Xem mẫu

  1. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” KHÁI NIỆM CỘNG ĐỒNG ĐÔ THỊ: CẤU TRÖC, MẠNG LƢỚI VÀ SỰ KIẾN TẠO BIỂU TƢỢNG ThS. Đỗ Hồng Quân Khoa XHH - CTXH - ĐNA, Trƣờng Đại học Mở TP. HCM Email: quan.dh@ou.edu.vn Tóm tắt: Nghiên cứu về cộng đồng đô thị nhận được sự quan tâm tương đối lớn đối với các nhà xã hội học. Khởi phát từ câu hỏi về bản chất của tính liên đới xã hội, nghiên cứu về cộng đồng nhằm trả lời cho quy mô, cấu trúc và sự vận hành của các mối quan hệ liên cá nhân làm cơ sở cho sự hình các tổ chức xã hội. Nhìn chung, đời sống đô thị một cách chủ quan và khách quan tạo ra nhiều không gian xã hội, đến lượt mình, những không gian xã hội này tạo ra nhiều hình thái tương tác xã hội làm cơ sở của sự hình thành nên cộng đồng đô thị. Đầu tiên là những cộng đồng dựa trên những ranh giới hữu hình. Sau đó, với sự xuất hiện của Internet cùng mạng xã hội toàn cầu, dẫn đến sự xuất hiện của một loại hình cộng đồng mới – cộng đồng mạng lưới (network community), đã thách thức ranh giới hữu hình về nơi chốn, địa điểm, mối quan hệ lân cận/ xóm giềng. Hơn nữa, trong xã hội đô thị, cộng đồng không còn là một cấu trúc thuần nhất. Thay vào đó, là một biến thể đa dạng với nhiều loại hình cùng cộng sinh trong một không gian. Để tồn tại với sự khác biệt, những cộng đồng này chủ động kiến tạo về biểu tượng, ngôn ngữ, hình ảnh .v.v cho riêng cộng đồng mình trong một xã hội đa chiều cạnh. Từ khoá: cộng đồng, cộng đồng đô thị, mạng lưới xã hội, kiến tạo biểu tượng 1. Đặt vấn đề Sự phát triển “của thành phố và đô thị hoá về đời sống xã hội từ lâu đã đứng ở vị trí trung tâm trong các cuộc điều tra khoa học xã hội. Nhà ở đô thị, chính trị, quan hệ giữa các nhóm, mô thức về giai cấp và phân tầng xã hội, cơ cấu kinh tế, xu hƣớng nhân khẩu học, bản chất của các cộng đồng là một trong những chủ đề đƣợc thăm dò thƣờng xuyên nhất trong lĩnh vực học thuật” (Karp, Stone, Yoels & Nicholas Dempsey, 2015, tr. xii). Về mặt lý thuyết, đời sống đô thị đƣợc định hình thông qua sự tƣơng tác xã hội giữa các cá nhân với nhau và giữa cá nhân với nhóm/ tổ chức xã hội. Về mặt thực tiễn, hầu nhƣ mọi ngƣời đều là thành viên của một hay nhiều cộng đồng nào đó. Đây là nơi cung cấp cho con ngƣời một hệ thống lợi ích và nƣơng tựa trong mối quan hệ với ngƣời khác. Đánh giá về vai trò của cộng đồng, Anthony Giddens cho rằng: “trên mỗi mặt của bình diện chính trị ngày hôm nay, chúng ta nhận thấy nỗi sợ hãi của sự tan rã xã hội và lời kêu gọi về sự hồi sinh của cộng đồng” (Giddens, 1994, tr. 124). Trong ngành xã hội học, câu hỏi về mối quan hệ giữa đời sống đô thị và sự cố kết xã hội cũng thƣờng đƣợc đề cập. Xem xét về mối quan hệ này, có cả quan niệm bi quan lẫn lạc quan. Xu hƣớng bi quan cho rằng đi cùng với sự phát triển xã hội, các hình thái gắn kết làm 50
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” cơ sở cho sự hình thành cộng đồng đô thị đã biến mất, thay vào đó là một xã hội đại chúng. Ngƣợc lại, xu hƣớng lạc quan đã chứng minh cho sức sống mãnh liệt và sự chuyển biến mạnh mẽ của cộng đồng đô thị sang nhiều hình thức khác nhau. Bess, Fisher, Sonn & Bishop (2002) từng lập luận rằng “tại đô thị, những hình thức của đời sống cộng đồng hầu nhƣ không bị suy giảm mà có chăng chỉ là sự chuyển đổi thành những mô thức hay cấu trúc mới. Hơn nữa, nhƣ một sự phản ứng đối với quá trình đô thị hóa vốn đang phải đối mặt với hiện tƣợng có quá nhiều ngƣời, toàn cầu hóa, truyền thông xuyên quốc gia và những tác động của nó lên văn hóa. Sự cách ly về mặt vật lý và xã hội ra khỏi gia đình và bạn bè, nỗi sợ hãi gia tăng về sự thay đổi cũng nhƣ những gì chƣa biết đã khiến cho cộng đồng, sự thuộc về, sự hỗ trợ trở nên hết sức quan trọng trong đời sống hiện đại” (Bess, Fisher, Sonn & Bishop, 2002, tr. 3). Nếu nhƣ các hình thức cộng đồng đô thị biến chuyển không ngừng theo sự thay đổi xã hội thì từng cá nhân trong cộng đồng ấy cũng định hình những chiến lƣợc khác nhau nhằm thích ứng với những bất trắc vốn tƣơng đối phổ biến trong xã hội. Một số nhà nghiên cứu nhìn nhận rằng mỗi cộng đồng đều có những ranh giới của riêng mình, và mỗi ranh giới này đều có sứ mạng “chấp thuận” hay “loại trừ” một số thành viên nào đó để giữ gìn “uy thế” của mình. Từ đó, bản thân các cá nhân cũng có những động cơ khác nhau khi đứng trƣớc các loại hình cộng đồng đô thị. Tại đô thị, hầu hết mọi ngƣời đƣợc kết nối với nhau qua rất nhiều mạng lƣới, trong đó, nếu tính cả tƣơng tác ảo và thực, con số này có thể lên hàng trăm hoặc nhiều hơn. Tại đây, chúng ta nhận thấy động cơ duy lý của một vài cá nhân khi họ có thể từ chối một mạng lƣới rộng rãi nào đó để khám phá những kết nối khác mà theo họ sẽ đem lại lợi ích tại một thời điểm nhất định. Một số cá nhân có thể xuất hiện chiến lƣợc lựa chọn cẩn thận hơn về mạng lƣới mà họ sẽ tham gia, điều đó không có nghĩa là cộng đồng của họ sẽ thƣa thớt hơn mà thực tế đôi khi ngƣợc lại. Đồng thời, cũng có vài cá nhân lựa chọn kết hợp giữa các hình thái mạng lƣới khác nhau nhằm quản trị rủi ro và gia tăng tính ổn định trong môi trƣờng đô thị. Bên cạnh quan điểm cho rằng cộng đồng là một cấu trúc xã hội với những chức năng hay các mối quan hệ tƣơng tác, cũng xuất hiện những lối tiếp cận khác nhìn cộng đồng dƣới quan điểm nhƣ là một sự kiến tạo về biểu tƣợng hay văn hoá. Theo những tác giả này, thực sự không hề có một khái niệm cộng đồng đƣợc định hình rõ ràng về mặt địa lý. Thay vào đó, cần phải xem cộng đồng ở chiều kích tiểu văn hoá đô thị, biểu tƣợng hoặc cấu trúc tinh thần. Cấu trúc tinh thần của cộng đồng đƣợc thể hiện ở chỗ: đôi khi chúng ta không thể nhìn thấy chúng thực sự rõ ràng, nhƣng nếu nhƣ chúng là “thực” đối với những cộng đồng đang nắm giữ chúng thì chúng sẽ trở thành “hiện thực”, tạo ra ranh giới cho các hoạt động xã hội. Trong khi đó, tiểu văn hoá đô thị có chức năng nhƣ một “tấm khảm” cho sự đa dạng của cộng đồng và kiến tạo biểu tƣợng nhấn mạnh đến việc tạo dựng các chuẩn mực, ngôn ngữ, hình ảnh với lịch sử, bối cảnh riêng biệt của từng cộng đồng khác nhau. Nhìn chung, thuật ngữ cộng đồng tƣơng đối khó định nghĩa vì nó tuỳ thuộc vào lĩnh vực chuyên môn của nhà nghiên cứu, lý thuyết áp dụng, ranh giới dùng để phân định khái niệm,v.v. 51
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” 2. Khái niệm cộng đồng đô thị Trong phạm vi bài viết này, tác giả dựa trên các biểu hiện của cộng đồng để phân định khái niệm cộng đồng. Theo đó, khái niệm cộng đồng đô thị đƣợc xem xét dƣới ba khía cạnh: (i) cộng đồng nhƣ một không gian hữu hình/ cấu trúc xã hội; (ii) cộng đồng nhƣ một mạng lƣới xã hội; (iii) cộng đồng nhƣ một sự kiến tạo về biểu tƣợng và văn hoá. 2.1. Cộng đồng nhƣ là một không gian hữu hình/ cấu trúc xã hội Là một thuật ngữ quan trọng trong xã hội học, cộng đồng (community) từ lâu đã đƣợc phổ biến trong giới nghiên cứu cũng nhƣ diễn ngôn khoa học. Bên cạnh sự hiện diện của xu hƣớng toàn cầu hóa và hiện đại hóa vốn đang dẫn đến sự khủng hoảng về tính cố kết xã hội thì cộng đồng đem lại cho con ngƣời cảm giác an toàn và đƣợc hỗ trợ về nhiều phƣơng diện. Xét về mặt ngữ nghĩa, khái niệm cộng đồng xuất phát từ chữ La-tinh communus với com (cùng với hoặc với nhau) và unus (một số hoặc sự biệt lập/ đặc biệt) (Delanty, 2010, tr. x). Trong tiếng Việt, khái niệm cộng đồng đề cập đến “toàn thể những ngƣời sống thành một xã hội, nói chung có những đặc điểm giống nhau, gắn bó thành một khối” (Hoàng Phê, 1996, tr. 205). Nhìn chung, định nghĩa này tƣơng đối đơn giản vì nó chƣa nêu lên đƣợc những cấu trúc cũng nhƣ cơ chế vận hành của các nhóm xã hội đƣợc cấu thành. Trong xã hội học, cộng đồng thƣờng đƣợc xem là một khái niệm then chốt vì thuật ngữ này đề cập đến hầu hết những lãnh địa của xã hội học từ cấp độ vĩ mô nhƣ nông thôn - đô thị, nhóm, phúc lợi xã hội,.v.v đến cấp độ vi mô hơn nhƣ: vai trò của cá nhân trong tƣơng tác xã hội với nhóm hay các thiết chế xung quanh. Từ điển xã hội học Oxford thì cho rằng “cộng đồng đề cập đến một tập hợp những mối quan hệ xã hội đƣợc thiết lập một cách đặc thù dựa trên những cái mà các thành viên cùng có chung - thƣờng là một cảm quan chung về bản sắc (common sense of identity)” (Bùi Thế Cƣờng, Đặng Thị Việt Phƣơng, Trịnh Huy Hóa, 2010, tr. 121). Có lẽ, ranh giới không gian hữu hình là hình ảnh đầu tiên dễ nhận biết nhất về cộng đồng. Trong nghiên cứu cộng đồng đô thị, các thuật ngữ “địa phƣơng”, “nơi chốn”, “láng giềng/ khu phố” đều là những khái niệm tham chiếu đến không gian địa lý, trong đó quan hệ mặt đối mặt giữa các cá nhân chiếm một ƣu thế lớn. Khái niệm này cũng giả định rằng sự phân cách không gian nhƣ vậy kết hợp với sự hình thành và duy trì các nhóm cộng đồng khác nhau nhằm mục tiêu thúc đẩy cảm giác an toàn, sự cam kết và ý thức về sự thuộc về. Dựa trên phƣơng pháp phân tích nội dung (content analysis), George Hillary (1955) cho rằng có đến 94 định nghĩa khác nhau về cộng đồng với ba chiều kích gồm: (1) sự tƣơng tác giữa ngƣời với ngƣời, (2) một hoặc nhiều mối quan hệ đƣợc sẻ chia, và (3) phạm vi lãnh thổ. Zimmerman (2000) cho rằng thuật ngữ cộng đồng đƣợc định nghĩa dựa trên những đặc tính cấu thành. Theo đó, có bốn đặc điểm để xác định một cộng đồng, đó là: (1) sự hiện diện của sự kiện xã hội (social fact), (2) sự phân định rõ ràng, (3) sự liên kết, và (4) sự giới hạn về lãnh thổ. Trong đó, sự kiện xã hội chính là những giá trị, chuẩn mực vƣợt lên trên cá nhân, có sức mạnh chi phối đến mỗi cá nhân trong một cấu trúc xã hội mà cá nhân là thành viên. Sự phân định rõ ràng thể hiện thông qua cách thức vận hành cũng nhƣ cấu trúc của cộng đồng. Sự liên kết chính là mối liên hệ, tƣơng tác giữa các cá nhân với nhau trong cộng đồng. 52
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Và cuối cùng đó là, giới hạn về lãnh thổ: mỗi cộng đồng đều có địa giới của riêng mình. Điều này giống với nhận định của Almgren (2000): lãnh thổ là ranh giới để phân biệt giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Theo ý nghĩa chung nhất, khái niệm cộng đồng, hay 'xóm giềng/lân cận' thƣờng có xu hƣớng gắn liền với ý nghĩa tích cực nhằm khơi gợi 'cảm giác thuộc về [một nơi nào đó] dựa trên sự sẻ chia kinh nghiệm, ngôn ngữ chung, quan hệ họ hàng, lên tất cả những ngƣời sống chung trong một không gian' (Delanty, 2003, tr. 55). Giải thích rõ hơn cho khái niệm không gian “lân cận/xóm giềng (neighborhood) Appadurai (1996) cho rằng: “vùng “lân cận/xóm giềng” đƣợc xem nhƣ là một bối cảnh cộng đồng với những đặc trƣng điển hình bởi thực tại của họ, cho dù là không gian thực (real) hoặc ảo (virtual), và những tiềm năng của họ cho việc tái tạo xã hội” (Appadurai, 1996, tr. 179). Nghiên cứu về không gian vật lý trong xã hội hiện đại dẫn chúng ta đến những nhận định khác nhau về sự kết nối cộng đồng, điều nhiều nhà xã hội học gọi là hiện tƣợng tách biệt trong không gian đô thị. Bulmer (1986) dẫn lại kết luận của Abrams rằng: các khu lân cận/xóm giềng không còn đủ năng lực nếu nhƣ nó đã từng là - của một cộng đồng bền chặt. Những nghiên cứu gần đây đƣợc đăng tải trên tờ tạp chí West Yorkshire ở Vƣơng quốc Anh đƣa ra kết luận rằng những ngƣời sở hữu nhà ở tại đây thƣờng lảng tránh các hiệp hội làng xóm/lân cận, thay vào đó, họ theo đuổi nhiều hơn “sự riêng tƣ và không gian cá nhân”. Cuộc khảo sát cũng cho thấy hơn một nửa (53%) không muốn những ngƣời hàng xóm tò mò biết về công việc của họ, 59% thích mua một căn nhà riêng tƣ và không bị những ngƣời hàng xóm dò xét, trong khi hơn (37%) thừa nhận rằng họ thƣờng đi vắng nhiều tuần và không mấy khi tiếp xúc với xóm giềng xung quanh. Những ví dụ ở trên minh chứng cho một loại hình cộng đồng mới xuất hiện ở những giai tầng có địa vị với tên gọi là cộng đồng “có cổng” (gated communities) đƣợc Bruhn (2011) và Low (2001) chia thành ba nhóm, đó là: (1) cộng đồng lối sống (hoặc cộng đồng có chủ ý) cung cấp cho những thành viên sự an toàn và tách biệt cho những hoạt động giải trí và những tiện nghi (ví dụ nhƣ cộng đồng hƣu trí, chơi golf, tennis…); (2) cộng đồng ƣu tú (elite) (sang trọng) tƣợng trƣng cho sự khác biệt và uy thế (prestige), cộng đồng này luôn chủ ý bảo vệ vị thế xã hội cũng nhƣ luôn tìm cách phóng chiếu hình ảnh cá nhân, và (3) cộng đồng với khu vực an ninh (security zone) bao gồm những ngƣời có mối quan tâm chính là bảo vệ tài sản cũng nhƣ chính bản thân họ. Trên thực tế, cộng đồng thƣờng đƣợc nhìn nhận trong mối tƣơng quan giữa các tổ chức/nhóm nhỏ (chẳng hạn như lân cận/xóm giềng), kéo dài qua một vài khu phố ở đô thị, phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào các hình thái chung của đời sống đô thị. Mục đích chính của những cộng đồng này là nhằm xây dựng nên cảm thức chung về sự thuộc về (belonging) qua việc chia sẻ chung một căn cƣớc (identity), ngôn ngữ, quan hệ họ hàng và trên hết là việc sinh sống trong một không gian chung. Sự tồn tại của các hình thức kiểm soát xã hội đƣợc tạo dựng từ bên trong cộng đồng có xu hƣớng bảo vệ nó khỏi các mối đe doạ từ bên ngoài. Clarke và các tác giả khác (2007) mô tả cảm thức chung về vùng lân cận/xóm giềng nhƣ: cảm giác quen thuộc, tin cậy và phổ biến giữa các cá nhân với nhau trong một thế giới hiện đại bất trắc, cung cấp cho các thành viên sự an ninh, quyền sở hữu và 53
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” an toàn. Một cách chung nhất, khái niệm thuộc về một vùng lân cận/xóm giềng dƣờng nhƣ biểu thị cho ý tƣởng rằng: cộng đồng không chỉ là một thực thể xã hội đƣợc hình thành tƣơng đối gần gũi với thế giới của các thành viên bên trong nó mà còn là nơi đại diện cho sự giới hạn về không gian và quy mô. Nghiên cứu về hai nhóm cộng đồng ở phía Tây Nam nƣớc Anh đã đƣa Clarke và các tác giả khác (2007) đi đến kết luận rằng: khái niệm “cộng đồng ngƣời Anh” ít có tiếng vang và ảnh hƣởng đối với nhiều ngƣời. Thay vào đó, các thể chế địa phƣơng có quy mô nhỏ nhƣ: trƣờng học, nhà thờ, câu lạc bộ thanh thiếu niên… lại đƣợc xem nhƣ là những cộng đồng, mang ý nghĩa nổi bật cùng với ý thức tập thể và sự thuộc về. Điều này chứng minh rằng, cộng đồng trong ý nghĩa chủ quan của cá nhân gắn bó mật thiết với những cấu trúc vi mô xoay xung quanh môi trƣờng sống của họ. Đánh giá về vai trò của cộng đồng trong xã hội hiện đại, điều mà chúng ta dễ nhìn thấy nhất chính là những ích lợi mà nó đem lại đối với cá nhân. Tuy nhiên, ở mức độ nào đó, chính sự gắn kết cộng đồng lại là nguyên nhân gây dẫn đến hiện tƣợng ngăn cản sự di động xã hội cá nhân. Thêm nữa, ngay cả việc hình thành các hình thái cộng đồng dựa trên ranh giới hữu hình cũng gặp những thách thức lớn trong xã hội đô thị do những đặc điểm của tƣơng tác xã hội và mức độ di động xã hội cá nhân đôi khi không còn thích hợp. Bulmer (1986) cho rằng việc các vùng lân cận/xóm giềng ràng buộc cá nhân gắn kết chặt chẽ với nhau và nhƣ vậy là quá hẹp để có thể duy trì các mối quan hệ có ý nghĩa. Thực tế, có quan hệ chặt chẽ với cộng đồng địa phƣơng đôi khi lại là một bất lợi, vì điều này cuối cùng sẽ hạn chế mức độ di động xã hội đi lên của cá nhân trong một xã hội tiêu thụ đang ngày càng đƣợc cá nhân hoá. Ngoài ra, cộng đồng đƣợc xây dựng trên không gian hữu hình khi đối mặt với những thách thức do sự biến chuyển xã hội có nguy cơ làm suy yếu sự gắn kết xã hội (Clarke và các tác giả khác, 2007). Bauman (2001) chỉ ra rằng “sự suy giảm của tính địa phƣơng” giống nhƣ tình trạng bất động (immobility) và hiện đang là thƣớc đo chính yếu cho sự tƣớc đoạt xã hội” (Bauman, 2001, tr. 38-39). Thay thế cho điều đó, mục đích xa hơn của các cá nhân trong những cộng đồng này là “dịch chuyển” và “tránh gắn bó lâu dài” tại những khu vực đô thị. Trong khi Hanley (2007) từng than vãn rằng: ít có cơ hội gặp gỡ trên đƣờng phố nơi mà chúng ta sống khiến cho con ngƣời sụt giảm ý thức về không gian cộng đồng, sự sẻ chia hoặc đồng sở hữu. Hơn nữa, những diễn ngôn đƣơng đại về quyền sở hữu nhà ở chủ yếu dựa vào việc thƣơng mại hoá hay mua “các loại tài sản” nhƣ một hình thức đầu tƣ tạm thời thay cho việc tìm kiếm một nơi cƣ ngụ ổn định. Kết hợp giữa những yếu tố này, nổi lên xu hƣớng cá nhân trong xã hội đô thị không còn mặn mà với việc thiết lập các mối quan hệ xã hội mạnh với những ngƣời xung quanh, cũng nhƣ không dựa vào cộng đồng xóm giềng/lân cận để xây dựng ý thức thuộc về và căn cƣớc cá nhân. Nói cách khác, trạng thái bền vững cần thiết để nuôi dƣỡng một cộng đồng gắn bó với nhau tại địa phƣơng đã không còn hiện hữu. Trên phƣơng diện chính sách, dƣờng nhƣ là sự thất bại chung của nhiều cộng đồng đô thị mới nổi, khi điều dễ nhìn thấy là sự hiện diện của những toà nhà hoặc bất động sản thể hiện sự giàu có nhƣng lại thiếu những không gian sinh hoạt chung, câu lạc bộ, khu vui chơi,v.v. vốn có chức năng rất quan trọng trong việc tạo dựng nên những trải nghiệm 54
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” chung về không gian, tiếp xúc và kiểm soát để hình thành nên ý thức chung về một cộng đồng. Nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy rằng trong xu hƣớng biến chuyển xã hội nói chung, cộng đồng địa phƣơng cũng không nằm ngoài. Dƣới tác động của toàn cầu hoá, di động cá nhân, quyền tự do, v.v. cộng động hữu hình đã đƣợc trao cho nhiều quyền năng hơn để biến đổi. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông dƣờng nhƣ đƣa đến gợi ý rằng: sự mất mát của cộng đồng khu phố là bình thƣờng và không có nhiều tổn hại. Castells (2000) cho rằng: Internet có thể đƣợc sử dụng nhƣ một hình thức bổ sung cho cộng đồng nơi không gian địa lý trở nên ít quan trọng hơn so với sở thích và mong muốn đƣợc sẻ chia nơi cá nhân. Ngoài ra, đời sống đô thị phục vụ và kích thích ngƣời dân tham gia vào các phong trào xã hội mới; bởi vì các cộng đồng trong “ngôi làng toàn cầu” (global village) là những cộng đồng tự chọn nơi các thành viên tích cực tham gia vì những mong đợi và niềm tin cá nhân nơi họ, thay vì cảm thấy buộc phải có các nghĩa vụ nào đó, do mối quan hệ truyền thống của địa phƣơng và nền văn hoá. Từ những đặc trƣng đó, cộng đồng đã có sự thay đổi hình thái cấu trúc, sự xuất hiện của cộng đồng dựa trên mạng lƣới xã hội nhƣ là một sự thích nghi mới của cộng đồng đô thị trong sự biến chuyển xã hội. 2.2. Cộng đồng nhƣ một mạng lƣới xã hội Cộng đồng nhƣ một mạng lƣới xã hội mô tả trạng thái các cá nhân trong xã hội hiện đại có sự kết nối, ảnh hƣởng, tƣơng tác và định hình lối sống lẫn hành vi nhƣ một cộng đồng thông qua các phƣơng tiện đại chúng. Bender (1978), McMillan và David Chavis (1986) cho rằng cộng đồng có thể đạt đến sự độc lập trong bối cảnh các mạng lƣới xã hội tồn tại và duy trì đủ mạnh để tƣơng tác (giữa các cá nhân) và lập ra những hội mới. Theo quan điểm này, lãnh thổ [tức là không gian về mặt địa lý] có thể không cần thiết cũng nhƣ không phải là điều kiện đủ để xác định sự tồn tại của một cộng đồng. Điều này gần giống với lập luận của McLuhan khi ông cho rằng: công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo nên những biểu thức mạnh mẽ mới về cộng đồng, vƣợt xa so với tất cả những hình thức vẫn đƣợc biết về cộng đồng từ trƣớc đến nay. Trong quá khứ, công nghệ đƣợc xem nhƣ là nguyên nhân làm suy yếu các cộng đồng, nhƣng hiện nay, thời đại của công nghệ phần mềm, cộng đồng đã đƣợc trao cho những khả năng mới để tự thể hiện mình (Delanty, 2010, tr. 134; Castells, 2001; Jones, 1995). Sự quan trọng của “cộng đồng trực tuyến” có nguyên nhân một phần từ sự tƣơng tác của cá nhân trong xã hội hiện đại. Tại đô thị, sự tƣơng tác của cá nhân trong những cộng đồng mặt giáp mặt (face to face) là tƣơng đối hạn hữu (Turkle, 2012). Ngoài ra, khi cá nhân tách rời nhau trong một không gian xã hội chung, không chỉ khiến cho những cộng đồng trở nên “héo úa”, mà còn có nguy cơ dẫn đến những nguyên tắc cơ bản và sự thực hành nền dân chủ sẽ bị ảnh hƣởng (Putnam, 2001). Vì vậy, bằng một cách nào đó, các cộng đồng đô thị sẽ phải tái tổ chức theo những hình thức của mối tƣơng tác ảo, giữa những cá nhân có cùng chung sở thích, xu hƣớng,.v.v... Rheingold (1993) và một số tác giả đã đánh giá những phẩm chất của cộng đồng trực tuyến và khả năng của cộng đồng này nhằm xây dựng các mạng lƣới 55
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” đóng góp cho mối quan hệ hữu nghị, thân tình giữa các cá nhân. Thực tế, Rheingold xem Internet nhƣ là một phƣơng tiện cho phép ngƣời dùng trình diễn căn cƣớc của họ theo ý muốn, đến cộng đồng “ảo” và hình thành các mạng lƣới xã hội hoặc cộng đồng xung quanh một mối quan tâm chung. Thậm chí, Internet có tiềm năng xây dựng lại các cộng đồng “ngoại tuyến” vốn đã bị hƣ hỏng nhờ vào sức mạnh của nó để viết lại các quy tắc và nghi thức của cuộc sống hiện đại. Bằng cách áp dụng khái niệm mạng lƣới xã hội vào nghiên cứu hiện tƣợng di cƣ, nhiều nhà nghiên cứu cũng nhận thấy rằng cộng đồng của lao động di cƣ không chỉ đƣợc xây dựng dựa trên không gian cƣ trú mà còn là không gian “ảo” khi cá nhân tham gia vào các nhóm xã hội trên không gian Internet. Theo khuôn mẫu “xã hội đại chúng” về sự phân mảnh đô thị, những ngƣời di cƣ thƣờng bị nhìn nhận nhƣ là những ngƣời tự do, không rõ về nguồn gốc và bị kì thị, và đôi khi họ còn bị cho là nguyên nhân chính dẫn đến sự hỗn loạn đô thị. Nhƣng, những điều tra gần đây cho thấy rằng, ngƣợc lại, phần lớn những ngƣời đi cƣ vào đô thị không hoàn toàn bị cô lập, cấu trúc và cơ chế trong cộng đồng của họ cung cấp chỗ dựa cho mục tiêu hội nhập đô thị. Trong những cơ chế làm bệ đỡ cho sự hội nhập đó, mạng lƣới di cƣ đóng một vai trò then chốt giúp liên kết cộng đồng di cƣ này với các cộng đồng hiện hữu ở đô thị. Đó có thể là các nhóm nghề nghiệp, nhóm lợi ích chung hoặc những mối tƣơng tác xã hội với các nhóm đa dạng khác ở đô thị. Điều này đã dẫn đến một hiện tƣợng mà Craven & Wellman (1973) gọi là sự buộc chặt vào trong cấu trúc đô thị. Đồng thời, việc sử dụng các mạng lƣới xã hội của cộng đồng lao động di cƣ còn là một chiến lƣợc khiến cho việc tận dụng những nguồn lực xã hội hữu hình và vô hình tại đô thị diễn ra suôn sẻ hơn. Nhìn chung, những định hƣớng nghiên cứu về cộng đồng dƣới góc nhìn mạng lƣới xã hội đã đem lại những sức sống mới và lời giải thích toàn diện hơn cho khái niệm cộng đồng. Thứ đến, cộng đồng dƣới quan điểm mạng lƣới cũng thể hiện động cơ cá nhân rõ ràng hơn; biên giới cộng đồng trở nên năng động và mức độ thích ứng tốt hơn. Hơn thế nữa, việc nắm bắt đƣợc những gì chúng ta cần phân tích về các mạng lƣới, sẽ giúp cung cấp những bằng chứng về hệ quả tâm lý - xã hội của các mạng lƣới xã hội cụ thể mà chúng ta gọi là cộng đồng. Xu hƣớng chung đó là các thành viên trong cùng một mạng lƣới sẽ phát triển tỷ lệ tƣơng tác xã hội cao với nhau dựa trên sở thích hoặc các đặc điểm xã hội chung. Từ những mối quan hệ này, sẽ hình thành nên những quan hệ mở rộng khác, đa dạng hơn. Nhìn chung, mật độ kết nối cao trong cộng đồng tạo điều kiện cho việc thiết lập nên các kết nối mới, bởi vì các thành viên chung trong cộng đồng cung cấp những bối cảnh và cơ hội cho những thành viên chƣa kết nối trƣớc đó gặp gỡ nhau. Vì vậy, xu hƣớng tăng lên của mật độ mối quan hệ trong và ngoài cộng đồng là điều nhìn thấy rõ. 2.3. Cộng đồng nhƣ một sự kiến tạo xã hội về biểu tƣợng Những ý tƣởng cho rằng cộng đồng là một sự kiến tạo xã hội không phải là một điều hoàn toàn mới. Trên thực tế, khi một nhà nghiên cứu đƣa ra một giả thuyết rằng: có một thực thể gồm nhiều mối quan hệ nào đó đƣợc xây dựng trên cơ sở tự nhiên, dựa vào những nguồn lực nội tại của họ, sử dụng năng lực sáng tạo tạo dựng và thực hành các thiết chế văn hoá, tín 56
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” ngƣỡng, ngôn ngữ, biểu tƣợng, v.v..thì cách tiếp cận về sự kiến tạo xã hội sẽ đƣợc đề cập đến. Điều này cũng nhằm đƣa đến một ngụ ý rằng, mỗi một cộng đồng có riêng cho mình một lịch sử, quỹ đạo phát triển, quá trình tồn tại của họ đƣợc thể hiện thông qua việc tiếp nhận và tái tạo liên tục những thiết chế xã hội. Ngoài ra, “không có một thảo luận nào về cộng đồng mà có thể tránh khỏi việc giải quyết vấn đề đa văn hoá, bởi vì khái niệm cộng đồng đã trở nên vô cùng đa dạng, nói về cộng đồng tức là nói về sự khác biệt” (Delanty, 2003, tr. 71). Với Cohen (1985) thì “cộng đồng cũng giống nhƣ những khái niệm “văn hoá”, “thần thoại” hay “biểu trƣng” thƣờng đƣợc trao đổi trong đời sống hàng ngày, rõ ràng là rất dễ hiểu đối với ngƣời nói và ngƣời nghe nhƣng khi du nhập vào các diễn ngôn khoa học thì lại gây khó hiểu vô cùng. Qua nhiều năm, khái niệm này đã chứng tỏ sức “đề kháng” tƣơng đối mạnh trƣớc những nỗ lực nhằm đƣa ra một định nghĩa thoả đáng về cộng đồng của ngành nhân học và xã hội học”. Điều đầu tiên mà các nhà phân tích về khái niệm cộng đồng quan tâm đó là tính chất chủ động của cá nhân trọng việc kiến tạo nên hệ thống biểu tƣợng cho cộng đồng của mình. Lập luận này đƣợc đƣa ra bởi Harvey (1989a, tr. 148) khi ông phê bình quan điểm cấu trúc luận vốn nhìn cộng đồng nhƣ là thành tố bị tác động bởi uy lực kinh tế, chính trị và quyền lực. Ngƣợc lại, cộng đồng nhƣ một thực thể tự chủ động, các tác nhân địa phƣơng có vai trò bảo vệ gia đình, lãnh thổ và cộng đồng chống lại sự phân chia liên tục. Anthony Cohen, một nhà nhân chủng học xã hội kiên quyết bác bỏ giả định rằng: các cộng đồng đều đƣợc điều khiển bởi các lực lƣợng kinh tế hoặc chính trị. Ngƣợc lại, Cohen (1982) chứng minh sự phức tạp trong cấu trúc chặt chẽ của đời sống cộng đồng địa phƣơng và những “nhịp nối” mật thiết của các mối quan hệ xã hội gần gũi mà mọi ngƣời trong cộng đồng đều xem là một thuộc tính xã hội cơ bản của họ, đã kéo chúng ta trở lại với sự gần gũi hơn với cộng đồng và những mối quan hệ mặt giáp mặt của nó (Cohen. 1982, tr. 9). Nhìn chung, những nghiên cứu gắn khái niệm cộng đồng với các nhóm xã hội cụ thể đƣợc thể hiện qua việc áp dụng phƣơng pháp nghiên cứu định tính và quan sát bên cạnh việc dựa trên những dữ liệu định lƣợng. Mục tiêu của cách tiếp cận này không chỉ nhằm cắt nghĩa một cách hoàn chỉnh về một lối sống cụ thể nào đó hay quá trình hội nhập xã hội dƣới tác động của các cấu trúc mà còn xem xét liên đới đến những cách thức mà con ngƣời xác định căn tính của mình trong căn tính cộng đồng cũng nhƣ duy trì ý thức về cộng đồng nhƣ một thực tại xã hội. Đồng thời, chúng ta nên thay thế ý niệm cộng đồng là một “tập hợp các quá trình tạo ra một sản phẩm thuộc về địa lý” bằng quan điểm “cộng đồng là một sản phẩm cuối những chuỗi dài của mối liên hệ nhân quả”. Mặt khác, dƣới quan điểm lý thuyết, tiếp cận cộng đồng theo khuynh hƣớng kiến tạo luận đã bắt đầu chú ý nhiều hơn đến việc giảm thiểu ảnh hƣởng của xu hƣớng cấu trúc luận bằng cách kết hợp xu hƣớng này với những quan điểm tích cực hơn về cộng đồng, nhìn nhận vai trò chủ quan, hành động của các tác nhân trong chính các cộng đồng trong sự kiến tạo nên căn tính cho cộng đồng của mình. Đây là hai xu hƣớng gắn chặt với nhau trong một chỉnh thể cộng đồng. 57
  9. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Kiến tạo biểu tƣợng cộng đồng liên quan không chỉ đến việc tạo dựng những đặc điểm dùng để nhận dạng một cộng đồng mà nó còn là ranh giới để phân định các cộng đồng khác nhau. Đối với Cohen (1982) thì biểu tƣợng của cộng đồng41 đƣợc định hình bởi những hình ảnh, các quy trình đánh dấu ranh giới: nhƣ phong tục, thói quen, nghi lễ và sự giao tiếp, là những đặc trƣng quan trọng nhằm xác định tƣ cách thành viên cộng đồng, bởi vì chúng không chỉ là những cử chỉ (gesture) đã đƣợc sẻ chia ý thức về thực tại mà còn nhằm để hình thành thực tại đó. Mặt khác, trong những yếu tố quan trọng đánh giá về các mối quan hệ cộng đồng địa phƣơng, Cohen đặc biệt chú ý đến việc “tôn trọng cái riêng biệt”. So sánh với những thiết chế to lớn hơn nhƣ nhà nƣớc, tôn giáo hay giai cấp, Cohen cho rằng cộng đồng có khả năng chuyển tải những giá trị, kiến thức, định mệnh cũng nhƣ sự kiến tạo và chi phối đến các nhóm xã hội khác tốt hơn so với những thiết chế to lớn ở trên. Do đó, nếu nhƣ muốn tìm hiểu về một cộng đồng nào đó, chúng ta phải gặp họ ở trên “lãnh thổ” của chính họ. Đánh giá về các mối quan hệ có vai trò định hình đời sống cá nhân trong xã hội đô thị, Robert Putnam (2000, tr. 274) lập luận rằng: đối với hầu hết chúng ta, ý thức sâu sắc nhất về sự thuộc về nằm ở các mạng lƣới xã hội thân mật nhất, đặc biệt là gia đình và bạn bè. Ngoài chu vi đó là công việc, nhà thờ, khu phố, đời sống công dân .v.v. và các mối quan hệ xã hội “yếu” khác. Từ hai quan điểm này, chúng ta mong đợi rằng bất kỳ cá nhân nào khi gắn với những nhóm xã hội nhƣ vậy cũng sẽ hình thành nên những thuộc tính và các mạng lƣới xã hội chặt chẽ. Đồng thời, chúng cũng ngụ ý rằng tất cả các hình thái cộng đồng đều có những điểm đặc biệt riêng. Với những ngƣời đƣợc gắn vào đó, chắc chắn, cộng đồng sẽ hiển thị một hình thái độc đáo, riêng biệt. Từ đó, Cohen tiếp tục đƣa ra lập luận về vai trò sản xuất biểu tƣợng và xác định ranh giới của cộng đồng nhƣ sau: “nhƣ chúng ta đã thấy, sự suy giảm những cộng đồng địa lý đã dẫn đến sự tái khẳng định mới trong ý niệm về biểu tƣợng. Vì các ranh giới vốn dĩ đối lập nhau, hầu nhƣ bất kỳ nhận thức nào về sự khác biệt giữa cộng đồng và thế giới bên ngoài đều có thể hiển thị biểu tƣợng nhƣ một nguồn lực về ranh giới của nó. Cộng đồng có thể làm cho bất kỳ thứ gì đó trở thành một nơi sản xuất biểu tƣợng về khoảng cách văn hoá, cho dù đó là ảnh hƣởng có nó đối với một số chính sách của chính phủ, hay những vấn đề xã hội khác nhƣ: phƣơng ngữ, ăn mặc, thức uống hoặc sự chết. Ngoài ra, bản chất của biểu tƣợng còn đề cập đến việc con ngƣời có thể "tự mình suy nghĩ về sự khác biệt". Ranh giới cơ bản bao gồm việc tiếp nhận những ý nghĩa đặc biệt trong các diễn ngôn xã hội về cộng đồng. Cộng đồng cung cấp cho mọi ngƣời một sự giới thiệu về những căn 41 Khi đề cập đến sự kiến tạo biểu tƣợng về cộng đồng, Cohen từng cho rằng tác phẩm của ông chƣa có ý định đƣa một định nghĩa khác, mà chỉ nêu lên những lời khuyên của Wittgenstein về việc tìm kiếm ý nghĩa không chỉ ở từ vựng mà còn ở việc sử dụng. Việc giải thích hợp lý về cách sử dụng khái niệm cộng đồng dƣờng nhƣ ngụ ý về hai vấn đề đó là: (1) liên quan đến thành viên của một nhóm ngƣời, có một số đặc điểm chung và; (2) giúp phân biệt họ theo phƣơng thức có ý nghĩa với những thành viên của những nhóm giả định khác. Do đó, cộng đồng dƣờng nhƣ mang ý nghĩa ngụ ý đồng thời vừa “giống” vừa “khác”, khái niệm này thể hiện những ý tƣởng liên quan đến sự đối lập của một cộng đồng với những cộng đồng khác hoặc đối với những thực thể xã hội khác. Do đó, việc cần thiết để xác định một cộng đồng chính là tìm hiểu về ranh giới của nó. 58
  10. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” tính cá nhân. Sau đó, cá nhân đƣợc thể hiện những căn tính42 đó và củng cố nó thông qua việc trình bày những căn tính đó trong đời sống xã hội” (Cohen, 1985, tr. 117). Qua nhận định trên, chúng ta có thể kết luận rằng ranh giới (boundary) đánh dấu sự bắt đầu và kết thúc của một cộng đồng. Ngoài ra, ranh giới còn thể hiện những đặc điểm căn cƣớc của một cộng đồng và giống nhƣ căn cƣớc của một cá nhân, đƣợc đặt để vào trong tình huống cần thiết cho sự tƣơng tác xã hội. Ranh giới đƣợc đánh dấu vì cộng đồng sẽ tƣơng tác theo một cách nào đó để có thể phân biệt với những cộng đồng khác. Cách mà chúng đƣợc đánh dấu hoàn toàn phụ thuộc vào một cộng đồng cụ thể đang đƣợc xem xét. Giống nhƣ đƣờng biên giới của một quốc gia, các cộng đồng luôn có những luật lệ riêng để giữ gìn cương thổ của mình. Một số cộng đồng nhờ vào địa hình núi non, sông biển có thể nhận biết rõ rệt. Một số cộng đồng có chung chủng tộc, ngôn ngữ hoặc tôn giáo nhƣng không có ranh giới, không có bộ phận cấu thành nào tạo nên ranh giới một cách khách quan rõ rệt; mà chỉ có thể là những điều nằm trong tâm trí của con ngƣời về những điều mà họ ngƣỡng mộ. Nhƣ vậy ranh giới cộng đồng có những ý nghĩa khác biệt, đƣợc định hình không chỉ bởi những ngƣời ở phía đối diện, mà còn do chính những ngƣời ở cùng một hƣớng (Cohen, 1985, tr. 12). Nhìn chung, Cohen không đơn độc trên con đƣờng chứng minh những chiều kích chủ quan của cộng đồng. Bởi nhiều năm trƣớc đó, trong một nỗ lực để phân tích các mối quan hệ xã hội địa phƣơng đã tách khỏi ranh giới lãnh thổ địa lý, Pahl (1970a) đã chứng minh về sự tồn tại của những "ngôi làng ở trong tâm trí", đã dẫn đến những lối sống nông thôn khác nhau, ngay cả trong một không gian vật lý của một khu đô thị. Tƣơng tự nhƣ vậy, cũng sẽ có những ngƣời sống tại khu vực nông thôn, trong khi họ đang theo đuổi tinh thần của một “cộng đồng quốc tế” trong thành phố. Theo Anderson (1983), chúng ta có thể thấy rằng những ngƣời nhƣ vậy đang tự định hình bản thân mình với một số hình thái của "cộng đồng tƣởng tƣợng", bao gồm những cá nhân mà họ cho rằng có cùng chung giá trị, nguyện vọng và kinh nghiệm. Sự kiến tạo ranh giới cộng đồng do đó phải đƣợc xem xét trên cơ sở nội tại của từng cộng đồng, vô hình và có liên quan mật thiết với cuộc sống của cƣ dân sống ở trong đó. Theo Cohen, chỉ khi nào đứng ở trên bình diện này thì chúng ta mới tỏ rõ về sự đặc biệt của khái niệm cộng đồng hơn rất nhiều so với những lời hoa mỹ khi các nhà lãnh đạo gọi Thị Trƣờng chung (Common Market) là một cộng đồng. Họ đƣợc xem là nói theo kiểu khoa trƣơng, gợi niềm cảm hứng về quyền lợi nhƣng mà ai cũng hiểu rõ là không hề có trên thực tế. Ví dụ, khi cƣ dân đảo Shetland43 nói về cộng đồng của họ, họ đề cập đến một thực thể đƣợc vun đắp với cả một tấm lòng gắn chặt với bà con, xóm giềng, bạn bè thân thuộc. Cả sự cạnh tranh và ghen hờn, khi họ hình thành nên một quá trình xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Rõ ràng, ở mức độ này, cộng đồng có ý nghĩa trừu tƣợng hơn rất nhiều so với những khái 42 Khái niệm căn cƣớc/hay căn tính (identity) là cái mà nhờ đó đó tôi nhận biết mình là ai, và cũng nhờ đó mà ngƣời khác nhận ra tôi là tôi. Căn cƣớc luôn đi cùng với những dấu hiệu nào đó: nó tự thể hiện thông qua những dấu hiệu này để khẳng định rằng, một mặt, tôi giống các thành viên của một nhóm xã hội nào đó, và mặt khác, tôi không giống các thành viên của các nhóm xã hội khác (Berger & Luckmann, 1966, Bản dịch của Trần Hữu Quang (phần chú giải), 2015, tr. 288). 43 Shetland là một quần đảo tại Scotland nằm tại phía Bắc và Đông của Anh quốc. 59
  11. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” niệm đƣợc hùng biện trong giới chính trị. Nó là bản lề quan trọng của sự nhận thức (Cohen, 1985, tr. 13-14). Từ đây, chúng ta có thể kết luận rằng: ý thức cộng đồng bao gồm cả sự nhận thức và bị tác động bởi ranh giới, mà ranh giới tự nó cũng là sản phẩm đƣợc tạo nên bởi sự tác động của con ngƣời bên trong ấy. 3. Kết luận Trong những điều kiện hiện tại của đời sống đô thị, nghiên cứu về cộng đồng đƣợc xem nhƣ một hƣớng quan trọng giải thích sự gắn kết, hội nhập. Những nghiên cứu thực nghiệm có thể đƣa đến hai thái độ khác nhau về cộng đồng đô thị: hoài nghi và lạc quan. Tuy vậy, cho dù đứng ở thái độ nào đi nữa, thì ý nghĩa của cộng đồng vẫn đƣợc xem nhƣ là một cấu trúc định hình ý thức cá nhân, hình thành mạng lƣới tƣơng trợ, thúc đẩy việc thụ hƣởng phúc lợi.v.v đều mà ai trong chúng ta cũng đều mong đợi. Thứ đến, đời sống đô thị cũng đƣợc định nghĩa qua mức độ hội nhập, khả năng thích ứng và sự thay đổi. Nhìn chung, cộng đồng đô thị đề cập đến mối quan hệ giữa cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau.v.v. trong một loạt các bối cảnh: địa lý, giữa các cá nhân, tổ chức, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Mặt khác, cộng đồng cũng tồn tại trong mối quan hệ với sự gia tăng về quyền cá nhân, trách nhiệm xã hội, sự loại trừ, tách biệt và hội nhập, toàn cầu và địa phƣơng hoá. Do đó, thách thức đối với những nhà nghiên cứu về thuật ngữ này đó là: cần có cái nhìn tổng quan đầy đủ về khái niệm này. Cộng đồng đã biến chuyển từ hệ thống cấu trúc “hữu hình” sang những hình thức “ảo” hơn. Sự lựa chọn loại hình cộng đồng để trở thành thành viên của cá nhân phản ánh rõ nét xu hƣớng cá nhân hoá, gia tăng mức độ di động xã hội, ngoài ra, cộng đồng cũng hiện diện trƣớc mắt chúng ta với hình hài của sự quan tâm chung, tự nguyện chứ không đơn giản chỉ là sự “khiên cƣỡng” tham gia nơi cá nhân. Do đó, mô hình có tính xu hƣớng trong xã hội đƣơng đại có khi là sự xuất hiện của “một cộng đồng trong cộng đồng”. Cuối cùng, phân tích cộng đồng đã đƣợc thực hiện trong một thời gian dài với sự thiếu vắng hệ thống lý thuyết trong định nghĩa và phân loại khái niệm này. Quan điểm của nhiều tác giả sau này đều nhắc nhở chúng ta tránh đi vào con đƣờng cực đoan về các xu hƣớng phân tích. Mà đúng hơn, con ngƣời hiện tại đang phải đối mặt với vô số cộng đồng khác nhau. Do đó, câu hỏi nên đƣợc quan tâm lúc này không chỉ là việc có bao nhiêu cấu trúc cộng đồng mà là sự gắn kết của con ngƣời với cộng đồng hiện tại nhƣ thế nào. Chúng ta tìm kiếm một sự hiểu biết về cộng đồng thông qua việc phải cố gắng nắm bắt cảm thức về kinh nghiệm và ý nghĩa của con ngƣời gắn liền với cộng đồng của họ. Theo Cohen (1985) thì “chúng ta cần tránh xa việc những chuyên ngành nhấn mạnh trƣớc đó đã đặt cơ sở vào cấu trúc. Chúng ta tiếp cận cộng đồng nhƣ một hiên tƣợng về văn hoá: nhƣ một, do đó, đã đƣợc kiến tạo một cách đầy ý nghĩa bởi con ngƣời thông qua sức mạnh và tài nguyên biểu trƣng của họ”. 60
  12. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anderson. (1983). Imagined Communities. London: Verso. 2. Appadurai. (1996). Modernity at Large: Cultural Dimensions of Globalisation. Minneapolis: University of Minnesota Press. 3. Bauman. Z. (2001). The Individualized Society. Cambridge: Polity. 4. Bender. (1982). Community and social change in America. Baltimore, MD: Johns Hopkins UniversityPress. 5. Bess. Kimberly, Fisher, Sonn & Bishop. (2002). Psychological Sense of Community: Theory, Research and Application. New York: Plenum Publishers. 6. Brent. (1997). Community Without Unity. Trong Hoggett, Contested Communities: Experiences, Struggles, Policies. Bristol: The Policy Press. 7. Bruhn. (2011). The Sociology of Community Connections. New York: Springer. 8. Bùi Thế Cƣờng, Đặng Thị Việt Phƣơng, Trịnh Huy Hóa. (2010). Từ điển Xã hội học Oxford. Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội. 9. Bulmer. (1986). Neighbours: The Work of Philip Abrams. Cambridge: Cambridge University Press. 10. Castells, M. (2000). The Rise of the Network Society: The Information Age: Economy, Society and Culture (Vol 1). Oxford: Blackwell. 11. Castells, M. (1999). (2002). The Culture of Cities in the Information Age. Trong Susser, The Castells Reader on Cities and Social Theory. Malden, MA: Blackwell. 12. Clarke, S., Gilmour, R. & Garner. (2007). Home, Identity and Community Cohesion. Trong M. L. M. Wetherell, Identity, Ethnic Diversity and Community Cohesion (trang 87- 101). London: Sage. 13. Cohen, A. (1985). The Symbolic Construction of Community. London: Routledge. 14. Craven & Wellman. (1973). The network city. Sociological Inquiry, 57-88. 15. Delanty. (2003). Community. London: Routledge. 16. Delanty. (2010). Community. London: Routledge. 17. Florida. (2008). Who’s Your City? New York: Basic Books. 18. Giddens. (1994). Beyond Left and Right. Cambridge: Polity Press. 19. Harvey. (1989a). The Urban Experience. Oxford: Blackwell. 20. Harvey. (1989b). The Condition of Postmodernity. Oxford: Blackwell. 21. Hoàng Phê. (1996). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: Đà Nẵng. 22. Karp, Stone, Yoels & Nicholas P. Dempsey. (2015). Being Urban - A Sociology of City Life. California: Praeger. 23. Low. (2001). The edge and the center: Gated communities and the discourse of urban fear. American Anthropologist, 45-58. 24. Nisbet, R. (1953/1990). The quest for community: A study in the ethics of order andf reedom. San Francisco: Institute for Contemporary Studies Press. . 25. Palh. (1970a). Patterns of Urban Life . London: Longman. 61
  13. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” 26. Power. (2007). City Survivors: Bringing Up Children in Disadvantaged Neighbourhoods. Bristol: Policy. 27. Putnam. (2000). Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community. New York: Simon & Schuster. 28. Revill. (1993). Reading Rosehill: Community, Identity and inner city Derby. Trong M. K. Pile, Place and the Politics of Identity. London: Routledge. 29. Rheingold. (1993). The Virtual Community: Homesteading on the Electronic Frontier. Reading: MA: Addison-Wesley. 30. Rothenbuhler. (2001). Revising communication research for working on community. Trong S. a. Rothenbuhler, Communication and community (pp. 159–180) (trang 159-180). Mahwah, NJ: Erlbaum. 31. Turkle. (2012). Alone together: Why we expect more from technology and less from each other. New York: Basic Books. 32. Zimmerman. (2000). Empowerment theory: Psychological organizational, and community levels of analysis. Trong Seidman, Handbook of community psychology (trang 43-63). New York: Plenum Press. 62
nguon tai.lieu . vn