Xem mẫu
- KHI NGÂN HÀNG ĐÀNH PHẢI
“SOI” NGÂN HÀNG
Gần một tháng kể từ khi Thông tư số 21 quy định về hoạt động cho vay,
đi vay giữa các tổ chức tín dụng có hiệu lực, thị trường đang định hình
các tác động và cả một số vấn đề xoay quanh nó.
Ngay trong tuần đầu tiên áp dụng, doanh số giao dịch trên thị trường liên
ngân hàng đã sụt giảm rất mạnh, gần 50% cả bằng VND lẫn USD so với các
tuần liền trước. Tuần thứ hai, doanh số đã tăng trở lại nhưng vẫn ở mức thấp
rõ rệt.
Có ba nguyên do chính có thể đặt ra.
Một là, với cơ chế mới, ngân hàng nào có nợ quá hạn từ 10 ngày trên liên
ngân hàng sẽ không được tham gia giao dịch đi vay, lượng thành viên và
nhu cầu vay theo đó bị giảm.
Hai là nguyên do mang tính kỹ thuật, khi các khoản tiền gửi trên liên ngân
hàng bị chuyển thành tiền vay, các tổ chức tín dụng bị hổng đi một phần để
tính cho các tỷ lệ khả năng chi trả theo quy định tại Thông tư 13, một phần
nhu cầu giao dịch phải “khựng” lại để cân đối.
Ba là, bên cho vay thận trọng khi thực hiện khung pháp lý mới, quan ngại
trước những rủi ro có thể phát sinh.
- Hàng chục câu hỏi được các thành viên gửi về Ngân hàng Nhà nước “nhờ”
giải đáp đủ để thấy Thông tư 21 là một văn bản có nhiều điểm kỹ thuật cần
xác định rõ hơn, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các thành viên.
Với thị trường và giá trị tín hiệu của nó, việc thực hiện Thông tư 21 cũng
phát đi một thông điệp: ngay chính các ngân hàng thương mại cũng phải
“soi” nhau kỹ khi thực hiện giao dịch, hay ngay cả môi trường giữa các ngân
hàng thương mại cũng đã tiềm ẩn rủi ro.
Thực tế, rủi ro và nghi ngờ lẫn nhau đã có trên thị trường liên ngân hàng từ
cuối năm 2011, khi lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện cơ chế phải bảo đảm,
thế chấp trong giao dịch sau khi xuất hiện các khoản tiền gửi không thu hồi
được đúng hạn. Giá trị của một môi trường giao dịch có độ tin cậy cao nhiều
năm qua đã không còn nguyên vẹn.
Và với Thông tư 21, nó đã thay đổi bản chất, hay như cách nói của Ngân
hàng Nhà nước là “đưa các giao dịch vốn trên thị trường liên ngân hàng về
đúng bản chất”. Theo đó, các khoản tiền gửi giữa các tổ chức tín dụng đã
được chuyển thành tiền vay; không được gửi lẫn nhau, ngoại trừ tiền gửi
thanh toán.
Có hai tình huống mà các tổ chức tín dụng phải dự phòng: một là, làm sao để
- tránh việc “không may” cho vay phải thành viên không đủ điều kiện, nếu
cho vay thì có thể vướng rắc rối về tính pháp lý của giao dịch; hai là khó
kiểm soát được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích của bên đi vay.
Ở tình huống thứ nhất, có thành viên đề nghị Ngân hàng Nhà nước thiết lập
kênh công bố, cập nhật thông tin về tình trạng nợ của các tổ chức tín dụng để
bên cho vay biết trước khi ra quyết định cho vay. Đây cũng là một sự hỗ trợ
cần thiết để hạn chế rủi ro trong giao dịch.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước đưa ra câu trả lời rằng: Thông tư 21 không
quy định Ngân hàng Nhà nước phải cung cấp các thông tin về các tổ chức tín
dụng không có đủ điều kiện đi vay cho thị trường biết.
Như vậy, bên cho vay phải tự bảo vệ mình bằng cách “soi” kỹ đối tác; bên
vay phải chịu trách nhiệ m trong việc cung cấp thông tin. Mặt khác, nếu
không đủ điều kiện mà vẫn đi vay, tổ chức tín dụng đó mặc nhiên là đã vi
phạm quy định. Và trường hợp tổ chức tín dụng cho vay phải đối tác không
đủ điều kiện, giao dịch đó có được coi là vô hiệu theo quy định tại Điều 128
Bộ Luật Dân sự hay không thì phải nhờ đến tòa án.
Tương tự, ở tình huống thứ hai, theo Ngân hàng Nhà nước, bên vay phải
trung thực, chính xác và chịu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin về
mục đích vay. Trường hợp xẩy ra tranh chấp pháp lý, hướng xử lý là hai bên
dẫn nhau ra tòa.
Trong cả hai tình huống trên, bên cho vay trở nên đơn độc, ngay cả ở yêu
cầu có thông tin hỗ trợ từ cơ quan quản lý và giám sát. Điều này khiến họ
- thận trọng hơn trong giao dịch trên liên ngân hàng, phải “soi” kỹ hơn các đối
tác.
Với một môi trường có những đổi thay như vậy, thị trường liên ngân hàng
trở nên chặt chẽ và tăng độ an toàn hơn trước - mục đích mà Ngân hàng Nhà
nước hướng đến khi thay đổi bản chất của nó. Song mặt trái là, các dòng
chảy sẽ bớt đi sự thông thoáng, kịp thời bởi vướng phải sự dò xét và cẩn
trọng trong những tình huống trên. Vai trò điều hòa tiết hỗ trợ thanh khoản,
cân đối vốn giữa các thành viên của thị trường liên ngân hàng theo đó cũng
bị hạn chế nhất định.
Trong bối cảnh bình thường thì không sao, nhưng khi hệ thống gặp khó khăn
thanh khoản, mất cân đối vốn cục bộ, những hạn chế đó sẽ bộc lộ rõ hơn và
có thể khiến tình hình càng trở nên xấu hơn
nguon tai.lieu . vn