Xem mẫu

  1. HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI CHO THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ ThS. Phùng Bích Ngọc Trường Đại học Thương mại Tóm tắt: Bài viết tập trung làm rõ sự cần thiết phải nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài. Cụ thể, bài viết đã chỉ rõ bản chất của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài có sự khác biệt so với hoạt động đại lý thương mại nói chung. Đồng thời, phân tích các quy định chủ yếu liên quan tới xác lập hợp đồng này trên thực tế như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chấm dứt, trách nhiệm của các bên và quản lý của Nhà nước đã đảm bảo quyền lợi cho thương nhân nước ngoài hay chưa để từ đó đưa ra một số kiến nghị phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế. Từ khóa: Đại lý thương mại, hợp đồng đại lý thương mại, thương nhân nước ngoài. LAW ON COMMERCIAL AGRENCY CONTRACT FOR FOREIGN TRADERS IN INTERNATIONAL INTERGRATION Abstract: The article focuses on clarifying the need to study the provisions of Vietnamese law governing commercial agency contracts for foreign traders. Specifically, the article has pointed out that the nature of commercial agency contracts for foreign traders is different from commercial agency activities in general. At the same time, analyze the main provisions related to the establishment of this contract in practice such as the subject, form, rights and obligations of the parties, termination, responsibilities of the parties and management of the State. Whether or not the interests of foreign traders have been ensured, thereby making some recommendations suitable to the context of international integration. Keywords: Commercial agent, commercial agency contract, foreign trader. 1. Đặt vấn đề (Introduction): Những năm vừa qua, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư10. Trong điều kiện mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng mở kênh phân phối tại Việt Nam ngày càng nhiều và mua bán hàng hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông qua hình thức đại lý thương mại được rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn. Dịch vụ đại lý giúp các nhà đầu tư nước ngoài hình thành mạng lưới buôn bán, tiêu thụ, cung ứng dịch vụ trên 10 Theo các “Báo cáo của các Bộ/ngành của Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế”, Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, 2018. 224
  2. phạm vi rộng, tạo điều kiện chiếm lĩnh, mở rộng thị trường mà không cần có sự hiện diện thương mại tại Việt Nam. Trên thế giới, pháp luật về đại lý thương mại hình thành từ rất sớm và lần đầu xuất hiện trong Bộ luật thương mại 1897 của Đức và Bộ luật thương mại 1899 của Nhật Bản11. Ở Việt Nam, khái niệm đại lý thương mại được pháp luật ghi nhận kể từ thời điểm Luật Thương mại 1997 ra đời và có hiệu thi hành ngày 1/1/1998. Tuy nhiên, phạm vi hoạt động của đại lý thương mại trong Luật này chỉ giới hạn ở hàng hóa, do đó, nhiều dịch vụ đại lý như đại lý bảo hiểm, đại lý chứng khoán, đại lý lữ hành,… không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Ngày 14/06/2005, Quốc hội khóa XI thông qua Luật Thương mại 2005 với nhiều sửa đổi, bổ sung và là nguồn luật trực tiếp điều chỉnh trực tiếp hoạt động đại lý thương mại cho đến nay. Sau gần 16 năm thi hành, Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật liên quan đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là trong bối cảnh thương mại toàn cầu. Đặc biệt, hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài là hoạt động thương mại quốc tế nên việc áp dụng pháp luật trong thực hiện hoạt động này gặp rất nhiều khó khăn, khúc mắc, tiềm ẩn tính rủi ro. Do vậy, bài viết tập trung làm rõ các quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài, từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định liên quan tới vấn đề này. Bài viết tập trung vào ba nội dung: (1) Khái quát về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài; (2) Những quy định liên quan đến hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài; (3) Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài. 2. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu (Literature review, Theoretical framework and Methods): Kể từ khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thi hành đến nay, các công trình nghiên cứu về hợp đồng đại lý thương mại có số lượng lớn, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như Luận văn, Luận án, các đề tài nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, sách tham khảo, bài viết tạp chí. Có thể liệt kê một số tài liệu tiêu biểu sau: Nhóm công trình nghiên cứu nước ngoài: Đại lý thương mại cũng được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu như Báo cáo: International Commercial Agency and Distribution Agreements của Cristelle Albaric, Marianne Dickstein năm 2011; Báo cáo nghiên cứu: Engaging commercial Agents do Enterprise Europe Network London thực hiện tháng 06/2010; Bài báo nghiên cứu: Commercial Agents: compensation rights do Barry Lee thực hiện năm 2010; Báo cáo: Commercial Agency and Distribution Agreements: Law and Practice of the Member States of the European Union (AIJA Series) do Ulrich Cohmann thực hiện năm 2000. Nhóm công trình nghiên cứu trong nước: Thứ nhất, sách tham khảo “Cẩm nang hợp đồng thương mại” của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI (2007); “Những nguyên tắc hợp đồng thương mại Nguyễn Mai Chi, Luận văn “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà 11 Nội, 2012. 225
  3. quốc tế” của Viện thống nhất Tư pháp quốc tế Italia do Lê Nết dịch năm 1999; “Pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế” của nhóm tác giả PGS.TS Nguyễn Như Phát, TS.Phan Thảo Nguyên (2006); “Bước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Mỹ” của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2002), NXB Khoa học xã hội; Sách chuyên khảo “Bộ luật Thương mại và những ngoại lệ đặc biệt về kiểm soát của Nhật Bản” của NXB.Chính trị quốc gia (1994). Thứ hai, luận văn Thạc sĩ “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý”, Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Nguyễn Mai Chi (2011); Luận văn Thạc sĩ “Đại lý thương mại theo Luật Thương mại 2005”, Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Ngô Thị Minh Hải (2011); Luận văn Thạc sĩ “Hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam”, Viện Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam của tác giả Vũ Hồng Nam (2017); Luận án Tiến sỹ “Pháp luật điều chỉnh các hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh (2007). Thứ ba, “Báo cáo hỗ trợ Bộ Công thương xây dựng Nghị định về Đại lý thương mại trong lĩnh vực phân phối” của EU -Việt Nam MUTRAP III Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên Giai đoạn III tiến hành từ 8/2008 đến 6/2012; Các bài viết của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh “Khái niệm, bản chất pháp lý của hoạt động trung gian thương mại” số 1/2006, “Một số ý kiến về đại lý thương mại” số 5/2006, “Vấn đề pháp lý về quan hệ hợp đồng phát sinh trong hoạt động trung gian thương mại” số 11/2008 trên Tạp chí Luật học; Bài báo “Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đại lý thương mại” trên Tạp chí Công thương của tác giả Kim Liên (03/08/2011); Bài báo “Quản lý hoạt động đại lý thương mại: “Áo đã quá chật” trên Báo Diễn đàn doanh nghiệp của tác giả Mai Thanh (09/08/2011). Có thể thấy hầu hết các nghiên cứu đã đề cập tới những khía cạnh của hợp đồng đại lý thương mại, cụ thể làm rõ khái niệm, bản chất, phân tích các quy phạm pháp luật và thực trạng áp dụng hợp đồng đại lý thương mại tại Việt Nam kể từ khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thi hành. Song, không có nhiều công trình nghiên cứu về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài. Trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của Công ước Viên 1980, đồng thời cũng tích cực ký kết các điều ước quốc tế như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), các nhà đầu tư nước ngoài mở kênh phân phối tại Việt Nam thông qua hình thức đại lý ngày càng nhiều. Vì vậy, pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài cần được nghiên cứu nhiều hơn, sâu sắc và toàn diện hơn để đưa ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện đáp ứng nhu cầu hiện nay. Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau nhằm làm rõ các nội dung nghiên cứu như: phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp từ các tài liệu như luận văn, luận án, các công trình chuyên khảo, các bài báo cáo nghiên cứu; phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích; phương pháp so sánh; phương pháp chứng minh; phương pháp quy nạp;… 226
  4. 3. Kết quả và thảo luận (Results and discussion): 3.1. Khái quát về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài 3.1.1. Khái niệm hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài Đại lý thương mại là kết quả của quá trình phân công lao động và trao đổi hàng hóa từ lâu trong lịch sử. Ban đầu việc mua bán được tiến hành trực tiếp giữa người mua và người bán, dần dần, khi quy mô kinh doanh được mở rộng trong điều kiện địa lý xa và thời gian có hạn khiến thương nhân nhận ra cần có sự hỗ trợ của bên trung gian. Dưới phương diện kinh tế, đại lý là một cách thức kinh doanh hay một phương thức giao dịch mà trong đó, mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán hàng hóa (người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ), việc xác định các điều kiện giao dịch phải thông qua một người trung gian.12 Dưới góc độ pháp lý, đại lý là một hình thức của dịch vụ trung gian thương mại. Ở Việt Nam, trung gian thương mại được hiểu “là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại.”13 Như vậy, với đặc thù là loại hình trung gian thương mại, khái niệm “đại lý thương mại” được định nghĩa tại Điều 166 Luật Thương mại 2005 “là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.” Điều 166 Luật Thương mại 2005 quy định bản chất của đại lý thương mại là việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý để được hưởng thù lao. Tuy nhiên, tại một số văn bản luật chuyên ngành, bản chất của đại lý không đồng nhất với khái niệm trong Luật Thương mại 2005. Chẳng hạn, người đại lý tàu biển nhân danh chủ tàu hoặc người khai thác tàu tiến hành các dịch vụ liên quan đến tàu biển hoạt động tại cảng14 hay đại lý bảo hiểm được hiểu là tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm15. Như vậy, trong hai trường hợp trên, bên đại lý không nhân danh chính mình mà nhân danh bên giao đại lý thực hiện hợp đồng với bên thứ ba. Những quy định trong luật chuyên ngành mâu thuẫn với Luật Thương mại 2005 gây khó khăn, vướng mắc cho quá trình thực thi. Trong khi đó, pháp luật một số nước chỉ khái quát tất cả các hiện tượng trung gian thương mại dưới khái niệm “agency” (Anh - Mỹ) hoặc “Agent commercial” (Pháp)16 cùng chỉ những người thực hiện một hoặc một số hành vi trên danh nghĩa của bên ủy quyền hay danh nghĩa chính mình theo yêu cầu của bên ủy quyền. So với pháp luật Việt Nam, cách hiểu của pháp luật nước ngoài có tính thống nhất, bao quát về bản chất của đại lý thương mại hơn. Điểm khác biệt giữa hợp đồng đại lý trong nước và hợp đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài nằm ở khía cạnh chủ thể. Cả bên giao đại lý và bên đại lý trong quan hệ 12 Trường Đại học Thương mại, “Giáo trình kỹ thuật thương mại quốc tế”, NXB. Thống kê, 2003, tr.17. 13 Khoản 11 Điều 3 Luật Thương mại 2005. 14 Điều 158 Bộ luật Hàng hải 2017. 15 Điều 84 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2019. 16 Giáo trình Luật Thương mại Tập 2, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội 2010, tr.77. 227
  5. hợp đồng đại lý trong nước đều là thương nhân Việt Nam, còn hợp đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài được giao kết giữa bên đại lý là thương nhân Việt Nam và bên giao đại lý là thương nhân nước ngoài. Về vấn đề thương nhân nước ngoài, nhìn chung, pháp luật các nước trên thế giới có những cách tiếp cận khác nhau. Theo pháp luật Nhật Bản, một công ty nước ngoài đặt trụ sở của mình tại Nhật Bản hoặc có mục đích chính và thực hiện công việc kinh doanh tại Nhật Bản, dù được thành lập ở nước ngoài, vẫn phải tuân theo các quy định như một công ty được thành lập tại Nhật Bản17. Bộ luật các quy tắc của Liên bang Hoa Kỳ xác định thương nhân nước ngoài là bất kỳ thương nhân nào cư trú hoặc sinh sống bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ18. Pháp luật Việt Nam cũng có quan niệm tương tự với pháp luật Hoa Kỳ: “Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận”19. Mặc dù, pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm cụ thể, tuy nhiên, trên cơ sở các phân tích hoạt động đại lý thương mại và thương nhân nước ngoài, có thể định nghĩa hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài là sự thỏa thuận giữa bên giao đại lý và bên đại lý về việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao, trong quan hệ hợp đồng này, bên giao đại lý là thương nhân nước ngoài. 3.1.2. Nhận diện hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài Mục này tập trung chỉ rõ những điểm khác biệt trong xác lập hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài thông qua bản chất của hợp đồng, chủ thể, hình thức, nội dung và nguồn luật áp dụng. Thứ nhất, bản chất của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài là hợp đồng dịch vụ. Điều 513 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”. Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội, cụ thể, trong trường hợp này là việc mua bán hàng hóa hoặc công việc cung ứng dịch vụ của bên đại lý cho bên giao đại lý. Thứ hai, về chủ thể, như đã đề cập, các bên tham gia quan hệ hợp đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài đều phải là thương nhân20, trong đó, bên giao đại lý là thương nhân nước ngoài. Thương nhân nước ngoài chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước nơi thương nhân đăng ký thành lập, hoạt động và chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước khác nếu thương nhân muốn tiến hành hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ nước này. Thứ ba, hợp đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương21. Các hình thức có giá trị pháp lý tương đương văn bản bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định pháp luật. 17 Điều 482 Bộ luật Thương mại và Luật những ngoại lệ đặc biệt về kiểm soát của Nhật Bản (1994). 18 Title 17 Commodity and Security Exchanges of Code of Federal Regulations 19 Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại 2005 20 Điều 167 Luật Thương mại 2005 21 Điều 168 Luật Thương mại 2005 228
  6. Thứ tư, theo quy định của pháp luật Việt Nam, nội dung của hợp đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài bao gồm các điều khoản sau: hàng hóa hoặc dịch vụ đại lý; hình thức đại lý; thù lao đại lý; thời hạn của hợp đồng đại lý; quyền và nghĩa vụ các bên. Ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận và ghi vào văn bản hợp đồng các nội dung khác như biện pháp bảo đảm hợp đồng, chế độ bảo hành đối với hàng hóa đại lý, nghĩa vụ thanh toán các chi phí liên quan đến hoạt động đại lý, hỗ trợ kỹ thuật, cơ sở vật chất cho đại lý tổ chức quảng cáo và tiếp thị, thưởng phạt vật chất, bồi thường thiệt hại,…Để thực hiện hợp đồng đại lý, bên đại lý được quyền tự do lựa chọn bên thứ ba để giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch vụ theo những quy định đã thỏa thuận trong hợp đồng. Khi giao kết hợp đồng với bên thứ ba, bên đại lý nhân danh chính mình và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng với bên thứ ba ràng buộc bên đại lý với bên thứ ba. Thứ năm, nguồn luật áp dụng cho hợp đồng. Đối với hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài sẽ cần lưu ý tới luật áp dụng cho hợp đồng. Mặc dù, quy định của pháp luật Việt Nam cho phép các bên được tự do ý chí lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Các bên có thể lựa chọn nguồn luật quốc gia hoặc tập quán thương mại quốc tế để giải quyết xung đột quyền và lợi ích của các bên khi có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, quyền tự do ý chí này cũng cần được xem xét trong mối quan hệ với cộng đồng, với xã hội. Do vậy, pháp luật của các quốc gia thường bổ sung quy định giới hạn quyền tự do ý chí nhằm đảm bảo hài hoà với lợi ích của cộng đồng. Vì thế, các bên được toàn quyền thoả thuận lựa chọn nguồn luật áp dụng nếu sự lựa chọn đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. 3.2. Những quy định liên quan đến hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài Hiện nay, nội dung các quy định liên quan tới hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài được quy định tản mác ở các văn bản luật khác nhau. Điều này dẫn tới sự khó tiếp cận từ phía các thương nhân nước ngoài. Mặt khác, quy định về hoạt động đại lý thương mại được đề cập cụ thể trong Luật thương mại 2005, tuy nhiên, những quy định này chưa bao quát được hợp đồng đại lý thương mại giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài. Dẫn đến một số khó khăn trong quá trình xác lập hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài ở Việt Nam. Mục này sẽ tập trung làm rõ những quy định bắt buộc của pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh các vấn đề pháp lý của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài. Cụ thể, quy định chung về hợp đồng đại lý thương mại (chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chấm dứt hợp đồng, trách nhiệm của các bên) và sự quản lý của Nhà nước đối với hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài. 3.2.1 Quy định chung về hợp đồng đại lý thương mại (i) Quy định về chủ thể tham gia hợp đồng Đại lý thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa bên đại lý và bên giao đại lý. Trong đó, bên giao đại lý giao hàng hóa cho đại lý bán, giao tiền hàng cho đại lý mua hoặc ủy quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ. Bên đại lý nhận hàng hóa để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc nhận ủy 229
  7. quyền cung ứng dịch vụ. Có thể thấy, điều kiện về chủ thể của hợp đồng đại lý thương mại khắt khe hơn so với hợp đồng mua bán hàng hóa, đều bắt buộc các bên phải là thương nhân. Về thương nhân nước ngoài, quy định của Luật Thương mại 2005 tiệm cận với pháp luật của nhiều nước trên thế giới, từ đó mở rộng chủ thể tham gia quan hệ đại lý thương mại. Theo pháp luật Việt Nam, thương nhân nước ngoài có thể giao cho thương nhân Việt Nam làm đại lý mua bán hàng hóa, trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu quy định tại Phụ lục I Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý ngoại thương năm 2017 và hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu tại Phụ lục VI Nghị định Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý ngoại thương năm 2017. Đối với hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng đại lý sau khi được cơ quan có thẩm quyền cấp phép. Do vậy, thương nhân nước ngoài khi ký kết hợp đồng đại lý thương mại với thương nhân Việt Nam cần xem xét đối tượng của hợp đồng có thuộc phạm vi được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu hay không. Mặt khác, Luật Thương mại 2005 cũng không đề cập tới việc bên giao đại lý và bên đại lý có cần ngành nghề kinh doanh phù hợp với hàng hóa đại lý hay không. Đây là quy định tiến bộ nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. (ii) Quy định về hình thức của hợp đồng Quan hệ đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài được xác lập trên cơ sở hợp đồng, Điều 168 Luật Thương mại quy định rõ: “Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”. Mọi thỏa thuận miệng hoặc thông qua hành vi thực tế đều không có giá trị pháp lý. Do vậy, thương nhân nước ngoài khi tham gia giao kết hợp đồng đại lý thương mại tại Việt Nam cần tuân thủ quy định về hình thức phải được xác lập dưới dạng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Tuy nhiên, quy định này tương đối khắt khe so với pháp luật thương mại một số nước, quan hệ đại lý có thể xác lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác. Như Điều 1.2 Những nguyên tắc của hợp đồng thương mại quốc tế (UNIDROIT) quy định: “Không một chi tiết nào của PICC yêu cầu một hợp đồng phải được ký kết bằng văn bản hoặc phải được chứng minh có sự thỏa thuận bằng văn bản. Sự tồn tại của hợp đồng có thể được chứng minh bằng bất kỳ hình thức nào, kể cả bằng nhân chứng”. Tuy nhiên, trong mối quan hệ hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài, thời gian hợp tác lâu dài, quyền sở hữu và chuyển rủi ro có tính chất phức tạp, dễ nảy sinh tranh chấp, vì vậy, hợp đồng giữa các bên nên được lập thành văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị tương đương sẽ làm giảm thiểu tính rủi ro. (iii) Quy định về quyền sở hữu hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ, hậu mãi các bên Mặc dù, quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng đại lý thương mại dựa trên sự thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, Luật Thương mại 2005 đã xây dựng các quy định về quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý và bên đại lý trong trường hợp các bên không thoả thuận hoặc thoả thuận không rõ ràng. Trong số các quyền và nghĩa vụ của các bên thì quyền sở hữu hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ và hậu mãi luôn là vấn đề mà thương nhân Việt Nam quan tâm khi xác lập hợp đồng đại lý với thương nhân nước ngoài. 230
  8. Nhưng hiện nay những vấn đề này được quy định của Luật Thương mại 2005 chưa đảm bảo toàn vẹn quyền lợi cho các bên. Về sở hữu đối với hàng hóa, Điều 170 Luật Thương mại 2005 quy định, bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hóa dù hàng hóa đã chuyển giao cho bên đại lý để bán cho khách hàng. Nghĩa rằng, hàng hoá nằm trong tay của thương nhân Việt Nam nhưng quyền sở hữu vẫn thuộc về thương nhân nước ngoài. Trên thực tế, trong trường hợp xác lập hợp đồng đại lý với thương nhân nước ngoài, các thương nhân Việt Nam thường ký kết hợp đồng đại lý dưới hai dạng: hợp đồng đại lý “mua đứt bán đoạn” (tức là bên giao đại lý bán lại hàng hóa của mình cho bên đại lý, bên đại lý tiếp tục bán cho khách hàng với giá ấn định) và hợp đồng đại lý ký gửi. Bởi tính chất khoảng cách địa lý cùng những vấn đề phát sinh liên quan như vận chuyển, thanh toán rồi bồi hoàn,…..gây ra không ít khó khăn cho thương nhân Việt Nam khi hàng hoá không thuộc quyền quyết định của mình. Tuy nhiên, hợp đồng đại lý “mua đứt bán đoạn” có bản chất của hợp đồng phân phối. Nghĩa rằng, hợp đồng này có dấu hiệu của quan hệ đại lý, nhưng trong đó quyền sở hữu hàng hoá lại được mua đứt bán đoạn giữa các bên. Luật thương mại năm 2005 không quy định về hoạt động phân phối, nhưng trên thực tiễn kinh doanh của thương nhân thì xuất hiện loại hợp đồng này. Trong loại hợp đồng này, nhà phân phối hoạt động độc lập, mua hàng hóa từ nhà sản xuất và nhân danh chính mình bán lại hàng hóa đó trong phạm vi hợp đồng dài hạn được ký kết giữa nhà phân phối và nhà sản xuất. Nhà phân phối trong trường hợp này là chủ sở hữu của hàng hóa, chịu trách nhiệm về mọi rủi ro đối với hàng hóa đó. Việc phân định giữa hợp đồng đại lý và hợp đồng phân phối phụ thuộc vào các điều khoản cụ thể mà các bên thỏa thuận có tính quyết định bản chất của hai loại hợp đồng này. Trong hợp đồng phân phối chứa đựng các điều khoản xác lập quyền và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, cơ bản phản ánh tính độc lập về mặt pháp lý của các bên, sự độc lập này vẫn tồn tại ngay cả trong trường hợp các bên có những thỏa thuận mà theo đó nhà phân phối có nghĩa vụ tuân thủ một số chỉ dẫn nhất định của nhà sản xuất liên quan tới phương thức hoạt động nhưng không ảnh hưởng đến quyền định đoạt hàng hóa của nhà phân phối. Có lẽ chính những thỏa thuận này làm cho các bên nhầm lẫn giữa hợp đồng phân phối hàng hóa với hợp đồng đại lý trong quá trình giao kết hợp đồng22. Về các dịch vụ hỗ trợ và hậu mãi, khi bán hàng hóa cho người tiêu dùng, bên đại lý có thể được yêu cầu cung cấp các dịch vụ hỗ trợ (tư vấn, lắp ráp, chạy thử,…) và các dịch vụ hậu mãi (bảo hành, bảo dưỡng,…). Song quyền và nghĩa vụ các bên liên quan đến những dịch vụ trên không được pháp luật quy định cụ thể. Đặc biệt với các hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài, các bên có thể gặp khó khăn, lúng túng trong quá trình thực hiện hợp đồng và dễ nảy sinh tranh chấp. (iv) Quy định về chấm dứt hợp đồng Thứ nhất, theo quy định tại Luật Thương mại 2005 thì các bên trong quan hệ đại lý thương mại có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý và chỉ cần thông báo bằng văn bản cho bên kia trong một thời hạn quy định. Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các bên. Quy định trên của luật đã làm mất đi tính 22 http://bnclawfirm.com.vn/thuc-trang-ap-dung-phap-luat-giai-quyet-tranh-chap-ve-hoat-dong-dai-ly- thuong-mai/ cập nhật ngày 7/12/2021 231
  9. ràng buộc thực hiện hợp đồng, đồng thời cũng khiến bên còn lại bị ảnh hưởng về quyền và lợi ích. Thứ hai, về thời hạn thông báo việc chấm dứt hợp đồng đại lý, pháp luật Việt Nam quy định, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, hợp đồng đại lý chỉ chấm dứt sau một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn 60 ngày. Tuy nhiên, thời hạn của mỗi hợp đồng đại lý khác nhau, tính rủi ro và thời gian để bên còn lại chuẩn bị khắc phục thiệt hại khi bên kia đơn phương chấm dứt hợp đồng cũng khác nhau. Vì vậy, việc quy định thời hạn thông báo chung cho mọi trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý chưa thật sự phù hợp với thực tiễn thi hành. Thứ ba, về vấn đề bồi thường, Khoản 2-3 Luật Thương mại 2005 chỉ quy định quyền yêu cầu bồi thường đối với bên đại lý khi bên giao đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng, nếu bên đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng thì bên giao đại lý không được yêu cầu bồi thường. Thực tiễn cho thấy, khi bên đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng, bên giao đại lý cũng có thể bị tổn thất về chi phí bảo quản hàng hóa, bị tiết lộ bí mật kinh doanh,…Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam quy định giá trị khoản bồi thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm cho bên giao đại lý, nếu thời gian đại lý dưới 01 năm thì khoản bồi thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý. Cách xác định này mang tính chủ quan, không phù hợp với nguyên tắc bồi thường thiệt hại. Theo Điều 360 và Điều 419 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, người có quyền có thể yêu cầu bồi thường toàn bộ thiệt hại và phần lợi ích lẽ ra mình được hưởng do hợp đồng mang lại. Do vậy, những quy định trên của pháp luật Việt Nam đã không đi theo xu hướng hiện nay. Đồng thời, những quy định này gây rào cản cho thương nhân nước ngoài muốn tham gia hoạt động đại lý thương mại tại Việt Nam. Do vậy, việc chấm dứt hợp đồng đại lý và bồi thường thiệt hại cần phải quy định theo hướng mềm dẻo hơn để có thể thích ứng mọi hoàn cảnh xác lập hợp đồng này trên thực tế. (v) Quy định về trách nhiệm của bên đại lý, bên giao đại lý với bên thứ ba Thông qua bên đại lý, khách hàng tiếp xúc với sản phẩm, dịch vụ mà bên giao đại lý cung cấp. Hợp đồng bên đại lý với bên thứ ba được ký kết sau khi hợp đồng đại lý hình thành, theo đó, bên thứ ba sẽ nhận quyền sở hữu đối với hàng hóa từ bên giao đại lý hoặc được cung cấp các dịnh vụ. Mặc dù quan hệ pháp lý được xác lập trên cơ sở hợp đồng tách biệt, song quyền và nghĩa vụ các bên có sự ràng buộc lẫn nhau. Điều 173 và Điều 175 Luật Thương mại 2005 quy định nghĩa vụ của bên giao đại lý “chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ”, “liên đới chịu trách nhiệm về hành vi phạm pháp luật của bên đại lý, nếu nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra” và bên đại lý “liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ trong trường hợp có lỗi do mình gây ra”. Như vậy, pháp luật Việt Nam mới chỉ quan tâm tới khía cạnh bồi thường thiệt hại khi chất lượng hàng hóa, chất lượng dịch vụ không đảm bảo mà chưa có quy định nào bảo vệ quyền lợi cho bên thứ ba khi có sự vi phạm, thay đổi, chấm dứt hợp đồng đại lý ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của bên thứ ba. 232
  10. 3.2.2. Quy định về quản lý Nhà nước với hoạt động đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài Bên cạnh việc tuân thủ các quy định giống như hợp đồng đại lý trong nước (đã được phân tích ở các mục trên) thì hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài có một phần sự quản lý của Nhà nước. Đó là, khi các thương nhân tiến hành vận chuyển và thanh toán mà không cần thực hiện thủ tục hải quan hay chuyển ngoại tệ ra nước ngoài thì hợp đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài phải tuân thủ các quy định Nhà nước về quản lý ngoại thương. Luật Quản lý ngoại thương 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành hướng tới việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các thương nhân Việt Nam và nước ngoài tiến hành hoạt động kinh doanh. Về cơ bản, các quy định về đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài trong Luật Quản lý ngoại thương giữ nguyên như Nghị định 187/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. Một số vấn đề cần lưu ý liên quan đến các quy định về đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài được đề cập tới trong Luật quản lý ngoại thương 2017 như sau: Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của Luật quản lý ngoại thương bao gồm các biện pháp quản lý, điều hành hoạt động ngoại thương có liên quan đến mua bán hàng hóa quốc tế, không điều chỉnh đối tượng dịch vụ. Trên thực tế, có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài mở kênh cung ứng dịch vụ tại Việt Nam, Nhà nước cần có những quy định cụ thể nhằm kiểm soát hoạt động đại lý cung ứng dịch vụ như nghĩa vụ tài chính, quản lý ngoại hối,… Thứ hai, Luật Quản lý ngoại thương 2017 bãi bỏ quy định tại Điều 29 Luật Thương mại 2005 về tạm nhập, tái xuất hàng hóa. Theo Luật mới, thương nhân được tạm nhập vào Việt Nam hàng hóa không thuộc danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; hàng hóa không thuộc diện tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu theo hợp đồng với nước ngoài để phục vụ mục đích bảo hành, bảo dưỡng, thuê, mượn hoặc để sử dụng vì mục đích khác trong một khoảng thời gian nhất định rồi tái xuất chính hàng hóa đó ra khỏi Việt Nam. Như vậy, thương nhân Việt Nam tạm nhập hàng hóa từ nước ngoài để thực hiện hoạt động đại lý, nếu không tiêu thụ hết trên thị trường nội địa sẽ được phép tái xuất. Trong quá trình hàng hóa ở Việt Nam phải thực hiện theo quy định về quản lý nhập khẩu hàng hóa của luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Thời hạn tạm nhập, tái xuất thực hiện theo thỏa thuận của thương nhân với bên đối tác và đăng ký với cơ quan hải quan nơi làm thủ tục tạm nhập. Thứ ba, Điều 48 Luật Quản lý ngoại thương 2017 sửa đổi cách quy định về hình thức thanh toán tiền đại lý. Thay vì tách thành 2 phương thức: thanh toán bằng tiền Việt Nam đồng cho thương nhân nước ngoài có hiện diện tại Việt Nam hoặc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để thanh toán cho thương nhân nước ngoài thì Luật mới quy định “thương nhân chọn việc thanh toán thù lao bán hàng đại lý bằng tiền thì thực hiện theo quy định của pháp luật về ngoại hối”. Cách quy định trên có tính bao quát hơn so với quy định cũ. 233
  11. 4. Kết luận hoặc (và) khuyến nghị giải pháp (Conclusions or/and policy implications): 4.1. Một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài Thứ nhất, về bản chất pháp lý của hợp đồng đại lý thương mại, quy định trong Luật Thương mại 2005 còn mâu thuẫn với các văn bản luật chuyên ngành như Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, Bộ luật hàng hải 2015,…Do đó, những nhà làm luật cần sửa đổi sao cho luật chuyên ngành thống nhất với luật chung để tạo điều kiện thuận lợi, đơn giản hơn trong quá trình tiếp cận và áp dụng pháp luật. Ngoài ra, luật chuyên ngành có thể có những quy định đặc thù nhưng cần quy định cơ chế áp dụng phối hợp luật chuyên ngành và luật chung mang tính tương trợ, thống nhất. Thứ hai, Cần quy định cụ thể hợp đồng phân phối hàng hoá nhằm phân biệt với hợp đồng đại lý thương mại trên thực tiễn. Bởi hiện nay, nhiều trường hợp các bên xác lập hợp đồng đại lý nhưng bản chất điều khoản quy định không phải là hợp đồng đại lý mà là hợp đồng phân phối. Như tranh chấp hợp đồng đại lý trong Quyết định giám đốc thẩm số 05/2011/KDTM-GĐT ngày 20/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cho thấy sự nhầm lẫn giữa hợp đồng phân phối hàng hoá với hợp đồng đại lý thương mại. Trong hợp đồng các bên xác lập quan hệ hợp đồng đại lý thuốc tân dược nhưng các điều khoản trong hợp đồng lại thoả thuận bên đại lý là chủ sở hữu hàng hoá, bên đại lý chịu rủi ro do hàng hoá bị mất mát, hư hỏng,23…. Như vậy, đây là hành vi “mua đứt bán đoạn” cho nên bản chất của hợp đồng trên là hợp đồng phân phối. Quyền sở hữu hàng hoá thuộc về bên phân phối, khoản chênh lệch từ hành vi mua đi bán lại của nhà phân phối trong trường hợp này gọi là lợi nhuận24. Hợp đồng phân phối hàng hóa được hiểu với ý nghĩa là một dạng hợp đồng" mua sỉ, bán lẻ". Do vậy, hợp đồng phân phối hàng hoá có thể hiểu là sự thoả thuận giữa nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp hàng hóa, theo đó, nhà phân phối nhân danh chính mình mua hàng hóa của nhà cung cấp để bán lại. Thứ ba, về bảo mật thông tin, pháp luật cần dự liệu và quy định các bên phải có nghĩa vụ bảo mật thông tin một cách hợp lý. Pháp luật một số nước khái quát nghĩa vụ bảo mật thông tin của hai bên tham gia quan hệ đại lý thương mại như sau: (i) Bên đại lý có nghĩa vụ bảo mật các thông tin về sáng chế, bí mật kinh doanh hoặc bất kỳ thông tin nào khác do bên giao đại lý cung cấp theo yêu cầu của bên giao đại lý; (ii) Bên giao đại lý có nghĩa vụ bảo mật các thông tin do bên đại lý cung cấp liên quan đến dữ liệu khách hàng của bên đại lý.25 Các bên cũng cần có trách nhiệm hỗ trợ và hợp tác với nhau để phát hiện và xử lý các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, quyền sở hữu trí tuệ từ bên thứ ba liên quan đến hợp đồng đại lý. Thứ tư, về các dịch vụ hỗ trợ và hậu mãi, nếu không có thỏa thuận trong hợp đồng thì các dịch vụ trên sẽ được cung cấp bởi bên nào chưa được pháp luật quy định. Trong khi đó, pháp luật một số nước như Mỹ, Canada đã quan tâm tới vấn đề dịch vụ hỗ trợ và hậu 23 http://bnclawfirm.com.vn/thuc-trang-ap-dung-phap-luat-giai-quyet-tranh-chap-ve-hoat-dong-dai-ly- thuong-mai/ cập nhật ngày 7/12/2021 24 https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=16ea440a-68a6-4904-83d8- 15945a99907b cập nhật ngày 7/12/2021 25 Nguyễn Mai Chi (2002), Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý”, Hà Nội. 234
  12. mãi trong hoạt động đại lý.26 Do đó, cần bổ sung các quy định liên quan đến dịch vụ hỗ trợ và hậu mãi trong quá trình thực hiện hợp đồng đại lý, dự phòng trường hợp không có thỏa thuận giữa các bên thì nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ này thuộc về bên nào, chi phí thực hiện được chi trả ra làm sao. Thứ năm, cần sửa đổi quy định tại Điều 174 Luật Thương mại 2005 về chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài. Pháp luật Việt Nam cần quy định rõ ràng về nghĩa vụ thông báo khi một bên muốn chấm dứt quan hệ đại lý, thời hạn thông báo khác nhau đối với từng thời gian khác nhau của quá trình hợp tác giữ a bên đại lý và bên giao đại lý. Chẳng hạn, pháp luật nước Pháp quy định, cả bên giao đại lý và bên đại lý đều có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, thời hạn thông báo là 01 tháng đối với năm đầu tiên của hợp đồng, 02 tháng kể từ năm thứ hai và tương tự với các năm tiếp theo27. Về vấn đề bồi thường, Luật Thương mại 2005 chỉ quy định quyền yêu cầu bồi thường cho bên đại lý nếu bên giao đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, theo Khoản 3 Điều 177, bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng, ở phía ngược lại, bên giao đại lý cũng không được quyền yêu cầu bên đại lý bồi thường. Trên thực tế, bên giao đại lý cũng cần được sự bảo vệ của pháp luật khi bên đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng. Ngoài ra, quy định trên không xem xét trường hợp bên đại lý chấm dứt hợp đồng do lỗi của bên giao đại lý. Trong khi đó, Điều 428 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Một bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Như vậy, Luật Thương mại 2005 nên sửa đổi quy định trên theo hướng trường hợp bên giao đại lý không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận thì bên đại lý có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Về giá trị khoản bồi thường, giá trị khoản bồi thường mà bên giao đại lý phải trả cho bên đại lý nếu bên giao đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng là chưa thỏa đáng và chưa phù hợp với thực tiễn kinh doanh. Vì bản chất của hợp đồng đại lý là một loại hợp đồng dịch vụ, Điều 520 Bộ luật dân sự 2015 đã giải quyết thỏa đáng vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng. Theo đó, trường hợp việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không có lợi cho bên giao đại lý thì bên giao đại lý có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, phải trả tiền công theo dịch vụ mà bên đại lý đã thực hiện được và bồi thường thiệt hại bao gồm toàn bộ những thiệt hại thực tế có thể tính toán được. Thứ sáu, Luật Quản lý ngoại thương 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành cần bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động đại lý cung ứng dịch vụ cho thương nhân nước ngoài và thuê thương nhân nước ngoài làm đại lý cung ứng dịch vụ. Cần biết rằng, thương mại dịch vụ có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội mỗi quốc gia. Với 26 Rebecca Attree (2002), International Commercial Agreement, A specially commissioned report, Thorogood 10-12 Rivington Street, Longon EC2A 3 EDU. 27 Sylvia McNeece & Dr Anne-Marie Mooney Cotter (2003), Business law, Oxford University press, tr.163. 235
  13. tư cách là một mắt xích quan trọng trong hệ thống phân phối, đại lý cung ứng dịch vụ ngày càng trở nên phổ biến. Vì vậy, xây dựng khung pháp lý về quản lý Nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ cho thuơng nhân nước ngoài góp phần tạo lập hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển của thương mại dịch vụ, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam. 4.2. Một số kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước trong thực thi pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài Thứ nhất, cần có những nghiên cứu rà soát lại hệ thống pháp luật về đại lý thương mại, đánh giá tác động của việc mở cửa thị trường với các nhà đầu tư nước ngoài đến hoạt động đại lý thương mại, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để đề ra những giải pháp trong phát triển và quản lý hoạt động đại lý thương mại tại Việt Nam. Thứ hai, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật về đại lý thương mại tới cộng đồng doanh nghiệp. Đối với hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài, thương nhân Việt Nam có thể gặp khó khăn, rủi ro do xung đột pháp luật, không nắm bắt kịp thời các quy định quản lý Nhà nước về hoạt động ngoại thương. Vì vậy, hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới cộng đồng doanh nghiệp cần được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả hơn nữa. Thứ ba, Điều 53 Nghị định 69/2018/NĐ-CP cho phép thương nhân Việt Nam tiến hành hoạt động tái xuất khẩu đối với hàng hóa thuộc hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành tại nhiều doanh nghiệp cho thấy, với nhiều loại máy móc thiết bị, chi phí nhập khẩu và tái xuất khẩu rất lớn, cùng với đó là thủ tục hải quan rườm rà khiến nhiều doanh nghiệp e dè, thậm chí chấp nhận để hàng hóa tồn đọng thay vì tiến hành thủ tục tái xuất khẩu. Vì vậy, cơ quan Nhà nước cần cải cách thủ tục hành chính, duy trì môi trường kinh doanh thuận lợi, tránh gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. “Báo cáo của các Bộ/ngành của Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế”, Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, 2018. 2. Bộ luật dân sự 2015. 3. Bộ luật Hàng hải 2017. 4. Bộ luật Thương mại và Luật những ngoại lệ đặc biệt về kiểm soát của Nhật Bản (1994). 5. Giáo trình Luật Thương mại Tập 2, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2010. 6. Luật thương mại 2005. 7. Luật quản lý ngoại thương 2017. 8. Luật Thương mại 2005. 9. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2019. 10. Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý ngoại thương. 236
  14. 11. Nghị định 187/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. 12. Nguyễn Mai Chi (2002), Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý”, Hà Nội. 13. Rebecca Attree (2002), International Commercial Agreement, A specially commissioned report, Thorogood. 14. Sylvia McNeece & Dr Anne-Marie Mooney Cotter (2003), Business law, Oxford University press. 15. Trường Đại học Thương mại, “Giáo trình kỹ thuật thương mại quốc tế”, NXB. Thống kê, 2003. 237
nguon tai.lieu . vn