Xem mẫu
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019
KHẢO SÁT THÀNH PHẦN LOÀI NẤM ĂN TẠI VƯỜN QUỐC GIA
TÀ ĐÙNG, TỈNH ĐẮK NÔNG
TRẦN THỊ KIM THI*
NGUYỄN HỮU KIÊN , NGUYỄN PHƯƠNG ĐẠI NGUYÊN***
**
Khoa Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Trường Đại học Tây Nguyên
*
Email: kimthi0612@gmail.com
**
Email: huukienbmt@gmail.com
***
Email: nguyendhtn@gmail.com
Tóm tắt: Nấm ăn là nguồn lâm sản quý thường được người dân địa phương sử dụng
làm thực phẩm. Chúng có vai trò rất lớn với sức khỏe của con người vì chúng có giá
trị dinh dưỡng cao, giàu khoáng chất và các vitamin. Qua kết quả điều tra, thu thập
và định danh các loài nấm ăn tại Vườn Quốc gia Tà Đùng, tỉnh Đắk Nông, chúng tôi
đã xác định được 8 loài nấm ăn thuộc 5 họ 5 chi. Phần lớn các loài nấm ăn thu thập
được thuộc họ Gomphacease và họ Boletaceae. Trong đó có 3 loài nấm là Ramaria
stricta (Pers.) Quesl. 1888, Amanita caesarea (Scop.) Pers. (1801), Boletus regius
Krombh 1832 được ghi nhận mới cho Tây Nguyên.
Từ khóa: Nấm ăn, Vườn Quốc gia Tà Đùng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam đã thống kê được có khoảng hơn 200 loài nấm ăn được, trong đó khoảng 50
loài là những loài nấm ăn thường được người dân địa phương sử dụng, trong đó có nhiều loài
nấm là món ăn đặc sản và quý. Hầu như tất cả các loài nấm ăn được ở Việt Nam đều thuộc nấm
Đảm (Basidiomycota), có một số ít loài thuộc nấm Túi (Ascomycota). Chúng thuộc các chi nấm
như Boletus, Cantharellus, Ramaria [7]… Có thể kể đến các loài nấm ăn quan trọng như các
loài Mộc nhĩ thuộc chi Auricularia (7 loài), Ngân nhĩ thuộc chi Tremella (5 loài), Nấm rơm
(Volvariella volvacea (Fr.) Sing.), Nấm mối Termitomyces (3 loài), Nấm thông (Boletus edulis
Bull.: Fr.), Nấm chàm (Boletus aff. felleus (Bull. : Fr.) Karst.), Nấm bào ngư (Pleurotus spp.),
Nấm mào gà (Cantherellus cibarius Fr.), Nấm ngọc châm (Hypsizigus marmoreus (Peck)
Bigelow), Nấm kim châm (Flammulina velutipes (Curt. ex Fr.) Sing) [3, 4],... Tác giả Lê Văn
Liễu (1977) [6] đã thống kê có 6 chi và 19 loài thuộc họ nấm gan bò (Boletaceae), trong đó có
một số loài nấm ăn được ở dưới tán rừng thông. Theo Tôn Thất Minh và cộng sự (2009), khi
thực hiện đề tài “Điều tra, phân loại các loài nấm dưới tán thông tỉnh Lâm Đồng” đã mô tả 21
loài, 6 chi thuộc họ Boletaceae trong đó có 10 loài nấm ăn có giá trị thực phẩm [8].
Vườn Quốc gia Tà Đùng (thuộc địa giới hành chính xã Đắk Som, huyện Đắk Glong) được
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định thành lập ngày 8/2/2018 trên cơ sở chuyển hạng
mục từ Khu Bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng (được thành lập năm 2003). Với diện tích 20.937,7
ha và tỷ lệ che phủ rừng tới 85% diện tích vùng lõi Vườn Quốc gia (rừng nguyên sinh hơn 48%
và hơn 36% rừng thứ sinh các loại), Tà Đùng có các hệ sinh thái đa dạng và sinh cảnh phù hợp
cho sự cư trú, phát triển của nhiều hệ động thực vật [11]. Đây là điều kiện tự nhiên rất thuận lợi
cho nấm phát triển, đặc biệt là vào mùa mưa. Tại đây, nấm phát triển rất phong phú, tuy nhiên,
hiện nay ở Việt Nam chưa có tác giả nào có những công bố về nấm thuộc Vườn quốc gia Tà
Đùng. Đặc biệt là tri thức về các loài nấm ăn. Vì vậy, việc điều tra thành phần loài Nấm ăn tại
Vườn quốc gia Tà Đùng, tỉnh Đắk Nông nói riêng là cần thiết để đánh giá độ đa dạng loài, tổng
hợp các loài nấm ăn được trong cộng đồng, từ đó làm tư liệu phục vụ cho những hướng nghiên
cứu sâu hơn về ứng dụng và bảo tồn.
359
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thu thập, xử lý mẫu nấm
Việc thu mẫu theo tuyến sinh cảnh và phân tích mẫu nấm được thực hiện theo các phương
pháp của Trịnh Tam Kiệt (2011, 2012, 2013) [3, 4, 5], Lê Bá Dũng (2003) [1], Teng (1996) [9].
Nguyên tắc của phương pháp: Mẫu được thu thập theo các sinh cảnh rừng khác nhau. Tại
các sinh cảnh tiến hành khảo sát theo tuyến, lặp lại 1-2 lần. Mẫu được thu thập theo tuyến, ở
các giai đoạn phát triển khác nhau (non, trưởng thành, già). Sau đó, quan sát, mô tả màu sắc,
kích thước, hình dạng, sinh cảnh... và tiến hành chụp hình mẫu Nấm khi ở ngoài tự nhiên với
nhiều tư thế khác nhau (mặt trên, mặt dưới…) rồi thu mẫu. Mẫu lấy được bảo quản nơi thoáng
mát, tiến hành làm tiêu bản ngâm với formalin 5% hoặc tiêu bản khô.
2.2. Phân tích mẫu và định danh
Phân tích các đặc điểm sinh học, sinh thái: Phân tích đặc điểm hiển vi như bào tử, bào
tầng hệ sợi, đảm… sử dụng kính hiển vi Olympus (Nhật) và hình thái ngoài như sử dụng kính
lúp bảng so màu tại phòng thí nghiệm bộ môn Sinh học, Trường Đại học Tây Nguyên.
Định danh loài: Theo phương pháp hình thái giải phẫu so sánh dựa trên tư liệu gốc của
Trịnh Tam Kiệt (2011, 2012, 2013) [3, 4, 5], Lê Bá Dũng (2003) [1], Teng (1996) [9], Lê Văn
Liễu (1977) [6],…
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Danh mục thành phần loài nấm ăn tại Vườn Quốc gia Tà Đùng, Tỉnh Đắk Nông
Qua các đợt điều tra thu thập các loài nấm lớn tại Vườn quốc gia Tà Đùng chúng tôi thu
được 60 mẫu nấm. Bước đầu khảo sát chúng tôi đã ghi nhận có 08 loài nấm ăn thuộc 5 chi 5
họ, được thể hiện dưới bảng sau:
Bảng 1. Danh lục các loài nấm ăn tại Vườn Quốc gia Tà Đùng, tỉnh Đắk Nông
Tên
Stt Tên khoa học Chi Họ Ghi chú
thường gọi
Ramaria subbotrytis Nấm san hô Ramaria Holmsk Ăn được
1 Gomphacease
(Coker) Corner 1950 hồng (1790) [2]
Ramaria stricta (Pers.) Ramaria Holmsk Ăn được
2 Nấm san hô nâu Gomphacease
Quesl. 1888 (1790) [10]*
Ramaria Flava (Schaeff.) Nấm san hô Ramaria Holmsk Ăn được
3 Gomphacease
Quél. 1888 vàng (1790) [2]
Pleurotus ostreatus sensu
Ăn được
4 Cooke [III. Brit. Fung. Pleurotus Pleurotaceae
[1]
279 (195) Vol.2 (1883)
Amanita caesarea (Scop.) Amanita Amanitaceae Ăn được
5 Nấm trứng gà
Pers. (1801) [9]*
Auricularia polytricha Auricularia Auriculariaceae Ăn được
6 Nấm mộc nhĩ
(Mont.) Sacc. 1885 [1]
Boletus ornatipes Peck Nấm gan bò Boletus Boletaceae Ăn được
7
1878 vàng [1]
Boletus regius Krombh Boletus Boletaceae Ăn được
8 Nấm gan bò tía
1832 [3]*
(*: Ghi nhận mới đối với khu hệ nấm lớn Tây Nguyên so với Nấm lớn Tây Nguyên của tác giả Lê Bá Dũng, 2003).
360
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019
Qua bảng 1, chúng tôi nhận thấy ở khu vực chúng tôi tiến hành khảo sát phần lớn các loài
nấm ăn thu thập được thuộc họ Gomphacease và họ Boletaceae. Trong đó có 3 loài thuộc họ
nấm Gomphacease và 2 loài thuộc họ Boletaceae.
Các loài nấm này đa số mọc trên đất, thường sinh trưởng và phát triển ở những nơi có độ
ẩm cao, mọc từ tháng 5 đến tháng 10 trong năm.
3.2. Đặc điểm sinh học, sinh thái của một số loài nấm ăn tại Vườn Quốc gia Tà Đùng, tỉnh
Đắk Nông
3.2.1. Loài Ramaria subbotrytis (Coker) Corner 1950
Quả thể dạng khối san hô màu hồng đến hồng đậm, cao từ 6-12 cm và tạo khối tán có
đường kính từ 6-8 cm. Phân nhánh 4-5 lần từ nơi gần gốc, đỉnh ngọn phân từ 2-6 ngọn, phân
nhánh phóng xạ không đều, thường có 3-5 nhánh lớn. Các nhánh lớn và sát nhau ở dưới càng
lên trên càng mở rộng, kéo dài và càng nhỏ dần. Các nhánh ở gần gốc có màu trắng sau đó hồng
đậm dần về phía ngọn. Gốc có màu trắng, không phình và dài khoảng 2,5-3 cm. Thịt nấm mềm,
có màu trắng bên trong, thịt nấm có mùi nhẹ dịu.
Hệ sợi có vách ngăn và phân nhánh, đường kinh khoảng 2-2,5 µm. Bào tử có dạng hình
tròn hơi hướng elip, nhọn 1 đầu là điểm để nảy nầm, vách dày, kích thước khoảng 3-5 x 5-8µm.
Đảm hình chùy, đơn bào, đồng nhất chứa 4 bào tử, kích thước khoảng 4-6 x 23-26 µm.
Đặc điểm sinh thái: Nấm mọc đơn độc, rời gốc trên đất trong rừng lá kim hoặc rừng lá
rộng. Nấm mọc ở độ ẩm 70-75%, nhiệt độ 20-22°C. Nấm thường mọc từ tháng 8 đến tháng 10
hàng năm.
3.2.2. Loài Ramaria stricta (Pers.) Quesl. 1888
Quả thể dạng khối san hô màu nâu khói, thường sẽ tối màu hơn nấu thời tiết hanh khô. Kích
thước quả thể đạt 8-11 x 5-7 cm. Nhánh phân chia trung bình 4-6 lần có thể lên đến 8 lần, đỉnh
ngọn thường phân 2 ngọn. Phân nhánh cách gốc khoảng 3,5 cm, sát với cuống có một số nhánh
không phát triển. Các nhánh mọc thẳng đứng và gần như song song. Gốc cuống hơi phình nhẹ
dài khoảng 3,5 cm, rất rắn chắc, có màu trắng với đường kính khoảng 1-1,5 cm. Thịt nấm mềm,
dễ nát, có màu trắng hoặc sẫm bên trong, bị bầm tím khi xử lý, có mùi hắc khó chịu, vị đắng.
361
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019
Hệ sợi có vách ngang, không phân nhánh, kích thước hệ sợi khoảng 3-3,5 µm. Bào tử elip
nhọn một đầu là nơi để nảy mầm, màng hơi dày có các mụn hạt, kích thước từ 8-10 x 3-5 µm.
Đảm hình chùy, đồng nhất, chứa bốn bào tử, khi chuẩn bị phóng bào tử có dạng tai thỏ, kích
thước khoảng 4-6 x 25-30 µm.
Đặc điểm sinh thái: Nấm mọc đơn độc, rời gốc trên đất trong rừng lá kim hoặc rừng lá
rộng. Nấm mọc ở độ ẩm 73-77%, nhiệt độ 20-23°C. Nấm thường mọc từ tháng 6 đến tháng 10
hàng năm.
3.2.3. Loài Ramaria Flava (Schaeff.) Quesl. 1888
Quả thể dạng khối san hô màu vàng, cao từ 4-6 cm và tạo khối tán có đường kính từ 3-4
cm. Phân nhánh cách gốc 2-3 cm, phân nhánh 3-4 lần, đỉnh ngọn thường phân 2- 4 ngọn phân
nhánh phóng xạ không đều, gốc to phân nhánh nhỏ dần, một số nhánh nhỏ gần gốc không phát
362
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019
triển. Gốc phình to, chắc chắn có màu trắng đến vàng nhạt, dày khoảng 1-1,5 cm.Thịt nấm
mềm, có màu trắng, thịt nấm có mùi thơm nhẹ.
Hệ sợi có vách ngăn ngang mỏng, không phân nhánh, đường kính khoảng 4- 4,5 µm. Bào
tử có dạng hình tròn đến elip, nhọn một đầu là điểm để nảy mầm, kích thước khoảng 9.6-10.2
µm x 4,6-5 µm. Đảm hình chùy, đồng nhất, chứa 4 bào tử, thon dài xếp sát nhau, kích thước
khoảng 5-6 x 20-25 µm.
Đặc điểm sinh thái: Nấm mọc đơn độc, rời gốc trên đất trong rừng lá kim hoặc rừng lá
rộng. Nấm mọc ở độ ẩm 70-75%, nhiệt độ 19-23°C. Nấm thường mọc từ tháng 8 đến tháng 10
hàng năm.
3.2.4. Loài Pleurotus ostreatus
Quả thể nấm có dạng hình phễu lệch, mọc thành từng cụm tập trung, có màu trắng kem,
thân có 3 phần gồm mũ, phiến, cuống nấm. Mũ nấm có tai rộng hình nắp vỏ sò, tùy loài màu
sắc có thể thay đổi từ màu trắng kem đến trắng xám, xám nâu. Bề mặt nấm có lông nhỏ mịn,
màu trắng. Đường kính 4-5 cm. Bào tầng dạng phiến, phiến tự do, màu trắng xếp xích nhau,
mép mỏng. Cuống nấm dai khi còn tươi, màu trắng, mép mỏng, dạng thớ màu trắng, có mùi
thơm ngọn, vị dịu. Khi khô trở nên xốp, giòn, cứng dễ gãy. Đường kính 2-3 x 5-6 cm.
Hệ sợi phân nhánh, có vách ngăn ngang, đường kính 13-15 𝜇𝑚. Bào tử hình trứng, không màu,
kích thước đường kính 6-8 x 13-15 𝜇m. Đảm đơn bào, hình chùy, kích thước 18-20 x 38-40 𝜇m.
Đặc điểm sinh thái: mọc trên giá thể của thân cây đã chết giàu chất dinh dưỡng hay mọc
trên giá thể. Nấm mọc nhiều từ tháng 6 đến tháng 10 trong năm. Nhiệt độ thích hợp nhất để
nấm phát triển là 25-28°C, độ ẩm 65-75%.
3.2.5. Loài Amanita caesarea (Scop.) Pers. (1801)
Quả thể khi còn nhỏ dạng giống như quả trứng, bên ngoài có bao gốc màu trắng bao bọc,
khi trưởng thành có mũ hình chuông dẹt, màu vàng cam đến màu vàng nhạtbên trong giống như
lòng đỏ trứng gà. Mũ nấm khi còn non cụp vào cuống, khi trưởng thành dạng chuông dẹt màu
đều dần ra phía mép ngoài. Trung tâm mũ nấm hơi lõm xuống. Mũ nấm màu vàng, mũ nhẵn,
khô. Đường kính 3-4 cm. Bào tầng dạng phiến, màu trắng. Cuống nấm hình trụ dài, đính ở trung
363
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019
tâm tại phần lõm của mũ nấm, có màu vàng nhạt đến màu trắng ngà. Đường kính 1,5-2 cm, cao
5-6 cm. Bao gốc dạng đế hoa, có màu trắng đục.
Hệ sợi phân nhánh, không có vách ngăn ngang, nội chất màu vàng nhạt. Đường kính kích
thước 15-20 𝜇𝑚. Bào tử dạng hình trứng dẹp hay hình hạt lúa, nội chất màu xanh nhạt. Đường
kính 5-7 x 9-11 𝜇𝑚. Đảm hình chùy. Kích thước 8-10 x 30-35 𝜇𝑚.
Đặc điểm sinh thái: mọc đơn đọc trên đất rừng. Thường có ở vùng có khí hậu lạnh, ẩm
ướt và mưa nhiều. Nhiệt độ thích hợp nhất để nấm phát triển là 25-28°C, độ ẩm 65-75%. Thường
bắt gặp nhiều vào tháng 5 năm nay đến tháng 10 trong năm.
3.2.6. Loài Auricularia polytricha (Mont.) Sacc. 1885
Quả thể nấm như một cái vành tai mềm mại, dai. Bình thường sống bám dính vào thân
vật nhờ một bộ phận như cuống ngắn bám dính hay một góc thân thô sơ. Mũ nấm bóng sáng,
màu nâu đỏ với những điểm ửng màu tím nhạt, thường có những lông nhỏ mịn, màu xám. Có
364
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019
nếp nhăn, màu sắc thay đổi theo tuổi. Kích thước đường kính 5 cm.Bào tầng màu nâu nhạt. Đôi
khi có nếp nhăn, nếp gấp và những đường gân nổi lên, làm cho nấm xuất hiện nhiều tai kết hợp
thành chùm. Cuống nấm ngắn thường gắn liền với mũ nấm khó phân biệt được. Đường kính
0,5-1 cm. Thịt nấm cứng, giòn, nhờn có kết cấu đàn hồi khi còn tươi, khi khô trở nên giòn, cứng
dễ gãy.
Hệ sợi phân nhánh và không có vết ngăn ngang. Kích thước đường kính 5-7 𝜇m. Bào tử
hình trứng. Nội chất màu trắng. Kích thước đường kính 6-8 x 15-17 𝜇m. Đảm đơn bào, hình
chùy, kích thước 15-20 x 40-45 𝜇m.
Đặc điểm sinh thái: Nấm mọc đơn độc, nhiều khi mọc thành chùm, nhóm. Đa số tìm thấy
trên các thân cây gỗ khô. Nhiệt độ 28-32 °C, độ ẩm 65-75%. Thường bắt gặp nhiều nhất vào
mùa thu.
3.2.7. Loài Boletus ornatipes Peck 1878
Quả thể chất thịt, hình chuông, mũ hình bán cầu dẹp, màu vàng sữa hoặc màu hạt dẻ. Mũ
nấm khi còn nhỏ dạng bán cầu dẹp, phía rìa ngoài cụp vào cuống, khi trưởng thành phẳng ra,
lúc non có màu vàng kem hoặc màu vàng nhạt, mũ nấm bóng sáng, khô, không có vảy, lồi lõm
không đều. Đường kính 3-4 cm. Bào tầng dạng lỗ hình đa giác, màu trắng kem. Cuống nấm to
mập, hình trụ hoặc hình chuông, phồng to lên ở gốc, màu trắng kem. Bề mặt cuống nấm có
dạng mạng lưới với ô lưới hình tròn hay hình bầu dục. Đường kính 4-5 cm, cao 5-6 cm. Thịt
dày, cứng, màu trắng, có mùi vị dễ chịu, vị thanh hơi ngọt.
Hệ sợi phân nhánh, có vách ngăn ngang, đường kính 8-10 𝜇𝑚. Bào tử hình cầu dẹp, nội
chất có màu xanh, đường kính 8-10 x 12-15 𝜇𝑚. Đảm đơn bào, hình chùy, đường kính 18-20 x
48-50 𝜇𝑚.
Đặc điểm sinh thái: Mọc đơn độc, đôi khi mọc thành cụm trong đất rừng. nơi có khí hậu
mát mẻ, ẩm ướt và nhiều mưa. Nấm mọc nhiều từ tháng 6 đến tháng 10 trong năm. Nhiệt độ
thích hợp nhất để nấm phát triển là 25-28°C, độ ẩm 65-75%.
365
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019
3.2.8. Loài Boletus regius Krombh 1832 - nấm gan bò tía
Quả thể hình ô dù với cuống màu hồng phình to ở gốc, mũ nấm màu hồng ruốc. Mũ nấm
khi nhỏ có dạng bán cầu về sau phẳng. có màu hồng ruốc sau chuyển sang màu vàng nhạt, bề
mặt nhẵn, xung quanh mép lõm không đều. Đường kính 7-8 cm. Bào tầng tự do, màu vànghay
màu vàng nhạt, dạng lỗ. Cuống nấm to, hình trụ, phình to ở gốc, có màu hồng đậm. Đường kính
4-5 cm, cao 4-5 cm. Thịt nấm dày, có mùi thơm ngon, có màu hồng nhạt. Khi bị thương chuyển
từ màu vàng sang màu xanh.
Hệ sợi phân nhánh, có vách ngăn ngang, đường kính 12-15 𝜇𝑚. Bào tử hình trứng, mội
chất màu xanh, đường kính 7-9 𝜇𝑚. Đảm đơn bào, hình chùy, đường kính kích thước 18-20 x
53-55 𝜇𝑚.
Đặc điểm sinh thái: mọc đơn độc trên đất rừng. Thường có ở vùng có khí hậu lạnh, ẩm
ướt và mưa nhiều. Nấm mọc nhiều từ tháng 6 đến tháng 10 trong năm. Nhiệt độ thích hợp nhất
để nấm phát triển là 25-28 °C, độ ẩm 65-75%.
4. KẾT LUẬN
Nghiên cứu về các loài nấm ăn tại Vườn Quốc gia Tà Đùng, Tỉnh Đắk Nông nhằm đánh
giá độ đa dạng và giá trị của chúng. Chúng tôi đã ghi nhận được 08 loài nấm ăn định danh tới
tên loài, chúng thuộc 5 họ 5 chi. Trong số đó, có 3 loài nấm được ghi nhận mới cho Tây Nguyên
là Ramaria stricta (Pers.) Quesl. 1888, Amanita caesarea (Scop.) Pers. (1801), Boletus regius
Krombh 1832.
Nấm ăn thu thập được tại khu vực nghiên cứu tương đối đa dạng về thành phần loài.
Chúng mang lại cho con người không những giá trị về thực phẩm mà còn cả giá trị về kinh tế
vì vậy cần nghiên cứu sâu hơn về thành phần hóa học cũng như giá trị dinh dưỡng của các loài
nấm ăn để phát triển giá trị của nấm trong thực tiễn về mặt nuôi trồng và bảo tồn.
Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, đa số các loài nấm ăn thu thập tại khu vực
nghiên cứu chủ yếu sống hoại sinh trên đất.
366
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Bá Dũng (2003). Nấm lớn Tây Nguyên, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr.361- 365.
[2] Lê Bá Dũng và Trương Bình Nguyên (2005). Chi nấm Ramaria Graf.em Donk ở vùng Tây
Nguyên, Tạp chí Sinh học, tập 01, số 01, tr. 21.
[3] Trịnh Tam Kiệt (2011). Nấm lớn Việt Nam (Tập 1), NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ, Hà
Nội.
[4] Trịnh Tam Kiệt (2012). Nấm lớn Việt Nam (Tập 2), NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà
Nội.
[5] Trịnh Tam Kiệt (2013). Nấm lớn Việt Nam (Tập 3), NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà
Nội.
[6] Lê Văn Liễu (1977). Nấm ăn được và nấm nấm độc ở rừng, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội.
[7] Trần Văn Mão, Trương Quang Bích, Đỗ Văn Lập (2005). Nấm Lớn Cúc Phương, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
[8] Tôn Thất Minh và cộng sự (2009). Điều tra, phân loại các loài nấm dưới tán thông tỉnh Lâm
Đồng. Đề tài Sở Khoa học Công nghệ Lâm Đồng.
[9] S.C. Teng (1996). Fungi of China, The Department of Plant Pathology Cornell University,
Ithaca, NY 14853.
[10] http://www.indexfungorum.org/.
[11] Nguồn dữ liệu Ban Quản lý Vườn Quốc gia Tà Đùng.
Title: THE SURVEY ABOUT MACROFUNGI SPECIES OF EDIBLE FUNGI IN TA DUNG
NATIONAL PARK, DAK NONG PROVINCE
Abstract: Edible fungi are a common source of forest products used by local people for food. They
plays a huge role in human health because they have a high nutritional value, rich in minerals and
vitamins. In Ta Dung National Park, we were determined in this area by 08 species for edible fungi
belong to 5 families, 5 genus. Most of them belong to Gomphacease and Boletaceae families. Among
these 08 species, Ramaria stricta (Pers.) Quesl. 1888, Amanita caesarea (Scop.) Pers. (1801), Boletus
regius Krombh 1832 are new records for the Tay Nguyen.
Keywords: Edible fungi, Ta Dung National Park.
367
nguon tai.lieu . vn