Xem mẫu

Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn

Soá 1/2013

THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC

KHẢ NĂNG TIÊU HÓA CÁC NGUYÊN LIỆU ĐỘNG VẬT Ở BIỂN VÀ
THỰC VẬT TRÊN CẠN Ở TÔM HÙM BÔNG PANULIRUS ORNATUS
APPARENT DIGESTIBILITY OF SELECTED MARINE AND TERRESTRIAL PLANT
FEED INGREDIENTS FOR SPINY LOBSTER PANULIRUS ORNATUS
Lê Anh Tuấn1
Ngày nhận bài: 05/11/2012; Ngày phản biện thông qua: 18/01/2013; Ngày duyệt đăng: 15/3/2013

TÓM TẮT
Nghiên cứu này thông báo khả năng tiêu hóa chất khô (DM), protein thô (CP), lipid tổng số (TL) và năng lượng thô
(GE) đối với ba nguyên liệu động vật biển và hai nguyên liệu thực vật trên cạn ở tôm hùm bông (Panulirus ornatus) sắp
trưởng thành, cỡ 200 - 300g. Khả năng tiêu hóa được xác định bằng thủ tục thay thế với oxit crom làm chất đánh dấu. Các
nguyên liệu kiểm tra được đưa vào ở mức thay thế 300 g kg−1. Trong thí nghiệm này, các tổ hợp thức ăn (n=6, gồm thức
ăn tham khảo và 5 thức ăn có thay thế) được cung cấp cho tôm hùm thí nghiệm có gắn túi bong bóng để thu phân. Việc gắn
túi thu phân này giúp tránh thất thoát phân do tiếp xúc với nước biển. Các độ tiêu hóa về DM, CP, TL và E lần lượt được
xác định như sau: 68, 83, 50 và 74% đối với bã đậu nành Ấn Độ; 30, 74, 50 và 46% đối với gluten bột mì; 70, 83, 62 và
65% đối với bột cá Kiên Giang; 79, 89, 63 và 86% đối với bột cá Pê-ru; 38, 82, 62 và 34% đối với bột ruốc khô Nha Trang.
Từ khóa: tôm hùm bông, khả năng tiêu hóa, oxit crom, thức ăn, dinh dưỡng

ABSTRACT
This study reports the dry matter (DM), crude protein (CP), total lipid (TL) and gross enenergy (GE) apparent
digestibilities of three marine animal and two terrestrial plant feed ingredients using sub-adult tropical spiny lobster
(Panulirus ornatus) of 200–300 g. Apparent digestibility was determined using standard substitution procedures and
employing chromic oxide as the digestibility marker. Test ingredients were used at a substitution rate of 300 g kg - 1 for all
ingredients. In the digestibility experiment (n=6, the reference and five substituted) diets were fed to lobsters fitted with a
balloon fecal collection device. This enabled the collection of voided feces without contact with seawater and subsequent
leaching losses. The derived DM, CP, TL and E apparent digestibilities respectively were: 68, 83, 50 and 74% for Indian
solvent-extracted soybean meal; 30, 74, 50 and 46% for wheat gluten; 70, 83, 62 and 65% for Kien Giang fish meal; 79,
89, 63 and 86% for Peruvian fish meal; 38, 82, 62 and 34% for Nha Trang Acetes meal.
Keywords: spiny lobster, digestibility, chromic oxide, diet, nutrition
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi thương phẩm tôm hùm ngày càng trở
thành một nghề quan trọng ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương và vùng biển Ca-ri-bê (Jeffs and Davis,
2003; Tuan and Mao, 2004; Perera et al., 2005). Ở
nước ta, sản lượng tôm hùm thương phẩm đạt gần
2.000 tấn/năm với giá trị gần 100 triệu Đô-la Mỹ vào
niên vụ 2005-2006 (Tuan L.A., 2011). Tuy nhiên,
những năm gần đây nghề nuôi này bộc lộ nhiều dấu

1

hiệu của sự phát triển thiếu bền vững như việc cho
ăn bằng thức ăn tươi đã gây áp lực lên nguồn lợi
thủy sản ven bờ, hệ số thức ăn kém (FCR = 20-30)
với các tác động xấu lên môi trường (N.B.T. An và
L.A. Tuấn, 2012). Việc phát triển thức ăn viên hoàn
chỉnh đã và đang được xem là một trong những
ưu tiên hàng đầu nhằm phát triển bền vững nghề
nuôi này (Jeffs and Hooker, 2000; Jeffs and Davis,
2003; Tuan L.A and Mao N.D., 2004). Ở các hình

TS. Lê Anh Tuấn: Khoa Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang

78 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG

Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn

Soá 1/2013
ăn của động vật. Ngoài ra, thời gian tiếp xúc giữa
phân với môi trường nước phải được giảm thiểu
để tránh thất thoát các thành phần sinh hóa. Điều
này cho thấy có những khó khăn nhất định trong
việc thu phân với động vật thủy sản. Hiện nay, có
nhiều phương pháp thu phân khác nhau như: lắng,
lọc, hút hậu môn, vuốt, và giải phẫu đường ruột, đã
từng được áp dụng nhằm khắc phục vấn đề này
(Storebakken et al., 1998; Vandenberg and De La
Noue, 2001; Hemre et al., 2003; Smith and Tabrett,
2004). Với hầu hết bọn giáp xác, phân thường nằm
trong màng và dưới dạng các sợi phân riêng biệt
(Dall and Moriarty, 1983). Đặc điểm này đã giúp xác
định khả năng tiêu hóa bằng cách áp dụng phương
pháp lắng trong việc thu phân tôm he (Smith and
Tabrett, 2004). Phương pháp này cũng được sử
dụng để xác định khả năng tiêu hóa thức ăn ở tôm
hùm gai ôn đới, Jasus edwardsii (Ward et al., 2003).
Tuy nhiên, với tôm hùm bông, việc thu phân bằng
phương pháp lắng đã không thành công do màng
bao dễ rách khiến cho phân dễ bị thất thoát vào môi
trường nước. Nhằm khắc phục vấn đề này, phương
pháp gắn bong bóng quanh lỗ hậu môn của tôm
hùm bông đã được xây dựng, qua đó phân có thể
được thu mà không có tiếp xúc với môi trường nước
xung quanh (Irvin and Tabrett, 2005). Bài báo này
thông báo khả năng tiêu hóa chất khô (DM), protein
thô (CP), lipid tổng số (TL) và năng lượng thô (GE)
của 5 nguyên liệu thức ăn sẵn có trên thị trường
bằng cách sử dụng phương pháp này với tôm hùm
bông sắp trưởng thành.

thức nuôi thâm canh, thức ăn và việc cho ăn thường
chiếm một phần lớn trong tổng chi phí hoạt động.
Loại hình nguyên liệu được sử dụng trong công
thức thức ăn và các chỉ tiêu kỹ thuật về chất dinh
dưỡng đối với thức ăn có một tỷ trọng đáng kể trong
giá thành thức ăn. Các nhu cầu dinh dưỡng của tôm
hùm gai gần đây đã được đánh giá tổng quan bởi
Williams (2007). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khoảng
trống tri thức về khả năng tiêu hóa các nguyên liệu
tạo nên các loại thức ăn này và do đó chúng ta cũng
ít biết được mức độ mà các nhu cầu dinh dưỡng đã
bị ảnh hưởng bởi độ tiêu hóa của thức ăn. Vì thức
ăn thương mại được sản xuất với các chỉ tiêu kỹ
thuật (specifications) thường cao hơn các mức nhu
cầu (requirements) nhằm thúc đẩy sinh trưởng tối
đa, nên chúng thường được bán với giá cao. Ngoài
ra, những tổ hợp thức ăn này thường phát thải ra
môi trường các chất dinh dưỡng dư thừa, có thể có
tác động xấu đến chất lượng nước. Một sự hiểu biết
về khả năng tiêu hóa các nguyên liệu thức ăn sẵn
có sẽ giúp việc xác lập công thức thức ăn chính xác
hơn nhằm cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết
trên cơ sở hiệu quả về giá thành (Kaushik, 1995;
Allan et al., 2000). Việc xác định khả năng tiêu hóa
một nguyên liệu nào đó là điều kiện tiên quyết cho
việc lập công thức thức ăn đáp ứng được nhu cầu
dinh dưỡng của động vật về mặt kinh tế và sinh học.
Việc xác định chính xác khả năng tiêu hóa phụ thuộc
vào cách thu phân. Các mẫu phân phải phản ánh
được thành phần dinh dưỡng của vật chất còn lại
trong ruột sau quá trình hấp thụ dưỡng chất từ thức
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế thí nghiệm

Bảng 1. Công thức của thức ăn tham khảo (A) và thức ăn có các nguyên liệu kiểm tra (B-F)
Thành phần (g/kg)

Thức ăn A

Thức ăn B

Thức ăn C

Thức ăn D

Thức ăn E

Thức ăn F

Bột cá 65CP

650

455

455

455

455

455

Dầu cá

50

35

35

35

35

35

Bột mì

135

95

95

95

95

95

Gluten bột mì

100

70

70

70

70

70

Hỗn hợp vitamin

5

4

4

4

4

4

Oxit crôm (Cr2O3)

10

7

7

7

7

7

Bột ruốc khô

50

35

35

35

35

35

Bã đậu nành Ấn Độ
Gluten bột mì
Bột cá Kiên Giang
Bột cá Peru
Bột ruốc khô Nha Trang

300
300
300
300
300

TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 79

Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn

Soá 1/2013

Thí nghiệm gồm 6 nghiệm thức thức ăn và
mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Các nghiệm

and Tabrett, 2004). Oxit crom (Cr2O3 - Australia)
được sử dụng làm chất đánh dấu độ tiêu hóa và

thức thức ăn gồm thức ăn tham khảo và 5 tổ hợp

được đưa vào các tổ hợp thức ăn ở mức 1 g kg-1.

thức ăn có các nguyên liệu cần kiểm tra được đưa

Các nguyên liệu cần kiểm tra độ tiêu hóa trong thí

vào với tỷ lệ 300 g kg-1 để thay thế một lượng

nghiệm bao gồm: Bã đậu nành Ấn Độ, Gluten bột

tương đương của thức ăn tham khảo (bảng 1).

mì (Nguyên liệu thực vật trên cạn); Bột cá Kiên

Tỷ lệ thay thế này nhằm giảm thiểu những thay

Giang, Bột cá Pê-ru và Bột ruốc khô Nha Trang

đổi về các chỉ tiêu kỹ thuật dinh dưỡng chung của

(Nguyên liệu động vật biển). Thành phần phân

thức ăn tham khảo đồng thời tối đa hóa tỷ lệ thay

tích thô và năng lượng của thức ăn tham khảo

thế của nguyên liệu nhằm hạn chế những sai số

và các nguyên liệu kiểm tra được trình bày trong

khi rút ra độ tiêu hóa của từng nguyên liệu (Smith

bảng 2.

2. Chuẩn bị thức ăn
Bảng 2. Thành phần chất khô (DM), tro, protein thô (CP), lipid tổng số (TL) và năng lượng thô (GE) của
thức ăn tham khảo và các nguyên liệu cần kiểm tra
Thành phần

DM (g/kg)

Tro (g/kg)

CP (g/kg)

TL (G/kg)

GE (kJ/g)

Thức ăn tham khảo

903

176

512

109

19,7

Bã đậu nành Ấn Độ

900

92

434

26

18,9

Gluten bột mì

943

8

750

68

23,2

Bột cá Kiên Giang

888

224

612

75

18,8

Bột cá Pê-ru

900

201

657

100

20,0

Bột ruốc khô Nha Trang

772

153

532

70

19,4

Các tổ hợp thức ăn được chuẩn bị tại Trại Thủy

40°C trước khi được cắt thành viên 20 - 40mm và

sản Lê Đình Ba, Bãi Tiên, Nha Trang. Các nguyên

bảo quản ở -200C cho đến khi dùng. Thủ tục sản

liệu khô được giã mịn bằng cối và chày hoặc máy

xuất thức ăn này được đánh giá là tạo ra một mức

xay sinh tố rồi rây (0,05) và chúng cao
hơn so với độ tiêu hóa chất khô của bột ruốc khô
Nha Trang và gluten bột mì (P81%) đối với các nguyên liệu động
vật ở biển. Với nguyên liệu thực vật trên cạn, độ tiêu
hóa protein của bã đậu nành Ấn Độ cao hơn nhiều
(83%) so với gluten bột mì (73,8%) (P
nguon tai.lieu . vn