Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG KẾT QUẢ BƢỚC ĐẦU VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÁI CƠ CẤU CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM ThS. Nguyễn Việt Bình Trường Đại học Thương Mại TÓM TẮT Hệ thống Ngân hàng Việt nam trải qua gần 3 năm tái cơ cấu đã có những chuyển biến tích cực, cùng với chuyển động tái cơ cấu của cả nền kinh tế. Tính đến cuối tháng 6 năm 2013, tốc độ tăng trưởng huy động vốn đạt khá (8,24%), tăng trưởng tín dụng đã cải thiện so với năm trước (2,98%), thanh khoản cải thiện rõ rệt biểu hiện ở tỷ lệ giữa tài sản thanh khoản trên tiền gửi không kỳ hạn tăng mạnh từ 121% cuối năm 2012 lên đến 138% (5/2013). Tuy nhiên, quá trình tái cơ cấu hệ thống NH chưa thực sự đạt được kết quả như lộ trình đặt ra: tỷ lệ nợ xấu còn cao, sở hữu chéo trong ngân hàng ngày càng bộc lộ nhiều rủi ro, các NH sau tái cấu trúc chưa thực sự có những chuyển biến rõ nét. Bài viết này tập trung phân tích những kết quả đạt được của hệ thống NH Việt nam sau 3 năm tái cấu trúc, từ đó, đề xuất một số giải pháp để đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc ngân hàng trong năm 2014. Từ khóa: Ngân hàng thương mại, Tái cơ cấu, Hệ thống ngân hàng Việt Nam 1. Khái quát bối cảnh kinh tế vĩ mô và hệ thống Ngân hàng giai đoạn 2009-2013 Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng tài chính năm 2008, và những hạn chế nội tại liên quan đến mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ trong nước đã dần được điều chỉnh theo hướng đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức hợp lý. Mục tiêu này được nhấn mạnh trong kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm giai đoạn 2011-2015 được Quốc hội thông qua ngày 08/11/2011. Về cơ bản, trong giai đoạn 2009-2013, ngoài những thành tựu đáng ghi nhận về ổn định kinh tế vĩ mô, nền kinh tế cũng đứng trước nhiều thách thức mới cần giải quyết nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững. Tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2009-2013 duy trì ở mức thấp hơn so với giai đoạn trước đó. Phân tích số liệu về tỉ trọng vốn đầu tư/GDP cho thấy tăng trưởng kinh tế vẫn phụ thuộc rất lớn vào việc gia tăng vốn đầu tư, trong khi đó, việc sử dụng vốn được đánh giá là thiếu hiệu quả. Về cơ cấu ngành trong GDP, nông – lâm – ngư nghiệp có tốc độ tăng trưởng thấp, đặc biệt là năm 2009 (1,82%), và là ngành có đóng góp ít nhất vào tăng trưởng GDP (0,32% năm 2009 và 0,44% năm 2012) nhưng có ý nghĩa đáng kể trong việc đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội thông qua tạo việc làm và thu nhập. Tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi có xu hướng giảm, từ 2,9% năm 2009 xuống còn 1,96% năm 2012. Theo đó, năm 2012, tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn giảm xuống tương ứng còn 3,21% và 1,39%. Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp tỉ lệ việc làm cao nhất và luôn duy trì ở mức trên 80% trong tổng số việc làm của nền kinh tế. Cụ thể, tỉ trọng lao động thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã tăng từ 84% (năm 2009) lên 86,3% (năm 2012). Hoạt động thu chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ hơn nhưng vẫn xảy ra tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài. Năm 2012, theo số liệu báo cáo của Bộ Tài chính, tổng chi NSNN giảm hơn 10% so với năm 2011. Chi đầu tư có xu hướng thu hẹp do chính sách cắt giảm chi tiêu công, tuy nhiên, chi thường xuyên vẫn chiếm tỉ trọng khá lớn và có xu hướng gia tăng. Trước yêu cầu cần có giải pháp hiệu quả giúp tăng trưởng kinh tế bền vững, Chính phủ ban hành Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19 tháng 2 năm 2013 phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng 44
  2. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020. Trọng tâm của quá trình tái cơ cấu bao gồm: (1) tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, (2) tái cơ cấu hệ thống tài chính – ngân hàng, trọng tâm là các tổ chức tín dụng, và (3) tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước (339/QĐ-TTg Q.đ., 19-02-2013). Tuy nhiên, theo đánh giá của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, sau một thời gian thực hiện đề án này, kết quả thu được vẫn chưa rõ nét. Khái quát lĩnh vực tài chính – ngân hàng Sau giai đoạn tăng trưởng nóng, từ năm 2009, tốc độ tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn này có xu hướng giảm do thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt và kiểm soát tín dụng đi kèm với những khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Cụ thể, năm 2009, tín dụng tăng 37,73% so với năm 2008, và năm 2012, tín dụng tăng 8,83% so với năm 2011. Tại thời điểm 31/8/2013, tốc độ tăng trưởng tín dụng là 6,44% so với cuối năm 2012. Đồng thời, trong 2 năm gần đây, cơ cấu tín dụng có chuyển biến theo hướng tăng tỉ trọng dư nợ cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp – lâm nghiệp - thủy sản và giảm cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất. Tỉ lệ tín dụng trên tổng huy động duy trì ở mức khá cao, đặc biệt là trong giai đoạn 2009- 2011, tiềm ẩn nhiều rủi ro về khả năng thanh khoản. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có biến động mạnh trong năm 2011, do các ngân hàng có nhu cầu vốn lớn. Cũng trong năm 2011, lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn tăng cao, và có thời điểm tương đương với mức lãi suất tiền gửi dài hạn. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn 2012-2013, khả năng thanh khoản của cả hệ thống ngân hàng đã được cải thiện dù chưa thực sự bền vững, mặt bằng lãi suất huy động từng bước giảm xuống, tạo điều kiện thuận lợi để giảm lãi suất cho vay, từ đó giúp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Tỉ lệ nợ xấu (non-performing loans (NPL) ratio) trong hệ thống ngân hàng có xu hướng tăng trong giai đoạn 2009-2011. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu gia tăng như thiếu chặt chẽ trong kiểm soát tín dụng, bất ổn kinh tế vĩ mô, khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, v.v. Tỉ lệ nợ xấu giảm nhẹ trong giai đoạn 2012-2013. Trong 6 tháng đầu năm 2013, tỉ lệ nợ xấu của nhiều ngân hàng được giữ ở mức dưới 3%. Tuy nhiên, vấn đề nợ xấu chưa được giải quyết triệt để do nợ xấu được kiểm soát chủ yếu thông qua việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro và xem xét phân loại lại nợ đối với các doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Tháng 7 năm 2013, Ngân hàng Nhà nước đã có quyết định thành lập công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) nhằm xử lý nợ xấu, từ đó giúp cải thiện tình hình tín dụng trong nước. Bước sang năm 2013 với điều kiện thuận lợi hơn so với năm 2012 về sự ổn định kinh tế vĩ mô (lạm pháp được kiểm soát và duy trì ở mức vừa phải - CPI tăng 6,04%, thặng dư xuất khẩu, dự trữ ngoại hối được tăng cường, tỷ giá ổn định, và chương trình tái cơ cấu thu được những kết quả bước đầu), song hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2013 vẫn chưa có nhiều chuyển biến tích cực. Nhiều mặt hạn chế tiếp tục bộc lộ và các mục tiêu của chương trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại giai đoạn 2011-2015 vẫn còn là những thách thức rất lớn trong phần nửa thời gian còn lại. Một trong ba nội dung quan trọng của quá trình tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế là tái cơ cấu hệ thống tài chính – ngân hàng, trong đó trọng tâm là các tổ chức tín dụng. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012, phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Đề án này đã đưa ra các quan điểm, định hướng, giải pháp và lộ trình thực hiện cho cả giai đoạn 2011-2015. Đánh giá ban đầu từ quá trình triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng cho thấy khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng đã được cải thiện, ngân hàng yếu kém được kiểm soát và các hành lang pháp lý cho việc xử lý nợ xấu đã được xây dựng. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện còn chậm so với lộ trình đặt ra, và một số mục tiêu quan trọng như mua bán, sáp nhập, tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu, củng cố hoạt động quản trị chưa được giải quyết triệt để. 45
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Bảng 1.1: Một số chỉ tiêu hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại (9/2013) Đơn vị: tỷ đồng, % Tổng tài sản Vốn tự có Tỷ lệ Loại hình TCTD ROA ROE an Tăng Tăng Quy mô Quy mô toàn trƣởng trƣởng vốn NHTM Nhà nước 2.356.609 7,04 162.573 18,44 0,45 5,28 11,31 NHTM cổ phần 2.221.452 2,88 181.979 -0,63 0,28 3,05 12,81 NH liên doanh 621.423 11,88 98.907 6,86 0,53 3,23 30,82 NH nước ngoài Toàn hệ thống 5.367.040 5,53 455.236 6,87 0,20 3,86 13,76 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Tóm lại, kinh tế vĩ mô trong giai đoạn này đã cơ bản ổn định, thể hiện thông qua tỉ lệ lạm phát được kiểm soát, cán cân thương mại được cải thiện, tình hình tài chính – ngân hàng có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, những thành tựu này chưa thực sự vững chắc. Trong giai đoạn này, đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế được đánh giá là bước đi cấp thiết để tiến tới tăng trưởng bền vững. 2. Tình hình thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thƣơng mại năm 2013 Đề án tái cơ cấu hệ thống NH được ban hành (Quyết định số 254/QÐ-TTG, ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ: “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015", trong đó, trọng tâm là tái cơ cấu các ngân hàng). Đề án 254 đã đưa ra các mục tiêu chung đến năm 2020 và các mục tiêu cụ thể đến năm 2015, xác định rõ các quan điểm, định hướng, giải pháp và lộ trình thực hiện tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCCD) Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015. Riêng đối với các NHTM, đề án chia các ngân hàng thành 02 nhóm đối tượng: NHTMNN và NHTM cổ phần, trong đó NHTM cổ phần lại được chia thành 03 nhóm: Nhóm ngân hàng lành mạnh, nhóm ngân hàng thiếu thanh khoản tạm thời và nhóm ngân hàng yếu kém. Trên cơ sở đó, Đề án cũng đã đưa ra các định hướng và giải pháp tái cơ cấu khác nhau đối với từng nhóm ngân hàng (254/QĐ-TTg Q.đ., 01-03-2012). 2.1. Mục tiêu và nội dung tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại năm 2013 Theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 phê duyệt “Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 thì mục tiêu trọng tâm của chương trình tái cấu trúc năm 2013 nhằm hướng tới một hệ thống ngân hàng thương mại lành mạnh và hiệu quả hơn thông qua thực hiện 3 nhóm giải pháp, bao gồm: (1) cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các TCTD; (2) lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các TCTD; (3) nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng thương mại. Trong đó, nhóm giải pháp thứ 3 sẽ là nội dung cơ bản của chương trình cải cách năm 2014, trong năm 2013 hai nhóm giải pháp cơ bản đầu tiên được ưu tiên thực hiện thông qua các giải pháp cụ thể: Phân loại các TCTD thành các nhóm khác nhau; Áp dụng các giải pháp hỗ trợ, cải thiện thanh khoản của các NHTM yếu kém; Duy trì sự đảm bảo khả năng thanh khoản của toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại; Xây dựng và thực hiện các phương án xử lý, hoàn thành cơ cấu sở hữu của các NHTMCP được xếp loại yếu kém có nguy cơ phá sản và có thể gây ra sự sụp đổ hàng loạt các NHTM khác và toàn bộ hệ thống; 46
  4. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" Xử lý nợ xấu và tăng vốn điều lệ của các NHTM; Rà soát, hoàn thiện các văn bản điều chỉnh cơ cấu hoạt động tín dụng và các văn bản quy định về các chỉ tiêu, chuẩn mực an toàn; Mặc dù có nhiều giải pháp cụ thể như vậy nhưng chương trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2013 có thể được phản ánh và đánh giá thông qua 3 nội dung bao gồm: (1) tái cấu trúc về mặt thể chế, tập trung ở việc mua bán sáp nhập và sự thay đổi về sở hữu và chính sách của NHNN tạo cơ sở pháp lý cho những thay đổi về hoạt động; (2) tái cấu trúc về hoạt động ngân hàng thương mại, thông qua sự thay đổi về cơ cấu hoạt động, và (3) tình hình giải quyết vấn đề nợ xấu, bao gồm những cố gắng của bản thân các NHTM, NHNN và VAMC. Mục tiêu và lộ trình đặt ra trong đề án tái cơ cấu: 8 mục tiêu chính, bao gồm: (i) Đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động, thực trạng nợ xấu, (ii) Phân loại và đánh giá TCCD, (iii) Triển khai phương án cơ cấu lại các TCCD yếu kém và các tổ chức khác, (iv) Đảm bảo thanh khoản, (v) IPO các NHTMNN (trừ VBARD), (vi) Mua bán, sáp nhập các TCCD, (vii) Tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu, (viii) Cơ cấu lại hoạt động và hệ thống quản trị. Tuy nhiên, 3 nhóm mục tiêu quan trọng nhất cuối cùng là mua bán, sáp nhập các TCCD, tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu, cơ cấu lại hoạt động và quản trị mới chỉ được thực hiện ở mức độ hình thức. Các NH sau sáp nhập chưa có biểu hiện hồi phục, tỷ lệ nợ xấu được xử lý còn thấp, chủ yếu mang tính kỹ thuật chứ chưa giải quyết tận gốc rễ, quản trị và minh bạch ngân hàng chưa được cải thiện rõ nét. Tóm lại theo đánh giá của Ngân hàng thế giới thì tiến độ còn chậm so với lộ trình đặt ra. Điều này sẽ có nguy cơ ảnh hưởng đến chính các mục tiêu đặt ra ở giai đoạn sau và chất lượng cải thiện của các NH sau tái cơ cấu. Phần tiếp theo, nhóm nghiên cứu sẽ đánh giá từng mục tiêu đặt ra trong lộ trình 2011-2012 của Đề án TCC NH. 2.2. Tình hình tái cơ cấu của hệ thống ngân hàng thương mại Thanh khoản NHNN đã nỗ lực lớn trong việc cải thiện thanh khoản của cả hệ thống qua các biện pháp: liên tục giảm lãi suất trần, khuyến khích NH lớn hỗ trợ thanh khoản cho các NH nhỏ. Hiện tại, tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam được xem là ổn định bởi các dấu hiệu mất thanh khoản như: (i) Lãi suất liên ngân hàng qua đêm tăng nhanh, tập trung chủ yếu vào các kỳ hạn ngắn, đặc biệt các giao dịch qua đêm đã tạm thời giảm; (ii) Thị trường không xuất hiện các cuộc đua lãi suất huy động tiền gửi công khai; (iii) Không có dấu hiệu sụt giảm tiền gửi, kể cả ở các NH đang trong tình trạng buộc phải tái cơ cấu. Tuy nhiên, tính thanh khoản của hệ thống vẫn chưa thực sự bền vững vì nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro thanh khoản là mất cân đối kỳ hạn (tỷ trọng huy động nguồn vốn ngắn hạn cao trong khi cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn) vẫn chưa được giải quyết. Bảng 2.1: Tăng trưởng huy động vốn và dư nợ của hệ thống ngân hàng thương mại Đơn vị: % Năm Năm Năm Tháng TT Tốc độ tăng trƣởng so với cùng kỳ (%) 2010 2011 2012 9/2013* 1 Tổng phương tiện thanh toán 33,3 12,07 22,4 10,33 2 Huy động vốn 36,24 12,39 10,24 15,65 3 Dư nợ 32,43 14,33 8,91 6,87 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 47
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu đã có xu hướng tăng trong năm 2011 từ 8.6%, (NHNN, 3/2013) lên đến 10.03% (NHNN, 6/2011). Năm 2012 có xu hướng giảm còn 4.11% (9 tháng đầu năm, các NH trên địa bàn HN), đến 30/06/2012, nợ xấu của các NHTM Nhà nước là 3.76% và của NHTM cổ phần ngoài quốc doanh lên tới 4.73%. Đến 11/2012, tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo của các tổ chức tín dụng ở khoảng 4,7%; còn theo giám sát từ xa của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu tính đến tháng 6/2012 ở mức 8,82%. Tốc độ tăng nợ xấu trong 8 tháng đầu năm 2013 đã giảm đáng kể, chỉ bằng 1/3 so với 8 tháng đầu năm 2012. Trong năm 2012 và đến tháng 8 năm 2013, các NH đã chủ động xử lý được 95,1 nghìn tỷ nợ xấu. Bảng 2.2: Nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam Đơn vị: % Năm Năm Năm Năm Tháng Tháng Thời điểm 2009 2010 2011 2012 3/2013 9/2013 Tỷ lệ nợ xấu 2,2 2,6 3,4 4,08 4,67 4,62 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Tỷ lệ nợ xấu giảm thể hiện nỗ lực của các NH trong việc xử lý nợ, tuy nhiên, chủ yếu bằng cách sử dụng quỹ dự phòng rủi ro và xem xét phân loại lại nợ đối với các doanh nghiệp có dự án sản xuất kinh doanh tốt để các doanh nghiệp này được vay vốn. Ngày 26/7/2013, công ty quản lý tài sản (VAMC) của các NHTM Việt nam đã ra đời với các hành lang pháp lý và công cụ xử lý nợ ban đầu là các trái phiếu đặc biệt có thời hạn 5 năm, được chiết khấu để tái cấp vốn tại NHNN. Ngày 1/10/2012, VAMC đã mua khoản nợ đầu tiên của VBARD với giá mua bằng giá trị ghi sổ trừ đi chi phí trích lập dự phỏng rủi ro. VAMC đặt kế hoạch sẽ mua khoảng 30-45 ngàn tỷ nợ xấu trong quí 4 năm 2013. Tuy nhiên, theo ông Dominic, chuyên gia kinh tế của ADB tại Việt nam, tiến trình giải quyết nợ xấu đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, không nên chỉ tập trung vào VAMC, và đặt ra mục tiêu tham vọng xử lý được mấy chục ngàn tỷ từ thời điểm này đến cuối năm là khó khả thi. Bảng 2.3: Nợ xấu của 16 ngân hàng thương mại 9 tháng đầu năm 2013 Đơn vị tính: Ngàn tỷ VND 2013 (tính đến tháng 9) 2012 Nợ có Nợ có Ngân hàng Tổng Tỷ lệ Tổng dư Tỷ lệ khả năng Nợ xấu khả năng Nợ xấu dư nợ nợ xấu nợ nợ xấu mất vốn mất vốn BIDV 2,606 8,755 373,205 2.35% 2,479 9,161 339,924 2.70% Vietinbank 5,431 8,519 345,556 2.47% 2,106 4,890 333,356 1.47% Vietcombank 2,683 7,471 250,687 2.98% 1,451 5,791 241,163 2.40% SHB 3,603 5,075 65,487 7.75% 2,067 4,846 56,940 8.51% Techcombank 1,382 4,146 69,952 5.93% 884 1,840 68,261 2.70% ACB 487 3,491 104,457 3.34% 1,150 2,571 102,815 2.50% Sacombank 1,289 2,459 109,156 2.25% 897 1,973 96,334 2.05% MB 972 2,073 80,875 2.56% 640 1,372 74,479 1.84% PhuongNambank 999 1,651 43,539 3.79% 797 1,318 43,634 3.02% DongABank 598 1,503 21,277 7.06% 658 2,000 50,650 3.95% 48
  6. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" Eximbank 759 1,456 81,104 1.80% 793 988 74,922 1.32% PGBank 685 1,240 13,057 9.50% 237 1,197 13,787 8.68% VPBank 226 1,077 47,388 2.27% 192 1,003 36,903 2.72% NamVietBank 496 1,035 11,787 8.78% 367 737 12,886 5.72% SaigonBank 298 398 10,709 3.72% 232 318 10,861 2.93% KienLongBank 191 300 10,984 2.73% 136 283 9,683 2.92% Tổng 22,705 50,649 1,639,220 3.09% 15,086 40,288 1,566,598 2.57% Nguồn: Tổng hợp báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại 9 tháng đầu năm 2013 Bắt buộc Tái cơ cấu các Ngân hàng yếu kém Trong 9 ngân hàng yếu kém theo phân loại của NHNN đầu năm 2012, đến nay 8 NH trong diện này về cơ bản đã triển khai xong phương án tái cơ cấu, trong đó có 3 NH hợp nhất (SCB, Đệ Nhất và Đại Tín) với tổng tài sản gần 150.000 tỷ đồng. Theo báo cáo của NH, cuối năm 2012, NH đã có lợi nhuận trước thuế 77 tỷ đồng. Trường hợp Tiên Phong Bank, đã chủ động tự cơ cấu trong đó có thêm cổ đông chiến lược là Doji nhằm tận dụng lợi thế của cổ đông này trong thị trường kinh doanh vàng. Ngày 28/8/2012, Habu chính thức sáp nhập với SHB. Với nợ xấu của Habu trước khi sáp nhập lên đến 21.32% thì sau gần 1 năm chật vật xử lý nợ xấu, đến 30/6/2013 tỷ lệ nợ xấu giảm xuống còn 9% và đến 30/9: 7%, đến cuối tháng 6/2013 SHB đã có lợi nhuận là 141 tỷ đồng, giảm 37% so với cùng kỳ năm 2012 chủ yếu do trích lập dự phòng nợ xấu của Habu sau sáp nhập, lên đến 128 tỷ. Ngày 4/10/2012, Ngân hàng PVcom đã ra đời, tăng tổng tài sản của NH này lên 100.000 tỷ đồng, tuy nhiên với gánh nặng nợ xấu của NH Phương Tây thì tình hình tài chính của Pvcom chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Trường hợp của NaviBank, NHNN cho phép NH này tự tái cơ cấu bằng chính nguồn lực của mình mà không sáp nhập với các NH khác. Đến cuối tháng 6, NH đã đạt tăng trưởng tín dụng 8,6%, tuy nhiên nợ xấu vẫn chưa được cải thiện vẫn ở mức 6,1%. Trustbank cũng đã được NHNN phê duyệt phương án dùng nguồn lực từ tập đoàn Thiên Thanh để tái cơ cấu. Ngày 24/5, Trurstbank chính thức đổi tên thành NHTMCP xây dựng Việt nam (VNCB). Tuy nhiên, đến cuối tháng 6/2013, tỷ lệ nợ xấu của NH này vẫn ở mức rất cao, trên 50%. Ngày 11/6/2014 vừa qua, NHNN đã phát đi thông báo về việc hợp tác triển khai sản phẩm tín dụng liên kết 4 nhà, theo đó NHNN cho biết đã giao BIDV cùng 7 NH gồm Agribank, VietinBank, Vietcombank, VNCB, SHB, LienVietPostBank và MHB triển khai sản phẩm này, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giảm bớt tồn kho vật liệu xây dựng và bất động sản. Được giao cho nhiều NH thực hiện nhưng VNCB và Tập đoàn Thiên Thanh vẫn được dư luận nhìn nhận như một đơn vị đầu mối. Song từ khi NHNN phát đi thông báo đến nay đã gần 2 tháng vẫn chưa hề đón nhận bất kỳ một thông tin nào về việc các NH triển khai sản phẩm tín dụng liên kết 4 nhà. Khi thị trường còn đang ngóng chờ xem “hình dáng” sản phẩm này như thế nào thì bất ngờ NHNN phát đi thông báo về việc cơ quan cảnh sát điều tra thụ lý vụ án cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam 3 lãnh đạo của Công ty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh. Đây đều là những người tham gia lãnh đạo VNCB thời gian qua. Sự cố của VNCB xảy ra mới chỉ vài ngày thì ngay ngày 1/8, Vietcombank đã tiến hành ký thỏa thuận hợp tác chiến lược toàn diện với VNCB. Theo ông Nguyễn Phước Thanh, Phó Thống đốc NHNN, Vietcombank sẽ hỗ trợ VNCB cấu trúc lại hệ thống, hoạt động NH; xử lý nợ xấu và hỗ trợ trong khâu thanh toán. Thiên Thanh đã tham gia tái cơ cấu VNCB nhưng đã không thành công, NH này chưa ổn định. 49
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Sự kiện Vietcombank ký kết hợp tác là bước tiếp theo để NHNN thực hiện tái cơ cấu VNCB. Dù vậy, khả năng VNCB có sáp nhập vào Vietcombank hay không vẫn còn bỏ ngỏ. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng, điều này sẽ đồng nghĩa với việc tiếp tục tái cơ cấu một NH đã tái cơ cấu. Trường hợp cuối cùng, GPBank được chấp thuận phương án tự tái cơ cấu với sự tham gia của cổ đông nước ngoài là NH United OverSeas Bank của Singapore. Có thể nói, ưu điểm lớn nhất của các phương án tái cơ cấu trong giai đoạn này là không dùng đến ngân sách nhà nước, chủ yếu do các NH tự nguyện sáp nhập hoặc dùng vốn của nhà đầu tư nước ngoài hoặc của các tập đoàn tư nhân. Tuy nhiên, nếu nỗ lực này được hiện thực hóa sớm hơn thì tình hình tài chính của các NH này sẽ hồi phục nhanh hơn. Bên cạnh đó, việc sáp nhập các NH yếu kém với nhau hoặc sáp nhập 1 NH yếu với 1 NH mạnh, để tính toán một cách đầy đủ chi phí và lợi ích của việc sáp nhập, cần có thêm thông tin và thời gian để đánh giá cụ thể. Việc sáp nhập với các tập đoàn kinh tế tư nhân sẽ có ưu điểm là tiết kiệm được NSNN nhưng lại dẫn đến rủi ro do sở hữu chéo mang lại, tiềm ẩn rủi ro tín dụng trong tương lai nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Tái cơ cấu các Ngân hàng mạnh Đây chỉ là một phần nhỏ trong lộ trình của đề án đến năm 2012, tuy nhiên, các NHTM lớn đã rất nỗ lực trong việc tái cơ cấu chủ động. Việc IPO thành công của BIDV cuối năm 2011 đã thể hiện nỗ lực của BIDV trong việc đổi mới mô hình hoạt động từ phân tán sang tập trung. Một số NH lớn như Techcombank, MB đã thuê chuyên gia cao cấp nước ngoài tham gia trực tiếp vào hoạt động quản trị điều hành nhằm tái cơ cấu quản trị hệ thống. Có thể nhìn nhận, nếu so sánh với thông lệ quốc tế, quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt nam là cách tiếp cận phi hệ thống, chỉ tập trung vào các NH yếu kém, hay một số NHTMNN, chứ chưa định hình được hệ thống NHVN sau tái cơ cấu sẽ như thế nào, theo các lộ trình tương ứng về: số lượng Ngân hàng, loại hình hoạt động (đa năng hay chuyên doanh), mô hình hoạt động của Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng chính sách xã hội. Trong khi đó, theo ý kiến của chuyên gia HSBC, số lượng ngân hàng hiện ở tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Thừa do có quá nhiều ngân hàng cho nền kinh tế và thiếu do không có đủ các ngân hàng hoạt động hiệu quả giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu Đề án không xác định rõ một định dạng rõ ràng cho hệ thống NHVN sau tái cơ cấu thì sẽ khó có được một hệ thống ngân hàng phát triển bền vững, đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Tóm lại, có thể thấy, so sánh với lộ trình đặt ra trong Đề án Tái cơ cấu các TCCD, những mục tiêu đã đặt được là đáng ghi nhận, song cốt lõi của vấn đề chính là giải quyết nợ xấu và tăng cường năng lực quản trị điều hành sau tái cơ cấu vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Các NH thuộc nhóm ổn định thì quan tâm nhiều đến việc giải quyết bài toán trước mắt để giải quyết đầu ra tín dụng, chưa chú trọng chiến lược phát triển dài hạn để tăng khả năng cạnh tranh trước bối cảnh quốc tế hóa. Các NH thuộc nhóm yếu kém thì lo chật vật giải quyết nợ xấu và thanh khoản, chưa thể phục hồi ngay sau sáp nhập hay tái cơ cấu tự thân. 3. Một số nhận xét và đánh giá về tình hình thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Thứ nhất, xử lý nợ xấu đã đạt được kết quả khả quan theo 3 hướng sau (Hưng T., 5-12-2013): Các NHTM đã cơ cấu lại nợ cho các doanh nghiệp với tổng dư nợ xấp xỉ 300.000 tỷ VND, tương đương với 10% tổng dư nợ. Các NHTM thực hiện trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu, chuyển nợ xấu ra ngoại bảng để theo dõi. Từ 2012 đến tháng 9/2013, các ngân hàng này đã trích lập được 101.700 tỷ 50
  8. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" VND, tương đương 3% tổng dư nợ. Tổng nợ xấu đã được xử lý và đưa ra theo dõi ngoại bảng trong 9 tháng đầu năm 2013 là 32.500 tỷ VND, số trích lập dự phòng rủi ro cùng kỳ là 77.400 tỷ VND. Thành lập VAMC là cách thức để “cô lập” nợ xấu, tạo khả năng hỗ trợ thanh khoản và tăng cường nguồn vốn cho các NHTM thông qua vay tái chiến khấu từ NHNN (19/2013/TT-NHNN T.t., 6-09-2013) (20/2013/TT-NHNN T.t., 09-09-2013). Thứ hai, hoạt động mua bán và sáp nhập tiếp tục được thực hiện với những thay đổi tích cực. Trong năm 2013, hai vụ sáp nhập lớn nhất trong hệ thống tổ chức tín dụng vào tháng 9.2013. Các ngân hàng sau sáp nhập đều có sự tăng lên về quy mô nguồn vốn và tài sản (Ví dụ: Khi SCB, thực hiện sáp nhập, tình hình tài chính rất khó khăn và có nguy cơ mất khả năng thanh khoản, chỉ sau 1 năm hoạt động, ngân hàng đã nâng tổng mức tài sản lên hơn 149.000 tỷ VND, gấp gần hai lần tổng tài sản ban đầu, vốn chủ sở hữu cũng tăng lên hơn 11.000 tỷ VND, gấp gần ba lần vốn chủ của ngân hàng SCB trước khi hợp nhất;). Như vậy, có thể nhận định việc sáp nhập, hợp nhất ngân hàng là hướng đi đúng trong bối cảnh hiện nay, bởi lẽ không chỉ làm tăng tiềm lực tài chính sức mạnh mà còn tăng khả năng hoạt động kinh doanh của các NHTM (Ngọc L., 17-09-2013). Thứ ba, tín dụng tập trung vào các ngành quan trọng trong nền kinh tế và xóa bỏ sự phân biệt về hạn mức tăng trưởng đối với các tổ chức tín dụng So với năm 2012, mức độ tăng trưởng tín dụng chung cho các NHTM ở mức 12%. Điều này giúp cho việc giám sát các TCTD trở nên dễ dàng và mang tính tổng thể. Với chính sách lãi suất cho vay trần ưu tiên và các gói hỗ trợ trực tiếp, tín dụng trong năm 2013 của các tổ chức tín dụng đã tập trung vào năm nhóm ngành ưu tiên trong nền kinh tế gồm (i) lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định 41/2010 của Chính Phủ; (ii) hàng xuất khẩu, (iii) doanh nghiệp nhỏ và vừa; (iv) doanh nghiệp hỗ trợ; (v) doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các dự án hiệu quả. Trong số các ngành kinh tế, ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có mức độ tăng trưởng tín dụng ấn tượng nhất (16,72%). Với gói hỗ trợ 30.000 tỷ VND cho lĩnh vực bất động sản (843/QĐ-TTg Q.đ., 31-05-2013), công cụ tín dụng của các tổ chức tín dụng được coi như một trong những giải pháp quan trọng để “phá băng” thị trường. Tăng trưởng tín dụng bắt đầu khởi sắc từ nửa sau năm 2013, trong khi ở nửa đầu năm là -2%. Điều này có được là do sự phối hợp giữa việc giảm lãi suất và tái cơ cấu nợ cho các ngân hàng thương mại và một phần do nguồn vốn FDI bắt đầu đổ vào tạo nên nhu cầu tín dụng cho thị trường trong nước. Thứ tư, chính sách tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp được triển khai khá mạnh, là điều kiện để các doanh nghiệp hồi sinh Một trong những công cụ mạnh nhằm hồi sinh các doanh nghiệp trong nền kinh tế năm 2013 là chính sách tín dụng bao gồm: (i) Giảm lãi suất vay vốn quyết liệt, (ii) khuyến khích các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng thông qua việc NHNN cho phép lùi thời hạn áp dụng việc phân loại nợ theo quy định mới đến tháng 6/2014 (02/2013/TT-NHNN T.t., 21-01-2013). Mặt bằng lãi suất cho vay giảm 3-5%/năm so với đầu năm và được duy trì ổn định trong những tháng gần đây; đặc biệt, một số doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh đã được vay với mức lãi suất 6,5 - 7%/năm. Các tổ chức tín dụng nhận thức rõ sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là điều kiện để (i) tổ chức tín dụng thu hồi các khoản nợ trước kia đối với doanh nghiệp dễ dàng hơn; và (ii) sự phát triển của tổ chức tín dụng bền vững trong thời gian tới. Do vậy, các gói tín dụng hỗ trợ trực tiếp doanh nghiệp được nhiều tổ chức tín dụng thiết kế và triển khai, việc tiếp cận vốn thuận lợi. Thứ năm, huy động vốn được thực hiện tốt, thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được đảm bảo và ổn định Lãi suất huy động vốn đã được cải thiện trong thời gian gần đây với việc cắt giảm lãi suất liên tục (lãi suất huy động trung bình đã giảm 2-4% so với 2012), tình trạng các ngân hàng thương mại tranh giành khách hàng, cạnh tranh không lành mạnh trong việc huy động vốn không còn. Hơn 51
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nữa, so với các kênh đầu tư khác (như chứng khoán, bất động sản, vàng), hiện nay lãi suất huy động VND của các tổ chức tín dụng được đánh giá là hấp dẫn nhất. Do vậy, mức độ tăng trưởng huy động vốn của các ngân hàng thương mại trong năm 2013 là rất ấn tượng. Tính đến 9/2013, mức độ huy động vốn tăng 11,74%, trong đó huy động vốn VND tăng 11,63% và ngoại tệ tăng 12,43%. Thanh khoản bằng VND của toàn hệ thống được cải thiện hơn. Thứ sáu, tình trạng đô la hóa giảm Tình trạng đô-la hoá giảm thông qua chỉ số Tiền gửi USD/M2 giảm xuống mức 13%, ghi nhận hiệu quả quản lý của NHNN và sự khôi phục lòng tin của công chúng vào đồng bản tệ. Ngoài những nguyên nhân khách quan như các gói kích thích của Fed (QE) nhằm phục hồi kinh tế làm cho đồng USD bị mất giá, thặng dư của cán cân thương mại Việt Nam liên tục trong các năm 2012 và 2013 đã giảm áp lực thanh toán bằng USD (Ngọc L., 17-09-2013), tình trạng đô-la hóa được cải thiện còn có những nguyên nhân chủ quan bao gồm: kiểm soát tín dụng ngoại tệ (Thông tư 37/2012/TT-NHNN) và chủ chương giữ vững chính sách tỷ giá VND/USD ổn định. Thứ bảy, thị trường ngoại hối và vàng được bình ổn. Trong năm 2013, tỷ giá có tăng nhưng trong phạm vi dự tính và được kiểm soát. NHNN đã đề ra mục tiêu duy trì tỷ giá trong biên độ không quá 2-3%, điều hành chặt chẽ theo tín hiệu thị trường, phù hợp với các cân đối vĩ mô và cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các biện pháp tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước và chống đô la hóa trong nền kinh tế. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng được điều chỉnh linh hoạt trong giai đoạn từ tháng 8/2011 và duy trì ổn định ở mức 20.828 VND/USD từ cuối năm 2011. Tuy nhiên, từ cuối tháng 5/2013, thị trường ngoại tệ có biến động, tỷ giá tăng và diễn biến phức tạp mặc dù NHNN đã bán ngoại tệ can thiệp thị trường, điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 20.828 VND/USD tăng 1% lên mức 21.036 VND/USD vào ngày 28/6/2013. Tỷ giá mua vào USD của NHNN cũng đã được điều hành theo hướng khuyến khích các TCTD bán ngoại tệ cho NHNN để tăng dự trữ ngoại hối được duy trì tương đối ổn định ở mức 20.850 VND/USD cao hơn mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng là 20.828 VND/USD. Trong 9 tháng đầu năm 2013, NHNN đã mua được một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối. Thị trường vàng đã được quản lý chặt chẽ, giảm thiểu nhiều tiêu cực so với năm 2012. Vai trò của NHNN là cơ quan điều tiết và quản lý trong việc đảm bảo tính ổn định của thị trường. Đẩy lùi được tình trạng "vàng hóa" nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và kinh tế vĩ mô. Sự mất cân đối về cung cầu vàng miếng trong nước đã được thu hẹp đáng kể, từ đó đã ngăn chặn được ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và kinh tế vĩ mô. Thu nhập từ thị trường vàng của các NHTM tăng: Báo cáo tài chính Quý III/2013 của các ngân hàng thương mại đều cho thấy những khoản thu nhập khá lớn từ kinh doanh vàng, thay vì lỗ hàng trăm tỉ VND như ở cùng kỳ năm 2012. Điển hình như ACB chuyển từ mức lỗ 1.145 tỉ VND ở quý 3/2012 sang lãi 10 tỉ VND ở quý 3/2013. Eximbank cũng có lãi hơn 56 tỉ VND nhờ kinh doanh vàng, ngoại tệ. 4. Một số kiến nghị đối với chƣơng trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thƣơng mại năm 2014 4.1. Một số kiến nghị tầm vĩ mô: a) Tái cấu trúc hệ thống NHTM cần phải đƣợc tiến hành đồng bộ với sự hỗ trợ của chƣơng trình tái cơ cấu hoạt động của NHNN và của các doanh nghiệp nhà nƣớc (DNNN). Trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, hoạt động của NHNN và các DNNN có ý nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí mang tính quyết định đối với tiến độ và sự thành công của chương trình tái cơ cấu. Nếu như NHNN vừa là cơ quan chủ quản, chủ động tổ chức và điều hành chương trình thì các DNNN là những “bạn hàng” lớn nhất cả về quy mô dư nợ và nợ 52
  10. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" xấu. Do vậy, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại không thể thành công nếu không có sự đổi mới trong hoạt động của NHNN và tái cấu trúc hoạt động các DNNN. Do vậy: NHNN cần tăng cường năng lực giám sát và trách nhiệm trong quản lý và điều hành Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của chương trình tái cấu trúc và phát triển lành mạnh hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, ngoài nỗ lực cố gắng tự quản, tự giám sát của các NHTM, vai trò quản lý giám sát của NHNN và các cơ quan chức năng là không thể thiếu. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tích cực và chủ động giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại theo các nguyên tắc và chuẩn mực nhất định nhằm đảm bảo sự an toàn, hiệu quả thay vì sự can thiệp sâu và bằng các mệnh lệnh hành chính (KPMG, 2013). Điều này là hết sức cần thiết bởi lẽ nhiều yếu kém của hệ thống do cơ chế giám sát và điều hành chưa đầy đủ và hiệu quả. NHNN cần phải tăng cường hiệu quả giám sát và quản lý theo phương thức mới và thực hiện thông qua hệ thống pháp luật về và các công cụ kinh tế mang tính chất gián tiếp. - Cấu trúc lại hoạt động của các DNNN và quyết xóa bỏ bao cấp để đảm bảo sự minh bạch của nền kinh tế Bãi bỏ các chế độ ưu tiên đầu tư và ưu đãi cho vay đối với các DNNN song song với thực hiện cổ phần hóa và tái cấu trúc triệt để các DNNN, đặc biệt là các DNNN kém hiệu quả và đang sử dụng lãng phí nguồn đầu tư công và phát sinh nợ công ngầm ở nước ta hiện nay. Đổi mới mô hình tổ chức, cơ chế quản lý và hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước để nâng cao hiệu quả đầu tư vốn từ NSNN. Hạn chế tối đa các khoản đầu tư công kém hiệu quả và hạn chế tốc độ tăng của nợ công, tạo các hiệu ứng lan tỏa về lợi ích và hỗ trợ cho các quá trình phát triển, từ đó ngăn ngừa hữu hiệu việc làm phát sinh nợ công ngầm, tránh cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng “nền kinh tế nợ xấu”. b) Triệt để giải quyết nợ xấu của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Giải pháp đối với các NHTM: Thứ nhất, hạn chế và từng bước chấm dứt việc cơ cấu lại nợ theo hướng gia hạn nợ, giãn nợ hoặc đảo nợ bởi lẽ những biện pháp này thực sự không giải quyết được nợ xấu, trái lại làm cho tình trạng nợ xấu ngày càng tăng thêm. Thứ hai, việc xử lý nợ xấu của các NHTM nhất thiết phải chủ động “đưa ra ngoại bảng” và xóa nợ cần được thực hiện từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro theo quy định của NHNN và bằng vốn chủ sở hữu của các NHTM. Chỉ có như vậy, các NHTM mới thực sự có trách nhiệm đối với việc phán quyết cho vay và giải ngân, đồng thời khách hàng vay vốn cũng không còn cơ hội để “học tập” kinh nghiệm xấu, dễ lây lan. Nợ xấu, dẫu có những lý do khách quan song trước hết là sản phẩm của các NHTM, các NHTM cần phải cho trách nhiệm trước hết và cao nhất đối với nợ xấu bằng vốn của chính mình và chỉ có như vậy nợ xấu mới có thể được ngăn chặn và hạn chế phát sinh từ những món vay mới. Đối với hoạt động VAMC: Thứ nhất, tăng cường và hoàn thiện hoạt động của VAMC theo hướng tích cực, chủ động và tạo lập sự đồng thuận tốt hơn để việc mua bán được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và hiệu quả. Thứ hai, nợ xấu cần được VAMC chứng khoán hóa để được mua bán một cách rộng rãi hơn là chỉ phát hành ra trái phiếu đặc biệt, không có lãi và vay tái chiết khấu tại NHNN. Điều này tuy chưa được triển khai ở Việt Nam nhưng cũng đã có kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là kinh nghiệm của Hoa Kỳ và Nhật Bản. Hơn nữa, chúng ta có thể thực hiện thí điểm để tạo ra một “sự mở đầu” và nếu thành công sẽ mở ra một xu hướng “xã hội hóa” và chắc chắn việc xử lý nợ xấu sẽ triệt để và hiệu quả hơn. Chúng tôi cho rằng cũng chỉ chứng khoán hóa nợ xấu mới thì VAMC mới có phương án định giá theo giá thị trường và bán cho nhà đầu tư mới, đặc biệt là thu hút và tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia xử lý nợ xấu. 53
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG c) Tiếp tục thúc đẩy các hoạt động mua bán, sáp nhập trên nguyên tắc tự nguyện Qua hơn nửa chặng đường thực hiện tái cấu trúc với các thương vụ mua bán, sáp nhập số lượng các NHTM Việt Nam đã giảm được 6 NHTM, tuy nhiên số lượng các NHTM nước ta vẫn còn quá nhiều, trong khi quy mô của nhiều NHTMCP lại quá nhỏ, thậm chí so với các NHTM của các nước trong khu vực. Hiện nay Việt Nam có tổng số 39 NHTM, 14 NH 100% vốn nước ngoài và Chi nhánh NH nước ngoài tại Việt Nam và 6 NH Liên doanh (Tính đến hết tháng 3/2014) so với Hàn Quốc từng có 26 ngân hàng, nhưng bây giờ chỉ còn lại 5 NHTM; Thái Lan từng có 15 ngân hàng trước cuộc khủng hoảng tài chính và 56 công ty tài chính; hiện nay chỉ còn 7 ngân hàng nội địa. Indonesia từng có 222 ngân hàng, nhưng hiện giảm xuống chỉ còn 120 ngân hàng (Robert Zielinski P.T.D., 12-12-2012). Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động mua bán sáp nhập và cần mạnh dạn hơn với sự tham gia của các cổ đông chiến lược và các nhà đầu tư nước ngoài thông qua hoàn thiện và mở rộng quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần. Khuyến nghị này nếu được thực hiện sẽ đồng thời trên một số phương diện, không chỉ giải quyết nợ xấu, tăng cường quản trị điều hành, tăng vốn chủ sở hữu mà còn thúc đẩy hoạt động ngân hàng thương mại nước ta tiến gần hơn với thông lệ và trình độ thế giới. 4.2. Một số kiến nghị tầm vi mô: Trong nền kinh tế thị trường, mọi loại hình các doanh nghiệp và các NHTM phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và được hoạt động tài chính trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Điều này không chỉ là yêu cầu cơ chế kinh tế thị trường, mà còn là yêu cầu cơ bản mang tính nguyên tắc để phát triển bền vững. Tự chủ tài chính và kinh doanh buộc các NHTM phải phát huy tính độc lập sáng tạo và năng lực để vượt qua những khó khăn thách thức, kể cả việc giải quyết nợ xấu, mà không trông dựa vào sự trợ giúp của nhà nước. a) Tăng cƣờng năng lực tài chính và từng bƣớc áp dụng các chuẩn mực quốc tế Để bảo đảm các NHTM có đủ năng lực tài chính đáp ứng nhu cầu mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh một cách an toàn theo chuẩn mực quốc tế và Ủy ban Basel trước hết yêu cầu tất cả các NHTM phải bảo đảm duy trì mức vốn chủ sở hữu phù hợp với quy mô tài sản trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ mức trên 12%, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 3% và các chuẩn mực khác của Basel II và Basel III. Trước yêu cầu tăng cường quản lý rủi ro, theo thông lệ quốc tế, việc nâng hệ số CAR bắt buộc đối với các NHTM Việt Nam là hoàn toàn phù hợp. Theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, từ năm 2010 hệ số an toàn vốn tối thiểu của các ngân hàng phải đạt 9%. Tuy nhiên, trên thế giới, việc áp dụng hệ số an toàn vốn tối thiểu hiện phổ biến theo tiêu chuẩn của Basel II đã ở mức 12%. Một số thống kê gần đây cho thấy hệ số CAR tại các NHTM của khu vực châu Á - Thái Bình Dương bình quân hiện nay là 13,1%, của khu vực Đông Á là 12,3%. Đây cũng là mức một số NHTM Việt Nam đã đạt được. b) Tích cực hiện đại hóa công nghệ và chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh Việc nâng cao tiềm lực tài chính của các NHTM không chỉ đẩy nhanh tiến độ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng mà còn tạo cơ sở để đổi mới công nghệ và trình độ chuyên môn quản lý, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Hội nhập và cạnh tranh quốc tế là xu hướng tất yếu, buộc các NHTM sẽ phải được phát triển một cách tương thích và không chỉ cạnh tranh với nhau ở trong nước mà còn phải cạnh tranh với các các định chế trung gian của các nước trong khu vực và trên thế giới. c) Cơ cấu lại mô hình tổ chức và hoạt động, nâng cao năng lực quản trị và điều hành Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các NHTM từ hội sở chính đến các chi nhánh theo hướng phù hợp với mô hình NHTM hiện đại trên thế giới. Mở rộng quan hệ đại lý, hợp tác kinh doanh, 54
  12. HỘI THẢO "NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG" phát triển sản phẩm, ứng dụng và chuyển giao công nghệ với các tổ chức tài chính nước ngoài, xúc tiến hiện diện thương mại của các NHTM VN tại các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Quản trị và điều hành của các NHTM cần phải được ưu tiên hoàn thiện theo hướng tiêu chuẩn hóa và cơ chế trách nhiệm đối với kết quả hoạt động kinh doanh. Đội ngũ lãnh đạo và quản lý phải được chuyên nghiệp hóa, có trình độ học vấn, chuyên môn và kinh nghiệm thực tế. d) Đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và tăng cƣờng dịch vụ tiện ích Các NHTM cần đa dạng hóa hoạt động kinh doanh để thâm nhập sâu rộng vào nền kinh tế, gần gũi hơn với công chúng, làm bạn với các doanh nghiệp để tích cực và chủ động trong huy động và sử dụng vốn một cách đa dạng là giải pháp chiến lược cho các NHTM Việt Nam nhằm tháo gỡ những khó khăn bế tắc và yếu kém trong hoạt động kinh doanh hiện nay, tiến tới kinh doanh có hiệu quả và đảm bảo khả năng phát triển bền vững. Tăng cường cung cấp các dịch vụ ngân hàng tiện ích để tăng thu nhập từ phí dịch vụ, nhằm hạn chế rủi ro. Trên cơ sở ứng dụng sự phát triển của công nghệ thông tin và thương mại điện tử, các NHTM Việt Nam cũng đã cung cấp các dịch vụ tiện ích và hiện đại như dịch vụ ngân hàng qua điện thoại, qua internet, dịch vụ ngân hàng tại nhà, v.v... 5. Kết luận Đề án “cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” nhằm phát triển một hệ thống TCTD đa năng, hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vào năm 2020 được phê duyệt theo Quyết định số 254/QĐ-TTg của Chính Phủ ngày 01/03/2012 đã đi qua hơn nửa chặng đường. Nhìn lại những thành tựu đã đạt được đến cuối năm 2013 có thể thấy hiệu quả của những nỗ lực và quyết tâm của NHNN, các cơ quan quản lý chức năng và của hệ thống ngân hàng thương mại. Thanh khoản của hệ thống được duy trì ổn định, nợ xấu đã từng bước được kiểm soát, hoạt động ngân hàng đã được sắp xếp và định hướng lại, v.v..., đã góp phần tháo gỡ khó khăn của các doanh nghiệp, mang lại sự ổn định vĩ mô và phục hồi tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong gần một nửa chặng đường còn lại, tiến trình tái cấu trúc vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn và thách thức, không phải chỉ bởi những nhiệm vụ năng nề còn lại đến năm 2015 mà còn phải hoàn thành tiếp những mục tiêu của giai đoạn 2011-2013. Một số khuyến nghị, bao gồm từ việc tái cấu trúc hoạt động của NHNN và nền kinh tế; xử lý triệt để và không mang tính bao cấp đối với nợ xấu trực tiếp của các NHTM và thông qua VAMC; củng cố năng lực tài chính, năng lực hoạt động, quyền tự chủ kinh doanh, khả năng quản trị và điều hành của các NHTM đến việc củng cố và phát triển thị trường tiền tệ đã được chọn lọc và trình bày. Tuy nhiên, trong điều kiện những hạn chế về thời gian và những nguồn lực khác, nghiên cứu và báo cáo của tôi chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, tác giả mong muốn nhận được những ý kiến bổ xung đóng góp của tất cả mọi người quan tâm để nghiên cứu và báo cáo được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] 02/2013/TT-NHNN T.t., Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nước N.h.N., Editor. 21-01-2013. [2] 19/2013/TT-NHNN T.t., Quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam., 19/2013/TT-NHNN, nước N.h.N., Editor. 6-09-2013. [3] 20/2013/TT-NHNN T.t., Quy định về cho vay tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam, Nam N.h.N.n.V., Editor. 09-09- 2013, NHNN. 55
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG [4] 254/QĐ-TTg Q.đ., Phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015”, Quyết định 254/QĐ-TTg, PHỦ T.T.C., Editor. 01-03-2012, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ. p. 16. [5] 339/QĐ-TTg Q.đ., Phê duyệt Đề án "Tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020", 339/QĐ-TTg. 19-02-2013, Thủ tướng Chính phủ. p. 29. [6] 843/QĐ-TTg Q.đ., Phê duyệt Đề án "Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng" và Đề án "Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam", phủ T.t.C., Editor. 31-05-2013. [7] Hưng T., "Ưu đãi 2% lãi suất tái cấp vốn với TPĐB của VAMC", 5-12-2013. [8] KPMG, Khảo sát về ngành ngân hàng Việt Nam năm 2013. 2013, KPMG. [9] Ngọc L., "Cán cân thương mại 8 tháng 2013: Có xuất siêu nhẹ", 17-09-2013. [10] Robert Zielinski P.T.D., Báo cáo Ngành ngân hàng Việt Nam. 12-12-2012, Viet Capital Securities. 56
nguon tai.lieu . vn