- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Hợp tác doanh nghiệp và giáo dục nghề nghiệp trong quản lý phát triển chương trình đào tạo
Xem mẫu
- HỢP TÁC DOANH NGHIỆP VÀ GIÁO DỤC
NGHỀ NGHIỆP TRONG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
Lê Anh Đức*
TÓM TẮT:
Chương trình đào tạo theo nghĩa rộng là khoá đào tạo (programme) hoặc theo nghĩa
hẹp là nội dung đào tạo (curriculum) đều phải xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp. Khó
khăn lớn nhất là làm sao huy động được nhiều doanh nghiệp tham gia cùng với các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp (gọi tắt là trường) quản lý phát triển chương trình đào tạo phù hợp với
sự phát triển của khoa học - công nghệ. Bài viết nêu lên những điểm mạnh, điểm yếu trong
mối quan hệ giữa trường với doanh nghiệp tại Đồng Nai, từ đó xác định các nguyên tắc, lợi
ích của trường, học sinh - sinh viên và doanh nghiệp đạt được khi cùng thực hiện các nội
dung được đề cập trong bài viết.
Từ khóa: Hợp tác doanh nghiệp và giáo dục nghề nghiệp, mối quan hệ giữa trường và
doanh nghiệp, quản lý phát triển chương trình đào tạo.
Nguyên lý “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất” là
nguyên lý cơ bản nhất để phát triển giáo dục nói chung và giáo dục nghề nghiệp
(GDNN) nói riêng. Đào tạo gắn với sử dụng, nhà trường gắn với doanh nghiệp
(DN) là xu thế tất yếu của thời đại, nhất là trong giai đoạn khoa học - kỹ thuật và
công nghệ phát triển nhanh chóng như hiện nay.
Mối quan hệ giữa trường và DN đã được đề cập tại Việt Nam từ rất sớm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1949) đã chỉ rõ “Giáo dục phải cung cấp cán bộ cho kinh
tế. Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được. Nếu kinh tế không phát triển thì
giáo dục cũng không phát triển được. Giáo dục không phát triển thì không đủ cán
bộ giúp cho kinh tế phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết đến nhau”.
Mặc dù xác định được nguyên lý và phương châm để gắn kết giữa DN và nhà
trường, nhưng chất lượng đào tạo nhân lực kỹ thuật (NLKT) nói chung và GDNN
nói riêng còn rất thấp so với các nước trong khu vực ASEAN.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và Viện Năng suất quốc gia Việt
Nam thì năm 2013, năng suất lao động của người Việt Nam bằng 1/15 lần so với
Singapore, bằng 1/5 so với Malaysia và 1/2,5 so với Thái Lan và ngày càng gia tăng
cách biệt, đến 2015 năng suất lao động Việt Nam bằng 1/18 so với Singapore, 1/7
so với Malaysia, 1/3 so với Thái Lan, bằng 1/2 so với Indonesia và Philippines.
* Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Đồng Nai
288
- Một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực thấp là
do “Nội dung chương trình còn nặng về lý thuyết… nhà trường chưa gắn chặt với
đời sống kinh tế, xã hội; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội; chưa
chú trọng giáo dục kỹ năng sống, phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của
học sinh, sinh viên”. Theo Báo cáo GDNN Việt Nam năm 2017 chỉ có khoảng 7,5%
DN có tham gia phối hợp với nhà trường trong đào tạo, đó cũng là lý do dẫn đến
kết quả trong Báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI (2018) khi khảo
sát hơn 11.000 DN thì có 71% các DN cho rằng chất lượng đào tạo NLKT đáp ứng
một phần (67%), không đáp ứng yêu cầu (4%), đồng thời các DN trình bày khó
tuyển dụng lao động kỹ thuật (74% DN cho biết gặp khó khăn khi tuyển dụng vị trí
cán bộ kỹ thuật; riêng các vị trí giám sát và quản lý, lần lượt có 84% và 91% DN trả
lời là rất khó tuyển dụng), nhưng sau khi tuyển dụng, người lao động lại thường
“nhảy việc”, nghỉ việc làm nản lòng các DN.
Như vậy, có thể nói rằng, không những nội dung chương trình đào tạo
(CTĐT) theo nghĩa hẹp (curriculum) không theo sát nhu cầu của DN mà còn
thiếu các hoạt động phối hợp để quản lý phát triển CTĐT theo nghĩa rộng hơn là
các khóa đào tạo (programme) từ khâu xác định nhu cầu đào tạo, lập kế hoạch và
thiết kế nội dung các khóa đào tạo, tổ chức đào tạo và kiểm tra đánh giá các khóa
đào tạo.
Trong đề tài nghiên cứu khoa học:”Quản lý phát triển CTĐT theo tiếp cận
quan hệ trường và DN tại các trường cao đẳng tỉnh Đồng Nai” thực hiện từ 2017
đến nay bản thân người viết bài này đã tìm hiểu thực trạng mối quan hệ giữa
trường và DN của 100% trường cao đẳng và hơn 40 DN đang hoạt động liên kết
với các trường tại Đồng Nai, cho thấy:
1. Điểm mạnh (Strengths)
- Nhận thức của trường cao đẳng và DN về tầm quan trọng việc quản lý phát
triển CTĐT với sự phối hợp của DN có chuyển biến tích cực.
- Trên 90% CBQL của trường cao đẳng đã nhận thức được vai trò quan trọng
của quản lý phát triển CTĐT vớisự phối hợp của DN.
- Bước đầu các trường đã chủ động phối hợp với DN để xây dựng và thực
hiện CTĐT.
- CBQL của trường đã chỉ đạo hoạt động phát triển, thực hiện, đánh giá thực
hiện CTĐT đối với các cá nhân và tổ chức có liên quan.
2. Điểm yếu (Weaknesses)
- Các nội dung quản lý phát triển CTĐT có sự phối hợp của DN chưa có
đường hướng rõ ràng, mối quan hệ lỏng lẻo, không thường xuyên và kết quả chưa
289
- cao. Trường và DN chỉ tập trung phát triển nội dung CTĐT là curriculum mà chưa
quan tâm đến việc thiết lập các khóa đào tạo.
- Chưa có cơ chế phối hợp giữa trường và DN trong quản lý phát triển CTĐT,
nhiều khi áp dụng 01 cơ chế rập khuôn cho tất cả các DN là không phù hợp làm
giảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý giữa 2 bên.
- Các tiêu chí đánh giá chỉ tập trung ở mối liên kết đào tạo như đánh giá thực
tập, sự hỗ trợ của 2 bên mà chưa có tiêu chí cho quản lý phát triển CTĐT từ khâu
lập kế hoạch xác định nhu cầu đào tạo (NCĐT) đến khi thực thi và đánh giá hoàn
thành một chu trình giữa trường và DN.
- Chưa có bộ phận chuyên trách giúp việc cho trường và DN để quản lý phát
triển CTĐT nên chưa gắn kết, bổ trợ cho nhau trong phát triển nhân lực phục vụ
sản xuất - kinh doanh.
- Chưa phát huy đầy đủ vai trò của DN khi tham gia vào các nội dung quản
lý phát triển CTĐT của trường, như: phối hợp huớng nghiệp, tuyển sinh, tham gia
lập kế hoạch đào tạo, thiết kế CTĐT, tham gia giảng dạy, phối hợp đánh giá kết
quả đào tạo,…
- Năng lực xác định NCĐT, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, đánh giá CTĐT
theo tiếp cận quan hệ trường và DN của CBQL và GV chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Thông tin 2 chiều giữa trường và DN còn rời rạc, bị động gây khó khăn
cho cả 2 bên khi xác định NCĐT, tư vấn đào tạo cũng như khi tuyển dụng, bố trí
lao động.
- Nhận thức về quản lý phát triển CTĐT còn khác biệt lớn, nhất là về tầm
quan trọng của DN với trường, của DN tư nhân trong nước khác với DN FDI.
- Việc triển khai đào tạo với sự phối hợp của DN chưa được quan tâm, hoạt
động giảng dạy của GV ở các trường cao đẳng hiện nay chưa thật sự có hiệu quả,
chưa áp dụng giữa nội dung trên lớp với thực tiễn lao động trong DN; việc kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của HSSV vẫn theo phương pháp truyền thống qua
các bài thi trên lớp, chưa thực sự gắn với DN.
Từ những điểm mạnh, điểm yếu nêu trên, hệ thống GDNN cần quan tâm
đúng mức đến quản lý phát triển CTĐT với sự tham gia của DN, nhất là đề ra các
giải pháp cụ thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu của các DN
trên địa bàn hay trong một khu vực, mặc dù thể trông đợi một giải pháp áp dụng
cho tất cả các loại hình hay ngành nghề sản xuất, kinh doanh của DN.
Trong khuôn khổ của tham luận này, với khía cạnh phát triển các khóa đào
tạo với sự phối hợp của DN, các trường và DN cần xác định các nguyên tắc, nội
290
- dung và lợi ích của mối quan hệ DN với GDNN như sau:
1. Doanh nghiệp và cơ sở giáo dục nghề nghiệp (trường) phải nhận thức
tồn tại mối quan hệ giữa 2 bên là tất yếu khách quan, vì hai đặc trưng sau:
- Quan hệ trường và DN là quan hệ nhân - quả: Đào tạo phát triển sẽ cung
ứng được đủ nhân lực cho DN phát triển, DN phát triển sẽ tạo thuận lợi cho sản
phẩm của đào tạo được sử dụng nên đào tạo sẽ tiếp tục phát triển và ngược lại.
- Quan hệ trường và DN là quan hệ cung - cầu: Trong nền kinh tế thị trường
(KTTT), trường và DN cùng tham gia vào thị trường đào tạo. Trường là bên cung
lao động kỹ thuật (LĐKT), DN là bên cầu và sử dụng LĐKT do trường cung cấp.
Bên cung LĐKT và bên sử dụng LĐKT phải tuân theo quy luật cung - cầu. Do
vậy, hai bên phải cùng phối hợp để điều tiết thị trường lao động (TTLĐ), giữ cho
TTLĐ được cân bằng và phát triển, không để xảy ra tình trạng vừa thừa vừa thiếu
và dẫn đến tình trạng khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu LĐKT.
2. Các nguyên tắc để phát triển bền vững mối quan hệ giữa trường
và doanh nghiệp
Để phát triển bền vững mối quan hệ giữa trường và DN, cần tuân thủ các
nguyên tắc sau:
2.1. Nguyên tắc tự nguyện
Điều quan trọng đầu tiên và có tính quyết định đến sự phát triển bền vững
của mối quan hệ trường và DN là sự tự nguyện, tự giác của đôi bên. Quy định pháp
lý chỉ có thể hỗ trợ chứ không áp đặt, bắt buộc trường và DN phải phối hợp với
nhau trong việc phát triển CTĐT.
2.2. Nguyên tắc bình đẳng, hai bên đều có lợi
Các DN là các nhà kinh doanh, mục tiêu của họ là đạt lợi nhuận tối đa trong
khi trường là một tổ chức dịch vụ hoạt động với nguyên tắc phi lợi nhuận, bởi vậy
DN sẽ không tham gia bất cứ hoạt động nào mà họ thấy không có lợi cho mình.
Cũng chính vì lý do này mà họ chưa tự nguyện trong việc xây dựng mối quan hệ
với trường trong đào tạo. Để thực hiện được nguyên tắc này, các cơ sở GDNN
nói chung phải nhanh chóng cùng DN thiết lập các hoạt động quản lý phát triển
CTĐT, trong đó tập trung xác định đúng nhu cầu đào tạo, cải tiến nội dung CTĐT
(curriculum), mục tiêu đào tạo/chuẩn đầu ra phải xuất phát từ yêu cầu về chất
lượng nhân lực mà DN đặt ra chứ không phải do nhà trường tự xác định (có thể
nói là trường chỉ dạy cái mình có) như hiện nay.
2.3. Nguyên tắc bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ và sứ mạng của mỗi bên
Mối quan hệ giữa nhà trường và DN trong việc phát triển CTĐT cần được
291
- đặt trong yêu cầu chung của cả đôi bên, không được làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện nhiệm vụ của mỗi bên.
Nhiệm vụ của trường là hàng năm cung ứng nhân lực các trình độ có đầy đủ
các năng lực cần thiết theo yêu cầu của sản xuất cho các DN, đồng thời là những
người công dân tốt.
Mặt khác, các DN có nhiệm vụ phát triển sản xuất, dịch vụ theo kế hoạch
hàng năm, do vậy, trong việc phối hợp phát triển CTĐT với trường không thể làm
ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, mà ngược lại, cần có kế hoạch, tận dụng các
nguồn lực sẵn có (ví dụ nhân lực kỹ thuật là HSSV đang theo học) và cơ hội hợp
tác để phát triển sản xuất.
Nói một cách khác, để thực hiện phát triển CTĐT với sự phối hợp của DN một
cách bền vững, cơ sở GDNN cũng như DN cần thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đã
nêu ở trên, đồng thời Nhà nước cần có những chính sách thích đáng để tạo thuận lợi
cho các DN tham gia với trường trong quá trình đào tạo NLKT cho xã hội.
3. Nội dung và lợi ích của mối quan hệ giữa trường và doanh nghiệp trong
phát triển chương trình đào tạo
3.1. Nội dung mối quan hệ giữa trường và DN trong phát triển CTĐT
Có các nội dung chủ yếu bao gồm:
a) Xác định nhu cầu đào tạo:
- Đối với trường: Để xác định được NCĐT luôn biến động hàng năm của các
DN, các trường cần chủ động thiết lập mối quan hệ chặt chẽ và thường xuyên với
các DN đối tác để thu thập thông tin về NCĐT của DN cả về chất lượng cũng như
số lượng, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch
đào tạo và tuyển sinh hàng năm cho phù hợp. Trường chủ động cung cấp thông tin
về khả năng đào tạo của mình, giới thiệu những lợi ích mà trường có thể mang lại
cho DN và xã hội, nhất là lợi ích của việc đào tạo NLKT để nâng cao năng suất lao
động cho người lao động.
- Đối với DN: Để có được đội ngũ nhân lực phù hợp với yêu cầu của mình để
phát triển sản xuất/kinh doanh, DN cung cấp cho trường thông tin về nhu cầu bổ
sung NLKT của mình hiện nay cũng như dự báo nhu cầu NLKT để phát triển sản
xuất/kinh doanh trong khoảng 3-5 năm tới, tập trung mô tả nhu cầu về chất lượng,
số lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo và thời điểm cần từng loại NLKT.
b) Lập kế hoạch và thiết kế các khoá đào tạo:
- Đối với trường: Dựa vào nhu cầu NLKT đã được xác định, trường đề xuất
01 bản kế hoạch tổng thể về các khóa đào tạo trong năm học. Kế hoạch bao gồm
dự kiến số lượng và đối tượng tuyển sinh, phân bố nguồn lực cho các khóa đào tạo.
292
- Tiếp theo là cần thiết kế các khóa đào tạo bao gồm các công việc như: Thiết
kế mục tiêu, nội dung của CTĐT, thiết kế công cụ đánh giá cho từng khóa đào tạo.
Mục tiêu còn được gọi là chuẩn đầu ra của CTĐT, đó là những năng lực mà
người học cần phải đạt được sau khi học xong khoá đào tạo. Chuẩn này phải được
xuất phát từ chuẩn nghề nghiệp của các vị trí lao động mà DN đang sử dụng để sau
khi tốt nghiệp người học có thể hoàn thành được các công việc của nghề. Dưới tác
động của khoa học công nghệ (KHCN) và phát triển của sản xuất, chuẩn này luôn
thay đổi, do vậy, nhà trường không thể tự xác định được chuẩn này một cách chính
xác nếu không có sự phối hợp của DN vì không ai hiểu năng lực nghề nghiệp mà
người lao động cần có hơn là các nhà quản lý DN. Từ chuẩn đầu ra, trường và DN
lựa chọn nội dung để thiết kế CTĐT phù hợp.
Sau khi đã có dự thảo kế hoạch và bản thiết kế các khóa đào tạo, để đáp ứng
nhu cầu NLKT của DN, trường cần gửi bản dự thảo để lấy ý kiến và trao đổi về
mức độ tham gia của DN đối với từng khóa đào tạo.
- Đối với DN: Tham gia góp ý các nội dung trong dự thảo kế hoạch và bản
thiết kế các khóa đào tạo, dự kiến mức độ tham gia của DN đối với từng khóa đào
tạo để trao đổi thống nhất với trường. Muốn có nhân lực theo nhu cầu của mình
thì DN phải đưa ra chuẩn năng lực của các loại lao động mà mình đang cần để làm
cơ sở cho việc xác định chuẩn đầu ra của CTĐT (chúng ta có thể hình dung khi đi
đóng một đôi giày mà người sử dụng không cho biết số đo thì không dùng được là
điều khó tránh khỏi).
c) Tổ chức triển khai các khoá đào tạo:
- Đối với trường: Chủ động triển khai các khoá đào tạo theo kế hoạch bao
gồm các công việc sau: Hướng nghiệp và tư vấn chọn nghề cho học sinh phổ
thông, tuyển sinh cho các khóa đào tạo; Chia lớp và ngành nghề cho HSSV trúng
tuyển phù hợp với năng lực đầu vào và sở thích của HSSV; Thực hiện quá trình dạy
học cho các khóa học; Tổ chức thi tốt nghiệp, đánh giá và cấp văn bằng cho HSSV
tốt nghiệp; Tư vấn và giới thiệu việc làm cho HSSV tốt nghiệp; Tổ chức các hoạt
động đảm bảo chất lượng nội bộ.
Trường cần lưu tâm đến Hướng nghiệp và tư vấn chọn nghề cho học sinh
phổ thông cũng như HSSV trúng tuyển, vì đây là hoạt động giúp cho khoá đào tạo
dễ đạt mục tiêu kế hoạch đề ra, giúp HSPT tự lựa chọn ngành học và giúp HSSV
mới trúng tuyển có tâm thế học tập tốt, giúp cho trường và DN thêm thông tin về
người học để điều chỉnh các hoạt động đào tạo phù hợp với đối tượng đào tạo. Tư
vấn chọn nghề còn giúp HSSV có thể chuyển đổi ngành học kịp thời, giảm lãng
phí, nhất là lãng phí về thời gian cho bản thân, gia đình và xã hội.
- Đối với DN: Cử chuyên gia kỹ thuật hoặc công nhân lành nghề (nhất là cựu
HSSV) tham gia vào các khóa đào tạo theo khả năng của mình và theo thỏa thuận
293
- với trường. DN bố trí nguồn lực phối hợp với trường triển khai các khóa đào tạo.
GDNN là một lĩnh vực đầu tư rất tốn kém, cần nhiều trang thiết bị và có
những thiết bị đặc thù đắt tiền đặc biệt là đối với các ngành như công nghiệp nặng,
y tế, hàng không. Nhưng dù là ở các nước phát triển thì trang thiết bị của nhà
trường thường bị lạc hậu so với sản xuất, bởi vì trong nền KTTT với sự phát triển
như vũ bão của KHCN, sản xuất phải thay đổi công nghệ và phát triển rất nhanh
chóng để đủ sức cạnh tranh trong khi trường thì không đủ nguồn lực về kinh tế
do đó ít nhiều vẫn mang tính “ổn định”, mà trường không thể có được, và thay đổi
trễ hơn về trang thiết bị. Mặc dù vẫn có một số trường cao đẳng, đại học trên thế
giới có thể nghiên cứu công nghệ mới hơn nhiều so với DN nhưng vẫn phải dựa
và nguồn lực tài chính của DN.
Mặt khác, với sự phát triển nhanh chóng của KHCN trong sản xuất, GV các
trường cao đẳng thường bị lạc hậu so với các công nghệ mới được ứng dụng trong
DN, ở Việt Nam thì điều này khá phổ biến. Do vậy, để đào tạo được những LĐKT
có chất lượng cao cho mình, DN cần tham gia vào quá trình đào tạo, đặc biệt là dạy
học thực hành để phát triển kỹ năng nghề nghiệp và hình thành thái độ làm việc
trong môi trường thực cho HS - SV.
d) Đánh giá kết quả các khoá đào tạo:
- Đối với trường: Trường cần chủ động tổ chức đánh giá kết quả các khoá đào
tạo trên các mặt chất lượng, hiệu quả trong, hiệu quả ngoài và việc tổ chức từng
khóa đào tạo cũng như kết quả về sự phối hợp giữa trường và DN. Ngoài ra, cần
tổ chức đánh giá việc thi tốt nghiệp và cấp văn bằng, chứng chỉ cho HSSV sau tốt
nghiệp để rút kinh nghiệm và điều chỉnh khoá đào tạo tiếp theo.
- Đối với DN: Để đảm bảo được chất lượng đội ngũ nhân lực của mình, DN
cần tham gia đánh giá năng lực thực hiện của HSSV sau tốt nghiệp các khóa đào
tạo, bởi lẽ DN hiểu rõ hơn ai hết họ đang cần nhân lực có những năng lực gì?
3.2. Các lợi ích từ mối quan hệ giữa trường và DN trong phát triển CTĐT
a) Với nhà trường:
- Có hỗ trợ của DN trong phát triển CTĐT nên CTĐT có chuẩn đầu ra đáp
ứng được nhu cầu của DN từ đó nâng cao được chất lượng đào tạo của trường.
- Có thêm được nguồn lực, đặc biệt là nhân lực có kỹ năng nghề cao và
TBDH hiện đại, đắt tiền mà trường không có được để nâng cao chất lượng đào tạo.
- CBQL và Giáo viên học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của DN, tiếp cận được
với công nghệ và thiết bị hiện đại để nâng cao năng lực của mình.
- Nâng cao được tỉ lệ HSSV tốt nghiệp tìm được việc làm, góp phần nâng cao
294
- hiệu quả đào tạo và khẳng định thương hiệu của trường, từ đó thu hút sự quan tâm
của Nhà nước, DN và tăng sự hấp dẫn với HSSV đầu vào.
b) Với doanh nghiệp:
- Có cơ hội để tuyển chọn được những HSSV giỏi, gắn bó với công việc, có
năng lực thực tế phù hợp với yêu cầu của DN, nâng cao năng suất lao động.
- Tiết kiệm chi phí tuyển dụng, chi phí đào tạo lại.
- Có một lực lượng lao động phụ để thực hiện những nhiệm vụ sản xuất phù
hợp nhu cầu thực tập của học sinh tại DN, góp phần giảm chi phí trong sản xuất.
- Gia tăng thương hiệu thông qua sự đóng góp cho giáo dục - đào tạo.
c) Với học sinh, sinh viên:
- Xác định đúng nghề học và chuyển nghề kịp thời nếu không phù hợp.
- Đạt được sự thành thạo nhanh nhất. Được học với những kỹ sư, công nhân
có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong sản xuất, với những phương tiện, thiết bị
sản xuất hiện đại để có thể nhanh chóng hình thành được những kỹ năng cần thiết
phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Điều này cũng đã được khẳng định tại nghiên
cứu của Linda Low (2000) [8], trong tác phẩm Giáo dục đào tạo kỹ năng và phát
triển quốc gia, kinh nghiệm và những bài học từ Singapore, thì người lao động nói
chung, HSSV nói riêng học hỏi được 10% từ lớp học, 20% từ đồng nghiệp và 70%
từ những người hướng dẫn chuyên môn từ nơi làm việc thực sự.
- Có nhiều cơ hội để tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp.
- Có điều kiện để tiếp cận được với môi trường sản xuất thật, với nhịp độ
khẩn trương của sản xuất công nghiệp với mục tiêu phấn đấu không ngừng nâng
cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, những điều mà ở nhà trường
không thể có được. Nhờ vậy, sớm hình thành được tác phong lao động công nghiệp
cũng như đạo đức nghề nghiệp.
Với những lợi ích nên trên, mối quan hệ này ở nhiều nước đã được quy định
thành các điều khoản cụ thể trong luật giáo dục cũng như luật doanh nghiệp. Ở
nước ta, Nhà nước cũng đã có chủ trương tăng cường mối quan hệ giữa trường và
DN trong đào tạo nhân lực.
3.3. Các mức độ phối hợp giữa trường và DN để phát triển CTĐT
Tùy theo nhu cầu và khả năng của trường và DN, mối quan hệ có thể chia
thành 2 mức độ sau: phối hợp toàn phần, phối hợp một phần.
a) Phối hợp toàn phần:
295
- Phối hợp toàn phần bao gồm tất cả các hoạt động của quá trình phát triển
CTĐT, bắt đầu từ việc xác định NCĐT, thiết kế các khóa đào tạo, triển khai các
khóa đào tạo cho đến đánh giá kết quả các khóa đào tạo.
b) Phối hợp một phần:
Phối hợp một phần là việc thực hiện một hoặc một số khâu trong toàn bộ
quá trình phát triển CTĐT đã nêu ở trên tùy thuộc và khả năng và nhu cầu của đôi
bên. Tùy thuộc nhu cầu và khả năng của trường và của DN để các bên thiết lập một
số hoạt động để quản lý quá trình phát triển CTĐT với nhiều mức độ khác nhau.
Mặt khác cũng phải lưu ý là cần có những cơ chế và chính sách phù hợp từ Nhà
nước, nhà trường và DN để phát triển bền vững mối quan hệ này.
Như vậy, nếu nhận diện đầy đủ điểm mạnh, điểm yếu của mối quan hệ DN
với GDNN và tuân theo những nguyên tắc, nội dung và lợi ích của mối quan hệ thì
sẽ khuyến khích DN tham gia vào đào tạo, giúp các trường cao đẳng chủ động tiếp
xúc nhiều hơn với các DN khác cùng ngành nghề nhằm hỗ trợ toàn bộ hoặc một
số khâu trong chu trình đào tạo. Trường và DN không chỉ dùng lại ở phát triển nội
dung CTĐT (curriculum) như lâu nay, mà còn phải cùng nhau quản lý phát triển
CTĐT (programme) là các khoá đào tạo, bao gồm tổng thể tất cả các hoạt động
phối hợp từ khâu xác định NCĐT, lập kế hoạch và thiết kế các khoá đào tạo cho đến
tổ chức triển khai và đánh giá kết quả các khoá đào tạo.
Có thể nói, tiếp cận quan hệ trường và DN là cách thức phù hợp để GDNN
trân trọng sự đóng góp của nhiều DN, nâng cao vị thế của DN, từ đó khuyến khích
DN cùng tham gia quản lý phát triển CTĐT tại các cơ sở GDNN nói riêng và cơ
sở đào tạo nói chung./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh. (1949). Toàn tập, Sđd, t.8, tr 137-138), NXB Sự thật, Hà Nội.
2. Quốc hội. (2019). Luật Giáo dục.
3. Thủ tướng Chính phủ. (2012). Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020.
4. Viện Năng suất quốc gia- Vietnam Productivity Center. (2012). Báo cáo Năng suất Việt
Nam 2012.
5. Viện Năng suất quốc gia-Vietnam National Productivity Institute-VNPI. (2015). Báo cáo
Năng suất Việt Nam 2015.
6. Viện Khoa học GDNN. (2017). Báo cáo GDNN Việt Nam 2017.
7. VCCI (Việt Nam) và USAID (Mỹ). (2018). Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh
8. Wok Alvin. (2017). A Model of Strategic HRM of Singapore -Chiến lược phát triển nguồn
nhân lực của Singapore, Trình bày tiếng Anh tại Đồng Nai, tháng 6 năm 2017.
296
nguon tai.lieu . vn