Xem mẫu
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
KHẢO SÁT NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ TRỌNG ÂM TIẾNG HÁN
CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM
Phạm Đình Tiến
Đại học Văn Lang
Tóm tắt
Bài viết này thông qua một số câu mang tiêu điểm trọng âm (rộng và hẹp) khảo sát những
biểu hiện ngữ âm học về tiêu điểm trọng âm của ngƣời Việt Nam khi học tiếng Hán. Kết
quả cho thấy: Khi biểu đạt trọng âm, ngƣời Việt (có trình độ tiếng Hán HSK 6, cao cấp)
có xu hƣớng sử dụng một cách thức phát âm để biểu đạt nhiều kiểu tiêu điểm trọng âm
câu khác nhau. Ngƣời học chƣa vận dụng đƣợc phƣơng thức tạo ra sự chênh lệch về cao
độ giữa trọng âm và âm tiết liền kề để thể hiện rõ trọng âm trong tiếng Hán. Vì vậy, tác
giả cho rằng trong quá trình giảng dạy ngữ âm tiếng Hán, cần chú trọng đến việc truyền
thụ kiến thức và thực hành luyện trọng âm và ngữ điệu. Ngƣời dạy có thể bắt đầu từ
những đơn vị cơ bản (từ hoặc cụm từ 2 hoặc 3 âm tiết), kết hợp với việc áp dụng mô hình
―Tiêu điểm trọng âm+Âm tiết khinh hóa‖ để thiết lập mô hình trọng tiếng Hán cho ngƣời
học.
Từ khóa
trọng âm tiếng Hán, Tiêu điểm rộng, Tiêu điểm hẹp, biểu hiện ngữ âm, Việt Nam
1. Mở đầu
Xu Yi (2011) đã tiến hành khảo sát quá trình hình thành và phát triển của rất nhiều ngôn ngữ
trên thế giới. Tác giả đã phát hiện ra rằng, rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới tồn tại mô hình
PFC (Post-Focus Compression, là hiện tƣợng cao độ ngay sau tiêu điểm trọng âm đột ngột hạ
thấp), tồn tại nhiều trong các ngôn ngữ hệ Ấn – Âu nhƣ tiếng Hà Lan, tiếng Hy Lạp, tiếng
Pháp, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Ả-rập... Bên cạnh đó, cũng có nhiều ngôn ngữ không có hiện
tƣợng PFC nhƣ tiếng Đài Loan, tiếng Quảng Đông. Do đó, những ngôn ngữ mang PFC có tác
dụng tích cực trong việc cảm nhận tiêu điểm. Giả thiết đặt ra rằng, khi một ngƣời theo học
ngôn ngữ có PFC, nhƣng tiếng mẹ đẻ lại không có PFC. Vậy trong quá trình học ngôn ngữ
đích, ngƣời học có vận dụng đƣợc mô hình PFC? Trong một nghiên cứu về biểu hiện âm luật
(Prosodic features) của tiêu điểm tiếng Việt, tác giả phát hiện tiếng Việt Nam là một ngôn ngữ
không có mô hình PFC. Tiêu điểm của tiếng Việt đƣợc biểu đạt chủ yếu dựa vào trƣờng độ.
Vậy thì, trong quá trình học tập tiếng Hán, những ngƣời học tiếng Hán phổ thông có tiếng mẹ
đẻ là tiếng Việt sẽ sử dụng phƣơng thức nào để biểu đạt trọng âm của ngôn ngữ đích, cụ thể là
trọng âm tiếng Hán.
2. Cơ sở lý luận
Trọng âm thông thƣờng đƣợc chia thành trọng âm từ và trọng âm câu. Đối với những
từ không mang khinh thanh tiếng Hán có tồn tại trọng âm từ hay không, mỗi tác giả nghiên
cứu đều có những quan điểm khác nhau, chƣa đƣợc thống nhất. Nhƣng đối với trọng âm câu,
các tác giả đều đạt đƣợc một nhận thức chung. Đa phần đều cho rằng trên bình diện câu, tiếng
Hán tồn tại trọng âm câu. Một thành tố nào đó trong câu khi đƣợc nhấn mạnh, đƣợc cảm nhận
một cách rõ ràng đƣợc gọi là trọng âm hoặc trọng âm câu (Huang Borong, Liao Xudong
2004:124). Nghiên cứu này sẽ thảo luận trọng âm trên bình diện câu.
606
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Tiêu điểm (Focus) là một khái niệm trong cú pháp ngữ nghĩa học. Nhƣng trong tiếng
Hán, một trong những biểu hiện ngữ âm học của ngữ điệu cũng đƣợc thể hiện thông qua tiêu
điểm, nên lý thuyết về Tiêu điểm – Trọng âm (Focus to Accent) đƣợc giới ngữ âm học quan
tâm và vận dụng nghiên cứu. Lý thuyết này cho rằng, trong các ngôn ngữ trọng âm cao độ
(pitch accent language), một từ khi trở thành tiêu điểm sẽ đƣợc thể hiện ra bên ngoài thông
qua sự thay đổi về cao độ của từ (Wang Yunjia, 2006).
Về phân loại Tiêu điểm – Trọng âm, trong giáo trình Hán ngữ hiện đại sử dụng thuật ngữ
―Trọng âm ngữ pháp‖ và ―Trọng âm logic‖. Khi ngƣời nói không cố ý nhấn mạnh lúc biểu đạt
một lời nói, suy nghĩ nào đó, mà sẽ căn cứ vào đặc điểm của cấu trúc ngữ pháp để nhấn mạnh
một thành phần nào đó trong câu, đây chính là trọng âm ngữ pháp. Còn trọng âm logic là loại
trọng âm đƣợc thể hiện khi ngƣời nói cố ý nhấn mạnh rõ hơn vào một thành phần câu, nhằm
thể hiện một mục đích cụ thể trong giao tiếp (Shao Jingmin, 2001). Tiêu điểm thì lại đƣợc
chia thành Tiêu điểm rộng (Broad Focus) và Tiêu điểm hẹp (Narrow focus). Trên bình diện
câu, tiêu điểm rộng nhất là một câu. Trong câu có kết cấu tiêu điểm rộng, không phải tất cả
các thành phần trong câu đều đƣợc nhấn mạnh, mà chỉ có thành một thành phần nào đó trong
câu trở thành tiêu điểm. Câu có tiêu điểm rộng thƣờng dùng để trả lời những câu hỏi nhƣ
―Chuyện gì vậy/Nhƣ thế nào rồi‖ ...Còn Tiêu điểm hẹp nhất bao gồm những thành phần nhỏ
cấu tạo nên câu, chức năng này có thể do 1 từ đảm nhận. Thông thƣờng sẽ đƣợc dùng để trả
lời những câu hỏi cụ thể nhƣ ―Anh ấy là ai/ Hôm nay thứ mấy‖...Chúng ta có thể nhận thấy,
cho dùng thuật ngữ khác nhau những khái niệm ―Trọng âm ngữ pháp‖ truyền thống tiệm cận
với khái niệm của ―Tiêu điểm rộng‖ và khái niệm ―Trọng âm logic‖ lại tiệm cận với khái
niệm của ―Tiêu điểm rộng‖. Trong nghiên cứu này, sử dụng khái niệm ―Tiêu điểm rộng‖ và
―Tiêu điểm hẹp‖. Tiêu điểm là âm tiết nổi bật nhất ở trong câu.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
3.1. Câu thực nghiệm59
Nghiên cứu này sử dụng kiểu câu dịch chuyển tiêu điểm, kết hợp với phƣơng pháp ngữ
âm học thực nghiệm để khảo sát các biểu hiện ngữ âm học về trọng âm câu của học sinh Việt
Nam khi học tiếng Hán. Nghiên cứu thiết kế 4 câu theo trật tự ngữ pháp SVO, mỗi câu có 3
âm tiết và thanh điệu giống nhau để làm câu thực nghiệm.
Nhóm thanh điệu Câu thực nghiệm Phiên âm quốc tế Nghĩa tiếng Việt
T1 朱听歌 [ʈʂu tʰiŋ kɤ] Chu nghe nhạc
T2 刘玩球 [lioʊ wan tɕʰioʊ] Lƣu chơi cầu
T3 婶买水 [ʂən maɪ ʂweɪ] Thím mua nƣớc
T4 舅看戏 [tɕioʊ kʰan ɕi] Cậu xem kịch
Từ 4 câu thực nghiệm trên, ở mỗi nhóm thanh điệu chúng tôi tiếp tục thiết kế đoạn đối
thoại có mang tiêu điểm trọng âm, yêu cầu ngƣời phát âm căn cứ vào trả lời để hoàn thành hội
thoại. Sau đây lấy nhóm thanh 1 làm ví dụ, những nhóm thanh điệu còn lại đƣợc thao tác
giống nhóm thanh 1.
59
Nghiên cứu này sử dụng những câu tiêu điểm của Cao Wen trong ―汉语焦点重音的韵律实现‖ (Cao Wen,
2012:162-167)
607
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
A: 你刚才说什么? Lúc nãy bạn nói gì? Câu tiêu điểm rộng
B: [朱听歌]F。 [Chu nghe nhạc]F
A: 谁听歌? Ai nghe nhạc? Câu tiêu điểm đầu
B: [朱] F 听歌。 [Chu]F nghe nhac
A: 朱听不听歌? Chu nghe nhạc hay không? Câu tiêu điểm giữa
B: 朱[听] F 歌。 Chu [nghe]F nhạc.
A: 朱听什么? Chu nghe gì? Câu tiêu điểm cuối
B: 朱听[歌] F。 Chu nghe [nhạc]F
3.2. Ngƣời phát âm:
Nghiên cứu chọn 10 ngƣời Việt Nam đến từ vùng phƣơng ngữ miền Bắc (10 nữ), có
trình độ tiếng Hán cao cấp (HSK 6), độ tuổi từ 20 – 30.
3.3. Phƣơng pháp đo lƣờng và xử lý dữ liệu:
3.3.1. Về trường độ của âm tiết:
Trong nghiên cứu này, những âm tiết có mang âm tắc hoặc âm tắc xát nằm ở đầu câu,
thì khoảng trống ở trƣớc đƣờng spike sẽ không đƣợc tính vào trƣờng độ của âm tiết. Còn nếu
nằm ở giữa hoặc cuối câu, khi nghe cảm thấy không có sự ngƣng lại rõ ràng, thì sẽ đƣợc tính
vào trƣờng độ của âm tiết đó. Ngƣợc lại, nếu nhƣ khi nghe cảm thấy có sự ngƣng lại rõ ràng,
thì sẽ không đƣợc tính vào trƣờng độ của âm tiết đó.
Do những âm tiết trong câu xét về trƣờng độ tuyệt đối sẽ xuất hiện sự khác biệt rõ
ràng, cho nên trong nghiên cứu này chỉ so sánh những âm tiết ở cùng một vị trí giữa các câu
mục tiêu với nhau, để khảo sát trƣờng độ của những âm tiết này có sự khác biệt về xác suất
thống kê hay không.
3.3.2. Về cao độ của âm tiết:
Đoạn ổn định của vận mẫu (phần vần) đƣợc định nghĩa là đoạn không bao gồm thanh
mẫu (âm đầu), đoạn chuyển tiếp giữa thanh mẫu và vận mẫu và đoạn cong ở đầu và đuôi của
đƣờng nét thanh điệu. Trong nghiên cứu này, bất luận là đoạn ổn định vận mẫu của bất kỳ
thanh điệu nào, đều chọn lấy 3 điểm cao độ (Điểm đầu, điểm giữa và điểm cuối) để vẽ đƣờng
nét thanh điệu.
Điểm cao âm và thấp âm của thanh điệu đƣợc xác định nhƣ sau: (1) Điểm cao âm gồm:
Điểm giữa của T1, điểm cuối của T2, điểm đầu của T4. Đối với T3 trong ngữ cảnh sẽ xuất
hiện hiện tƣợng biến đổi thanh điệu (khi T3T3 T2T3), Căn cứ vào dữ liệu thực tế thu thập
đƣợc, nghiên cứu này chọn điểm cao âm của T3 là điểm đầu. (2) Điểm thấp âm gồm điểm đầu
của T2, điểm của của T3 và điểm cuối của T4.
Khi chọn đƣợc số liệu (Hz) sẽ chuyển về đơn vị Semitone (st) theo công thức:
608
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
St=12*log2(f0†fref)
Trong đó f0 là cao độ tuyệt đối (Hz) đo lƣờng đƣợc; fref là tần số tham chiếu, đƣợc cài đặt
ở mức 100Hz.
4. Kết quả nghiên cứu:
4.1. Nhóm T1
Hình 1a: Đƣờng nét thanh điệu nhóm T1 Hình 1b:Trƣờng độ tƣơng đối nhóm T1
Quan sát hình 1, đƣờng nét thanh điệu của cả 4 câu có xu hƣớng trùng nhau. Điều này chỉ
ra hiện tƣợng ngƣời phát âm sử dụng cùng một phƣơng thức phát âm để thể hiện trọng tâm
tiêu điểm ở những vị trí khác nhau.
Kết quả thống kê cho thấy, 3 điểm cao độ ở âm tiết 1, âm tiết 2, âm tiết 3 trong các câu
tiêu điểm rộng, đầu, giữa và cuối không hiển thị sự khác biệt (P>.05) . Từ số liệu này, chúng
ta có thể phán đoán T1 của các âm tiết trong câu đều mang đƣờng nét thanh điệu đi ngang và
rất rõ ràng.
Chúng ta tiếp tục so sánh điểm cao âm của âm tiết 1 trong cả 4 câu thực nghiệm. Âm tiết
1 là tiêu điểm trọng âm của câu tiêu điểm đầu, điểm cao âm 13.56±6.72st, so với điểm cao âm
của âm tiết 1 các câu còn lại, không có sự khác biệt trong kết quả thống kê (F 朱(3,36)=.006,
P>.99). Âm tiết 2 là tiêu điểm trọng âm của câu tiêu điểm giữa, điểm cao âm 12.86±6.38st, so
với điểm cao âm của âm tiết 1 các câu còn lại, không có sự khác biệt trong kết quả thống kê
(F 听(3,36)=.176,P>.91). Âm tiết 3 là tiêu điểm trọng âm của câu tiêu điểm giữa, điểm cao âm
12.48±6.56st, so với điểm cao âm của âm tiết 1 các câu còn lại, không có sự khác biệt trong
kết quả thống kê (F 歌(3,36)=.009,P>.99). Cuối cùng so sánh tiêu điểm trọng âm của câu tiêu
điểm rộng và câu tiêu điểm cuối (đều nằm ở cuối câu). Điểm cao âm của tiêu điểm trọng âm
trong cả hai câu đều không có sự khác biệt (p>.94).
Đối với △D1 và △D2. Ở câu tiêu điểm đầu, giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là -0.44±2.67st
và 1.01±2.71st. Sự chênh lệch cao độ giữa các âm tiết cũng không có sự khác biệt về phƣơng
diện thống kê (F(2,27)=.11, P>.98). Ở câu tiêu điểm giữa, giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là -
0.12±1.74st và 0.78±1.42st. Sự chênh lệch cao độ giữa các âm tiết với nhau cũng không có sự
khác biệt về phƣơng diện thống kê (F(2,27) =.005, P>.99). Ở câu tiêu điểm cuối, giá trị △D1
và △D2 lần lƣợt là 0.12±1.43st và 0.23±1.50st. Sự chênh lệch cao độ giữa các âm tiết với
nhau cũng không có sự khác biệt về phƣơng diện thống kê (F(2,27) =.017, P>.98). Cuối cùng
đối với câu tiêu điểm rộng, giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là -0.53±1.45st và 1.11±0.92st, cũng
không thể hiện sự khác biệt (F(2,27) =.141,P>.86).
609
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Dựa vào số liệu thực nghiệm và kết quả thống kê, chúng tôi phát hiện ngƣời Việt Nam
khi thể hiện trọng âm tiêu điểm, đƣờng nét thanh điệu các câu đều giống nhau. Điều này chỉ
ra, ngƣời học chỉ sử dụng duy nhất một phƣơng thức phát âm.
Về trƣờng độ, các âm tiết 1, 2, 3 trong bốn câu thực nghiệm không có sự khác biệt về
trƣờng độ (F S1(3,36)=.116, P>95; F S2(3,36)=2.378, P>.95; F S3(3,36)=2.165, P>.109)
4.2. Nhóm T2
Hình 2a: Đƣờng nét thanh điệu nhóm T2 Hình 2b:Trƣờng độ tƣơng đối nhóm T2
Quan sát hình 2a có thể nhận ra, đƣờng nét thành điệu của cả 4 câu tiêu điểm khá giống
nhau, chỉ có điểm cao độ đầu âm tiết 3 của câu tiêu điểm giữa cao hơn một chút so với ba câu
còn lại. Đƣờng nét thanh điệu rất hoàn chỉnh, biểu hiện đƣợc đƣờng nét thanh điệu gốc của
T2.
Âm tiết 1 là tiêu điểm trọng âm của câu tiêu điểm đầu, nhƣng điểm cao âm của nó không
có sự khác biệt so với âm tiết đầu của ba câu còn lại (F 刘(3,36)=.136,P>.93). Kết quả
thống kê về điểm cao âm của âm tiết 2 và âm tiết 3 cũng thể hiện không có sự khác biệt
(FS2(3,36)=.027,P>.99;FS3(3,36)=.033, P>.99).
Chúng ta tiếp tục khảo sát sự chênh lệch cao độ giữa các âm tiết với nhau trong câu. Ở
câu tiêu điểm đầu, âm tiết 1 là tiêu điểm trọng âm, điểm cao âm của nó là 10.88±6.68st, hình
thành một khoảng chênh lệch 0.09±0.91st với điểm cao âm của âm tiết 2 (giá trị △D1). Âm
tiết 2 và 3 có khoảng chênh lệch cao độ là 0.18±1.78st (giá trị △D2). Kết quả thống kê thể
hiện giá trị △D trong câu tiêu điểm đầu không có sự khác biệt (PS1-S2=.97; P S1-S2=.84). Ở câu
tiêu điểm giữa, âm tiết 2 là tiêu điểm trọng âm. Theo lý thuyết thì giá trị cao độ lớn nhất của
câu sẽ rơi vào âm tiết 2. Nhƣng quan sát hình 2a lại thấy ràng điểm cao âm của nó lại thấp so
với điểm cao âm của âm tiết sau nó (△D2 là -3.1±5.35st). Còn giá trị △D1 là -0.47±0.95st.
Giá trị cao điểm lớn nhất rơi vào âm tiết 3. Kết quả thống kê thể hiện giá trị △D trong câu
tiêu điểm đầu không có sự khác biệt (PS1-S2=.88; PS2-S3=.63). Ở câu tiêu điểm cuối, âm tiết 3 là
tiêu điểm, đồng thời câu tiêu điểm rộng cũng có tiêu điểm rơi vào âm tiết 3. Giá trị △D1 và
△D2 trong câu tiêu điểm cuối lần lƣợt là -0.27±1.79st và -0.85±1.5st. Kết quả thống kê
cũng không cho thấy có sự khác biệt(PS1-S2=.92; P S2-S3=.73). Giá trị cao điểm lớn nhất rơi vào
âm tiết 3 (12.34±6.76st) . Cuối cùng, ở câu tiêu điểm rộng, giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là -
0.14±1.78st và -0.11±1.44st. Kết quả thống kê cũng không cho thấy có sự khác biệt(PS1-
S2=.96; P S2-S3=.68).
610
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Tóm lại, trong nhóm T2, cả bốn câu tiêu điểm đều có đƣờng nét thanh điệu khá tƣơng
đồng, không thể hiện đƣợc sự khác biệt khi tiêu điểm câu đã có sự thay đổi vị trí. Bất luận tiêu
điểm nằm ở vị trí nào trong câu, giá trị cao độ cao nhất đều rơi vào âm tiết cuối của câu.
Trƣờng độ các âm tiết 1, 2, 3 trong bốn câu thực nghiệm không có sự khác biệt về trƣờng
độ (F 刘(3,36)=3.17,P=.036; F 玩(3,36)=.174,P>.913; F 球(3,36)=2.729,P>.058)
4.3. Nhóm T3
Hình 3a: Đƣờng nét thanh điệu nhóm T3 Hình 3b:Trƣờng độ tƣơng đối nhóm T3
Trong tiếng Hán tồn tại sự biến đổi thanh điệu khi hai T3 đi liền nhau. Thanh điệu ở âm
tiết 2 trong câu sẽ biến thành T2, còn âm tiết đầu tiên sẽ đƣợc đọc nửa thanh 3. Nhƣng căn cứ
vào tình hình phát âm thực tế, có một số ngƣời phát âm đọc âm tiết 1 thành T2, làm cho
đƣờng nét thanh điệu của câu biến thành tổ hợp T2T2T3.
Đầu tiên, chúng ta quan sát âm tiết 3 trong bốn câu tiêu điểm. Trong câu tiêu điểm đầu,
âm tiết này mang đƣờng nét của thanh điệu đi xuống, còn âm tiết cuối của các câu còn lại thể
hiện rõ đƣờng nét gốc của T3. Quan sát hình 3a, ta thấy cao độ điểm đầu khác biệt không lớn.
Kết quả thống kê cũng không thể hiện sự khác biệt (F(3,36)=.155, P>.92). Cao độ điểm cuối
của âm tiết này cũng không có khác biệt (F(3,36)=1.075, P>.372). Âm tiết 2 买 do ảnh hƣởng
bởi 水 đã biến thành T2. Cho nên điểm cuối hiển nhiên trở thành điểm cao âm. Số liệu thống
kê cũng cho kết quả không có sự khác biệt giữa điểm cao âm của ba âm tiết trong câu
(F(3,36)=.031, P>.992). Còn đối với âm tiết 1 婶, đa số ngƣời phát âm đều đọc thành nửa T3,
nên điểm đầu trở thành điểm cao âm. Điểm cao âm của âm tiết 1 giữa bốn câu không có sự
khác biệt (F(3,36)=.155, P>.926).
Âm tiết 2 vì đã biến thành T2, nên điểm cuối của nó trở thành điểm cao âm trong cả bốn
câu tiêu điểm. Ở câu tiêu điểm đầu, giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là -1.01±2.73st và 1.18±
2.7st. Ở câu tiêu điểm giữa, giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là -2.81±3.61st và 0.98±3.7st. Ở
câu tiêu điểm cuối, giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là -1.99±1.99st và 2.76±2.93st.
Kế đến là kết quả thực nghiệm về trƣờng độ của các âm tiết trong nhóm T3:
Âm tiết 1 婶 giữa bốn câu tiêu điểm không thể hiện sự khác biệt về phƣơng diện thống kê
(F(3,36)=1.613, P>.20). Âm tiết 2 买 giữa bốn câu tiêu điểm không thể hiện sự khác biệt về
phƣơng diện thống kê (F(3,36)=1.613, P>.20).Âm tiết 3 水 trong câu tiêu điểm cuối tuy có
611
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
trƣờng độ dài nhất, nhƣng khi so với âm tiết 3 ở những câu khác cũng không thể hiện sự khác
biệt (F(3,36)=.56, P>.64).
4.4. Nhóm T4
Hình 4a: Đƣờng nét thanh điệu nhóm T4 Hình 4b:Trƣờng độ tƣơng đối nhóm T4
Quan sát hình 4a ta dễ dàng phát hiện đƣờng nét thanh điệu trong cả 4 câu tiêu điểm gần
nhƣ giống nhau. Mỗi âm tiết đều thể hiện rõ đƣờng nét của thanh 4 gốc.
Âm tiết 1 舅 trong tiêu điểm của câu tiêu điểm đầu . Điểm cao âm của nó là 16.36±6.87st.
So với điểm cao âm của âm tiết đầu các câu còn lại không có sự khác biệt (F 舅(3,36)=.318,
P>.812). Trong khi đó, điểm cao âm của âm tiết 2 và 3 có kết quả thống kê tƣơng tự điểm cao
âm của âm tiết 1, không thể hiện sự khác biệt (F 看 (3,36)=.020,P>.996 ; F 戏
(3,36)=.028,P>.994).
Ở nhóm T4, điểm cao âm của câu tiêu điểm đầu rơi vào âm tiết đầu tiên. Điểm điểm cao
này không có sự khác biệt về phƣơng diện thống kê so với điểm cao âm của hai âm tiết còn lại
(F(2,27)=.051,P>.950). Điểm cao âm của âm tiết 1 tạo ra sự chênh lệch cao độ với âm tiết
sau một khoảng 2.55±1.78st. (giá trị △D1). Còn điểm cao âm của âm tiết 2 và âm tiết 3 hình
thành -0.14±1.56st (giá trị △D2). Trong câu tiêu điểm giữa, điểm cao âm vẫn rơi vào âm tiết
đầu tiên, giá trị cao độ đạt 16.63±6.28st. Và cả ba điểm cao âm trong các âm tiết đều không
có sự khác biệt (F(2,27)=.016,P>.984). Giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là 2.83±1.12st và
0.18±1.8st. Đối với câu tiêu điểm cuối, điểm cao âm của câu vẫn rơi vào âm tiết đầu
(15.04±7.88), ba điểm cao âm trong các âm tiết đều không có sự khác biệt (F(2,27)=.813,
P>.454). Giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là 1.56±4.41st và 0.15±1.65st. Cuối cùng, đối với câu
tiêu điểm rộng, điểm cao âm của câu vẫn rơi vào âm tiết đầu (16.97±6.83st). Điểm cao âm của
ba âm tiết trong câu sau khi tiến hành thống kê cũng không thể hiện sự khác biệt
(F(2,27)=.813, P>.454). Giá trị △D1 và △D2 lần lƣợt là 3.35±1.77st và -0.2±2.05st.
Kế đến cùng quan sát giá trị trƣờng độ của các âm tiết các câu trong nhóm T4:
Âm tiết 1 舅 giữa bốn câu tiêu điểm không thể hiện sự khác biệt về phƣơng diện thống kê
(F(3,36)=1.267,P=.300). Âm tiết 2 看 giữa bốn câu tiêu điểm không thể hiện sự khác biệt
về phƣơng diện thống kê (F(3,36)=.368,P>.777). Âm tiết 3 戏 trong câu tiêu điểm cuối
tuy có trƣờng độ dài nhất, nhƣng khi so với âm tiết 3 ở những câu khác cũng không thể hiện
sự khác biệt (F(3,36)=2.729,P>.058).
612
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
5. Thảo luận và Đề xuất
Kết quả thực nghiệm chỉ ra, khi phát âm trọng âm tiếng Hán, sinh viên Việt Nam chƣa
biết cách vận dụng sự biến đổi độ cao giữa trọng âm tiêu điểm và âm tiết ngay phía sau nó. Sự
chênh lệch độ cao này của sinh viên Việt Nam chỉ vào khoảng 3st. Trong khi đó, đối với phát
âm của ngƣời Trung Quốc, sự chênh lệch về cao độ này có thể lên đến 10st60. Ở điểm này,
tiếng Hán khác hoàn toàn với tiếng Việt. Trong tiếng Việt, chúng ta thƣờng tận dụng sự kéo
dài về trƣờng độ để khiến cho một thành phần trong câu trở thành trọng âm tiêu điểm, còn cao
độ chỉ đóng vai trò phụ trợ. Do đó, cách thể hiện trọng âm tiếng Hán của ngƣời Việt có nhiều
khác biệt so với ngƣời bản địa.
Trong nghiên cứu này, để đảm bảo tối đa tính khách quan của dữ liệu thu thập đƣợc,
chúng tôi không cho ngƣời thu âm biết trƣớc mục đích thu âm. Do đó, trong hoàn cảnh ngƣời
thu âm thiếu nhận thức về cách biểu đạt trọng âm tiếng Hán, họ đã sử dụng duy nhất một mô
hình phát âm, dẫn đến lỗi sai khi xảy ra tình huống vị trí trọng âm đƣợc thay đổi. Chúng ta có
thể đặt ra một giả thiết, nếu cho ngƣời thu âm biết trƣớc vị trí nào trong câu là trọng âm, để
ngƣời thu âm ý thức đƣợc cần phải biểu đạt nhắm đƣa âm tiết đó trở thành trọng âm tiêu
điểm. Lúc đó, họ sẽ sử dụng mô hình phát âm nào để thực hiện yêu cầu mà nghiên cứu đƣa ra.
Vấn đề này cần đƣợc làm rõ ở những nghiên cứu trong tƣơng lai.
Chúng ta đều biết, có rất nhiều phƣơng thức để biểu hiện tiêu điểm trọng âm trong tiếng
Hán nhƣ thông qua sự chênh lệch cao độ, biến đổi đƣờng nét thanh điệu, trƣờng độ âm tiết và
creaky voice...Ví dụ nhƣ trong cùng một tổ hợp từ có cùng thanh điệu, nếu muốn biểu đạt
trọng âm là âm tiết thứ nhất, thì ngoài phƣơng thức dùng sự chênh lệch về cao độ, chúng ta có
thể thông qua việc thanh đổi đƣờng nét thanh điệu của âm tiết thứ hai, làm cho nó bị khinh
hóa Nhƣng liệu rằng ngƣời học có thực sự nắm bắt đƣợc những phƣơng thức thể hiện trọng
âm này hay không? Kết quả thực nghiệm trong nghiên cứu này chỉ ra rằng, sinh viên Việt
Nam khi học tiếng Hán chƣa biết cách vận dụng những phƣơng thức kể trên để khiến tiêu
điểm trọng âm nổi bật, bao gồm vận dụng sự chênh lệch về cao độ và hiện tƣợng đƣờng nét
thanh điệu khinh hóa. Do đó, về phƣơng diện dạy và học trọng âm tiếng Hán, chúng ta phải
giảng dạy cho ngƣời học cách xác định trọng âm trong câu. Sau đó, hƣớng dẫn ngƣời học
luyện tập một cách có ý thức thông qua hệ thống bài tập về tiêu điểm trọng âm tiếng Hán. Đối
với một ngƣời học tiếng Hán, nếu nhƣ chỉ có thể phát âm thanh mẫu, vận mẫu, thanh điệu một
cách chính xác, tròn vành rõ chữ, thì chúng ta chỉ mới hoàn thành việc học ngữ âm tiếng Hán
giai đoạn 1. Ở cấp độ cao, ngƣời học phải nắm bắt đƣợc phƣơng thức thể hiện trọng âm và
ngữ điệu, đây mới chính là cái đích cần đạt đến của việc học ngữ âm tiếng Hán. Nói cách
khác, mục tiêu cuối cùng trong việc dạy và học ngữ âm là cần nhấn mạnh, chuyển hƣớng
ngƣời học từ giai đoạn chú trọng tính chính xác và lƣu loát của ngôn ngữ sang giai đoạn chú
trọng đến tính chân thật của ngôn ngữ (语言地道性). Đƣơng nhiên, tính chân thật của ngôn
ngữ không chỉ là tính chân thật về ngữ âm, mà còn bao gồm cả ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ
dụng...Nhƣng tính chân thật về ngữ âm là tiền đề để hình thành và phát triển tính chân thật về
ngôn ngữ.
60
Cao Wen, 2012
613
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Lin Tao (1996) đã từng nêu quan điểm rằng ―Điểm mấu chốt khi hình thành hiện tƣợng
lệch chuẩn trong phát âm không nằm ở thanh mẫu và vận mẫu, mà nó đƣợc hình thành từ
những lỗi phát âm thanh điệu hoặc những tầng cấp cao hơn thanh điệu‖ [4] (trọng âm, ngữ
điệu, hiện tƣợng biến đổi ngữ âm trong ngữ lƣu...). Trong thực tiễn giảng dạy, có bộ phận
ngƣời dạy chỉ cần ngƣời học có thể nghe hiểu và biểu đạt là đạt yêu cầu, không chú trọng đến
tính chính xác của ngữ âm. Cũng có một số ngƣời dạy cho rằng, tiếng Hán là ngôn ngữ có
thanh điệu và thanh điệu là một điểm khó trong giảng dạy, không thể nắm bắt trong thời gian
ngắn. Vì vậy thƣờng hạ thấp mức độ yêu cầu về tính chính xác đối với ngƣời học. Chính lý do
nêu trên, thƣờng dẫn dến hiện tƣợng ngƣời học phát âm lệch chuẩn rất nghiêm trọng. Do đó,
để nâng cao chất lƣợng và cải thiện việc dạy và học ngữ âm, việc làm trƣớc tiên cần giải
quyết vấn đề nhận thức về tầm quan trọng của việc chuẩn hóa phát âm (Cheng Tang,
2008:35).
Trong lĩnh vực nghiên cứu về dạy và học tiếng Hán nhƣ ngoại ngữ, đặc biệt trong nghiên
cứu dạy và học ngữ âm, hiện có ít nghiên cứu so với những lĩnh vực khác (Wang Jianqin,
2006). Chính vì lý do này, việc dạy và học ngữ âm cũng chƣa đƣợc quan tâm thích đáng, đặc
biệt là đối với việc giảng dạy trọng âm, ngữ điệu cho ngƣời học, thậm chí bị bỏ quên. Nhƣng
song song cũng có một số nghiên cứu tiêu biểu về tiêu điểm trọng âm tiếng Hán rất giá trị.
Cao Wen (2012) đã tiến hành khảo sát và tổng kết đƣợc 20 nhóm tổ hợp thanh điệu có thể cấu
thành đơn vị hạt nhân của câu trần thuật. Từ đó đút kết đƣợc phƣơng thức biểu đạt tiêu điểm
trọng âm trong tiếng Hán. Phƣơng thức quan trọng nhất đó là sự chênh lệch về cao độ giữa
trọng âm và âm tiết liền kề, kế đến mới là trƣờng độ. Cấp độ của sƣ chênh lệch cao độ đƣợc
chia thành 3 cấp: Nhỏ (chênh lệch khoảng 2st); Vừa (chênh lệch khoảng 6st); Lớn (chênh lệch
khoảng 10st). Ngoài ra, Cao Wen còn đề xuất mô hình ―Tiêu điểm+Âm tiết khinh hóa‖ (Cao
Wen, 2010:124), có thể áp dụng vào quá trình giảng dạy để cải thiện phƣơng thức truyền thụ
và làm phong phú hơn nội dung giảng dạy ngữ âm. Tôi cho rằng có thể áp dụng mô hình này
nhƣ một điểm khởi nguồn (bắt đầu từ những đơn vị cơ bản) cho việc dạy và học ngữ điệu và
trọng âm tiếng Hán, giúp ngƣời học thực hành một cách bài bản, có hệ thống. Sau đó mới bắt
đầu biểu đạt những mẫu câu phức tạp hơn. Điều này có tác dụng tích cực trong việc thiết lập
mô hình trọng âm cho ngƣời học.
6. Kết luận
Căn cứ vào kết quả thực nghiệm đã phân tích, tác giả cho rằng khi sinh viên Việt Nam
chƣa biết cách vận dụng mô hình PFC biểu đạt trọng âm tiếng Hán, mặc dù vị trí trọng âm đã
thay đổi, nhƣng ngƣời phát âm vẫn sử dụng duy nhất một mô hình phát âm duy nhất. Vì vậy,
trong quá trình giảng dạy cần chú trọng giảng dạy việc truyền thụ và hƣớng dẫn thực hành
những kiến thức về trọng âm, ngữ điệu giúp ngƣời học thiết lập mô hình trọng âm tiếng Hán.
Việc thiết lập mô hình PFC cho ngƣời học có thể bắt đầu bằng cách sử dụng mô hình ―Tiêu
điểm+Âm tiết khinh hóa‖ để biểu đạt những đơn vị ngữ âm cơ bản. Điều này sẽ đặt nền tảng
ban đầu về trọng âm. Từ đó giúp ngƣời học có thể phát triển năng lực ngữ âm tiếng Hán ở
những cấp bậc cao hơn. Tạo tiền đề quan trọng để ngƣời học phát triển ―tính chân thật về ngữ
âm‖.
614
- Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI
Tài liệu tham khảo
曹文.(2010).现代汉语语音答问.北京:北京大学出版社.
曹文.(2010).汉语焦点重音的韵律表现.北京:北京语言大学出版社.
程棠.(2008).对外汉语教学目的、原则、方法(第二版).北京:北京语言大学出版社.
林焘.(1996) 语音研究和对外汉语教学.世界汉语教学,第 3 期,20-23.
胡裕树.(1987).现代汉语(增订版).上海:上海教育出版社.
王韫佳,初敏,贺琳.(2006).汉语焦点重音和语义重音分布的初步实验研究.世界汉语教学,第 2
期 ,86-98.
Xu Yi (2011).Post-Focus compression: Cross-linguistic distribution and historical origin. The 17th
International Congress of Phonetic Sciences.(152-155). Hong Kong.
VIETNAMESE STUDENTS‟ PROSODIC FEATURES OF
STRESS IN DECLARATIVE SENTENCES
Abstract
This article applies the method of experimental phonetics, though a series of the same
article focus on the different sentences of Vietnamese Chinese learners to examine the
acoustic performance of Chinese sentences stress. The experimental result showed that:
on Chinese stress output, Vietnamese students are using the same pronunciation method
to reflect different focus. Although their Chinese level has been advanced, they have not
yet mastered the Chinese stress. Therefore, this article argues that Chinese phonetics as a
foreign language teaching should attach importance to stress and intonation teaching.
Keywords
stress, broad focus, narrow focus, chinese, prosodic features, vietnamese students
615
nguon tai.lieu . vn