Xem mẫu
- John Locke (1632–1704)
PHẦN 1
John Locke (1632–1704) là nhà triết học, nhà hoạt động chính trị người Anh.
Ông là nhà triết học theo trường phái chủ nghĩa kinh nghiệm Anh trong lĩnh vực
nhận thức luận. Ông cũng phát triển lý thuyết về khế ước xã hội, vai trò của nó tới
chức năng và nguồn gốc nhà nước.
Qua các tác phẩm của mình, ông luôn đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế
và đóng góp lớn đối với chủ nghĩa tự do cả về mặt cá nhân và thể chế. Về cá nhân, ông
- muốn con người dùng lý trí để đi tìm chân lý thay vì chấp nhận ý kiến áp đặt hoặc sinh
ra bởi niềm tin mù quáng. Về mặt thể chế, cụ thể là nhà nước và nhà thờ, ông tách biệt
các chức năng chính đáng và không chính đáng của các thể chế này và từ đó mà có sự
khác nhau trong việc sử dụng bạo lực của các thể chế này tương ứng với đúng các chức
năng của nó. Chính những khái niệm về quyền của tự nhiên, khế ước xă hội và nhiều
đóng góp khác đă khiến ông trở thành một nhà tư tưởng lớn của phong trào Khai sáng và
ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc Cách mạng Mỹ và bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ.
1. Tiểu sử
John Locke sinh ở Wrington, một làng nhỏ ở Somerset, vào ngày 29 tháng 8 năm 1632.
Ông sinh trưởng trong gia đình Thanh giáo, là con trai của một chủ đất nhỏ hành nghề
luật sư tại nông thôn và đã tham gia Nội chiến trong phe của Cromwell. Năm 1646 ông
vào học trường Westminster tại Luân Đôn và học tiếp lên trường Christ Church của đại
học Oxford vào năm 1652. Ông lấy bằng cử nhân năm 1656 và thạc sĩ năm 1658 và làm
giảng viên tại trường từ 1660. Trong thời gian tại trường, ông còn quan tâm đến khoa
học thực nghiệm và là hội viên Hội Hoàng gia năm 1668.
Năm 1668, ông làm thư ký cho Huân tước toàn quyền Carolinas, Huân tước Ashley tức
Bá tước Shaftesbury. Khi Ashley thuyết phục vua Charles II thành lập Ban Thương mại
và Thuộc địa, ông đảm nhiệm vị trí thư ký của Ban này. Sau 1674, khi Shaftesbury rời
chính trường, ông về lại đại học Oxford lấy bằng cử nhân Y học và giấy phép hành nghề
rồi sang miền Nam nước Pháp. Khi Shaftesbury trở lại vũ đài chính trị thì ông cũng lại
trở về Anh năm 1679. Rồi vì sợ bị nghi nghờ dính líu đến một âm mưu ám sát nhà vua
nên ông quyết định sang Hà Lan vào năm 1683. Nơi đây ông viết Lá Thư về Lòng
Khoan dung bằng tiếng Latin và trước khi rời Hà Lan, tháng 2 năm 1689 tác phẩm Luận
về sự hiểu biết của con người được hoàn thành.
Cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1688 đă không chỉ đánh dấu một bước ngoặt cho
- nước Anh mà với cả John Locke. Ông trở về Anh trên cùng chiếc tàu trở Nữ hoàng
Mary quay về Anh để cùng chồng cai trị vương quốc. Trong giai đoạn này, ông xuất bản
tác phẩm Luận về sự hiểu biết của con người và Hai Chuyên Luận về Nhà nước. Đồng
thời tác phẩm Lá Thư về Lòng Khoan dung mà ông viết bằng tiếng Latin cũng được dịch
ra tiếng Anh. Trong những năm tiếp theo, ông quan hệ thân thiết với Quý bà Masham và
sống tại Oates, Essex. Cũng trong giai đoạn này, ông viết nhiều thư từ, tranh luận bảo vệ
cho các tác phẩm của mình. Ông cũng viết Tính hợp lý của Ki tô giáo và Một số Suy
nghĩ về Giáo dục trong thời gian này.
Từ 1696 cho đến 1700, ông lại tham gia vào Ban Thương mại, một cơ quan quản lý
nhiều việc trong đó có cả các việc về nước Mỹ trước khi xảy ra Cách mạng Hoa Kỳ. Sau
khi về hưu, Locke trở về Oates sống những ngày cuối đời và mất ngày Chủ nhật 28
tháng 10 năm 1704.
2. Tác phẩm
Thư về Lòng Khoan dung (A Letter Concerning Toleration) (1689)
Lá thư thứ hai về Lòng Khoan dung (A Second Letter Concerning Toleration) (1690)
Lá thư thứ ba về Lòng Khoan dung (A Third Letter for Toleration)(1692)
Lá thư thứ tư về Lòng Khoan dung (Fourth Letter for Toleration) (sau khi mất)
Luận về sự Hiểu biết của Con người (An Essay Concerning Human Understanding)
(1689)
Lá thư gửi Giám mục xứ Worcester (A Letter to the Bishop of Worcester) (1697)
Hai chuyên luận về Nhà nước (Two Treatises of Government) (1689)
Một số suy nghĩ về hậu quả của việc hạ thấp tỷ giá và tăng giá trị của tiền tệ (Some
Considerations of the Consequences of Lowering of Interest, and Raising the Value of
Money) (1691)
Một số suy nghĩ tiếp theo về tăng giá trị của tiền tệ (Further Considerations concerning
Raising the Value of Money) (1693)
Một số suy nghĩ về Giáo dục (Some Thoughts Concerning Education) (1693)
Tính hợp lý của Ki-tô giáo (The Reasonableness of Christianity, as Delivered in the
- Scriptures) (1695)
Biện hộ cho tính hợp lý của Ki-tô giáo (A Vindication of the Reasonableness of
Christianity)(1695)
Biện hộ tiếp theo cho tính hợp lý của Ki-tô giáo (A Second Vindication of the
Reasonableness of Christianity) (1695)
Thuyết trình về phép màu của Chúa (Discourse on Miracles) (sau khi mất)
Xem xét ý kiến của Cha Malebranche nhìn thấy tất cả mọi việc nhân danh Chúa (An
Examination of Father Malebranche's Opinion of Seeing all things in God) (sau khi
mất)
Nhận xét về một số tác phẩm của Ông Norris (Remarks on Some of Mr Norris's Books)
(sau khi mất)
Con đường của trí tuệ (Conduct of the Understanding) (sau khi mất)
3. Ảnh hưởng
Locke có ảnh hưởng đến cả cuộc Cách mạng Hoa Kỳ và Cách mạng Pháp. Locke có
nhiều ảnh hưởng đến triết học, chính trị và đặc biệt là cống hiến của ông cho chủ nghĩa
tự do. Ông đóng góp cho nhân loại con đường thực nghiệm đi đến tri thức. Tư tưởng về
chủ nghĩa tự do và khế ước xă hội của ông ảnh hưởng trực tiếp tới Voltaire,
Montesquieu và sau này tới cả những Cha đẻ của Hợp chủng quốc Hoa kỳ như
Alexander Hamilton, James Madison và Thomas Jefferson. Tên tuổi của John Locke
được biết đến nhiều nhất qua cống hiến của ông cho chủ nghĩa tự do nói chung và ảnh
hưởng với nước Mỹ nói riêng.
4. Con đường tri thức
Trong nhận thức luận, ông xem con người bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh
giống như khi sinh ra chỉ là tờ giấy trắng mà sự trải nghiệm tự do viết lên đó. Khi con
người suy nghĩ, đối tượng của sự hiểu biết chính là ý niệm. Và ý niệm bắt nguồn từ kinh
nghiệm (hay trải nghiệm). Kinh nghiệm có hai dạng, một dạng là thực tại bên ngoài qua
các giác quan mà con người có được những ý niệm đơn giản về sự vật và quá trình xung
quanh. Một dạng khác chính là sự suy nghĩ cho ta biết sự vận động bên trong tâm thức
- của chúng ta, hay nói cách khác qua suy nghĩ hay hồi tưởng mà ta có được những ý
niệm mới dựa trên những ý niệm đơn giản đã có từ trước trong tâm thức chúng ta. Vì
vậy, suy nghĩ cũng là một dạng nhận thức nội tại. Các ý niệm đều có nguồn gốc từ cảm
giác, suy nghĩ hay cả hai.
Từ kinh nghiệm, con người có được những ý niệm đơn giản. Khi đă trữ đầy nhiều ý
niệm đơn giản, tâm thức con người có thể kết hợp chúng lại thành những ý niệm phức
tạp hơn. Ý niệm đơn giản không thể do con người tự tạo ra, chúng chỉ có thể có từ kinh
nghiệm và trong quá trình nhận thức đó, tâm thức con người ở trạng thái thụ động. Còn
khi kết hợp các ý niệm đơn giản thành nhiều những kiểu ý niệm phức tạp khác nhau, tâm
thức con người ở trạng thái hoạt động. [1]Chính vì vậy mà ông là người được xem là
theo chủ nghĩa kinh nghiệm vì không có thứ gì ở trong thế giới tâm thức mà lại không ở
dạng ý thức trước đó, khi ý thức được mở rộng để bao hàm cả sự suy nghĩ.
Locke cũng xem các ý niệm đơn giản chính là phản ánh sát nhất của thực tại. Con người
càng suy nghĩ làm giàu thêm những ý niệm mới thì càng đi xa thực tại bấy nhiêu. Tuy
nhiên các ý niệm đơn giản này không có cùng mức độ ý nghĩa với thực tại. Có những ý
niệm đơn giản như màu sắc, mùi vị, âm thanh không có sự tương đồng với vật thể ở
trong đó nhưng có thuộc tính về hình ảnh, về chuyển động của cái vật thể không cảm
thấy được, tức là có “sức mạnh để tạo ra sự cảm nhận trong chúng ta” và được gọi là đặc
tính thứ cấp của vật thể. Mặt khác những khái niệm như sự vững chắc, hình ảnh, chuyển
động cũng là những ý niệm đơn giản nhưng lại có sự tương đồng với đặc trưng của cái
vật thể, “mẫu hình của chúng có tồn tại thực bên trong bản thân vật thể và do vậy chúng
là đặc tính sơ cấp của vật thể. [2]
Bản chất của ngôn ngữ là liên hệ với các ý niệm và nó có vai trò quan trọng trong tìm
kiếm tri thức. Ông xem ngôn từ chỉ là để giao tiếp [3]và cần phân biệt cái danh và cái
thực chất[1]. Trong tự nhiện không hề có biên giới rõ ràng nào và luôn tồn tại các trường
hợp nằm ở vùng giáp ranh. Do vậy cái thực chất không thể được hiểu chỉ thông qua việc
đưa ra ngữ nghĩa của cái tên được dùng để chỉ cái thực thể.[1]
- Locke cũng phân biệt giữa hình thức (mode) và thực thể(substance). Khác với thực thể,
hình thức là một dạng tồn tại phụ thuộc mà Locke gọi nó là “ý niệm phức tạp mà dù bản
thân nó được kết hợp như thế nào, nó không chứa trong nó cái giả định tồn tại của nó”
(Luận về sự hiểu biết của con người q.II. xii.4, trang 165) hay nói đơn giản nó chính cái
được nghĩ tới khi sắp xếp trật tự cái thực tại. Hình thức cũng có hai dạng như ông viết:
Có hai dạng Hình thức cần được xem xét. Dạng đầu là các dạng chỉ có sự biến đổi hay
kết hợp khác nhau của các Ý niệm đơn giản mà không bị xáo trộn ...; chính không là cái
gì khác ngoài các ý niệm đồng nhất khác rõ ràng được xếp lại bên nhau mà tôi gọi là
Hình thức đơn giản.... Loại thứ hai kết hợp các Ý niệm thuộc các kiểu khác nhau được
xếp cùng nhau để trở thành dạng phức tạp hơn ...; và tôi gọi chúng là các Hình thức Hỗn
hợp. (Luận, q. II, xii. 5., trang 165)
Locke xem tri thức là "sự nhận thức về sự chuyển tiếp và đồng ý hoặc không đồng ý và
phản đối về bất kỳ một ý niệm nào trong các ý niệm của chúng ta " (Luận, q. IV. I. 1. tr.
525). Sự đồng ý hay không được chia thành bốn loại: đồng nhất hoặc đa dạng; quan hệ;
cùng tồn tại hoặc chuyển tiếp nếu cần thiết; và sự tồn tại thực. Locke cũng phân biệt hai
mức độ của tri thức: trực giác và chứng minh. Trong trực giác, sự đồng ý hay không
được nhận thức ngay. Còn với loại sau, nó được nhận thức thông qua sự trung gian điều
hòa của một ý niệm thứ ba, tuy nhiên từng bước của chứng minh cũng vẫn là trực giác
khi sự đồng ý hay không được nhận thức tức thì. Ông xem toán học và đạo đức thuộc
loại chứng minh. Về cái tôi, Locke cùng quan điểm với Descartes rằng sự tồn tại của cái
tôi được biểu hiện trong mọi trạng thái ý thức.[2]
Bên cạnh hai dạng tri thức trên, Locke đề cập đến một dạng tri thức thứ ba, đó là sự hiểu
biết không phải về Chúa trời và về cái tôi mà là tri thức về cái khách thể thực hay thế
giới bên ngoài qua sự lĩnh hội của cảm giác.[2]
Cả hai, trực giác và chứng minh đều là các mức độ của tri thức của chúng ta; cái đến tiếp
theo ... chính là niềm tin hoặc quan niệm, nhưng chưa phải là tri thức, .... Do vậy cái
- nhận thức khác trong tâm thức vận dụng đến cả cái tồn tại cụ thể của sự sống hữu hình
ngoài bản thân chúng ta, đi xa hơn sự thống kê đơn giản, và chưa đủ hoàn thiện đến mức
chắc chắn, được đi qua với tên gọi tri thức. (Luận, q. IV, xiv).
Cuối cùng, Locke đưa ra cái gọi là lương tri, để phân biệt với tri thức khi tâm thức con
người ngay lập tức đi đến sự đồng ý hay không trước một ý niệm mà không đòi hỏi rằng
“phải có bằng chứng chứng minh trong quá trình nhận thức” (Luận, q. 4, xix, ḍng 1-2).
[2]
nguon tai.lieu . vn