ cung cấp. Vì vậy, các doanh nghiệp thƣờng rơi vào thế bị động do nguồn cung cấp nguyên phụ liệu chậm chễ, thiếu đồng bộ hay không đảm bảo quy cách phẩm chất. -Trình độ thiết kế kiểu mẫu còn chƣa phát triển. -Về cơ chế quản lý nhập khẩu: Bên cạnh những thay đổi đáng kể trong công tác quản lý XNK, nhiều hính sách biện pháp vẫn còn bất cập, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất-XNK hàng dệt may. Có thể nói, sản phẩm dệt may của Việt Nam vẫn kém cạnh tranh hơn nhiều nƣớc trong khu vực về nhiều mặt : + Về giá: Do hầu hết phải nhập khẩu từ nguyên phụ liệu đến công nghệ, thiết bị, mặt khác do VN chỉ làm những khâu cắt, ráp, đóng góp ... có giá trị gia tăng thấp, nên giá thành sản phẩm vẫn còn khá cao trong thị trƣờng cạnh tranh. + Về cơ cấu sản phẩm: sản phẩm dệt may VN vẫn còn đơn điệu. Khả năng đa dạng hoá mặt hàng không theo kịp với sự thay đổi của yêu cầu thị trƣờng, đặc biệt là với các trang phục cao cấp. + Về thị trƣờng: VN đang tham gia vào thị trƣờng thế giới khi thị trƣờng đã khá định hình, phải cạnh tranh với các nƣớc có cùng loại sản xuất xuất khẩu nhƣng có trình độ phát triển cao hơn, có tên tuổi và uy tín trên thị trƣờng, lại đƣợc ƣu đãi hơn trong các Hiệp định song phƣơng hay đa phƣơng về hàng dệt may với các nƣớc nhập khẩu . + Về cơ sở hạ tầng: So với nhiều nƣớc trong khu vực, cơ sở hạ tầng của VN kém cạnh tranh hơn về nhiều phƣơng diện: Các dịch vụ tài chính, ngân 18
  20. hàng kém phát triển, điều kiện giao thông vận tải kho tàng, bến bãi vừa thiếu vừa yếu kém, chi phí điện nƣớc, liên lạc viễn thông cao,... Với mặt hàng dệt may, khối lƣợng nguyên liệu nhập khẩu cũng nhƣ xuất khẩu thành phẩm cần phải chuyển tải lớn thì các yếu tố trên càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, VN cũng đang cố gắng khắc phục dần những yếu điểm của mình để đi lên hoà nhập cùng nhịp với thế giới và ngành dệt may VN cũng nhƣ hàng dệt may của VN cũng đang từng bƣớc chuyển đổi cho phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA CÔNG TY HAPROSIMEX I. Giới thiệu chung về công ty 1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Haprosimex Tên tiếng Việt: Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội 19
nguon tai.lieu . vn