Xem mẫu
- PHÀN III
LÀNG NGHÈ TRUYỀN THÓNG
Ở BÌNH ĐỊNH
Tác già: Nguyễn Xuân Nhân
- ĐÔI ĐIỀU VÈ LÀNG NGHÈ
TRUYỀN THỐNG
Làng nghề truyền thống đã hình thành từ lâu đời ở nước ta
từ Nam chí Bắc. Làng tập họp mọi người trong làng cùng làm
một nghề, cùng chung một vị tổ nên mang tính cộng đồng. Tính
cộng đồng ấy thể hiện trong cách hành nghề, trong sinh hoạt,
tập quán và cả trong sự học hỏi và truyền nghề. Họ còn có liên
hệ máu huyết và cả trong quan hệ bà con láng giềng. Vì vậy
cách làm nghề đều tưomg tự như nhau. Nói cách khác họ luôn
theo một trình tự, một phương pháp giống nhau. Biết được một
làng nghề truyền thống một vùng là biết được sự tương tự của
làng nghề khác.
Trong quá trình làm nghề, luôn có những thuận lợi cũng như
khó khăn mà họ phài tìm hiểu để vượt qua. Từ đó nảy ra sáng
kiến và trở thành kinh nghiệm. Những kinh nghiệm ấy được
truyền đạt cho người thân, trước tiên là người trong gia đình rồi
sang tộc họ. Quan hệ gia tộc còn có hên quan đến sui gia, bạn
bè thân thiết, tình làng nghĩa xóm. Dù muốn hay không nghề
nghiệp và kinh nghiệm cũng được chia sẻ truyền thụ. Hơn nữa
từ quan hệ láng giềng qua lại, mắt thấy tai nghe. Phải chăng đó
là một cách học hỏi thực tế mà kết quả.
- Làng truyền thống có cùng sinh hoạt khiến việc giao tiếp
thuận lợi. Sự giao tiếp ấy làm cho dân làng gần gũi, thân tình
gắn bó. Họ luôn sẵn sàng giúp đỡ nhau chẳng những trong
nghề, trong quan hệ sản xuất và tiêu thụ mà cả khi gặp những
khó khăn tai nạn.
Tuy nhiên, như ta đã từng nghe chuyện giữ gìn bí quyết
trong nghề nghiệp ngày xưa. Có những nghề họ chỉ truyền cho
con trai, con dâu mà không truyền cho con gái vì họ quan niệm
rằng “nữ sinh ngoại tộc”. Họ sợ rằng con gái biết nghề khi có
chồng sẽ đem nghề ấy truyền cho nhà chồng. Có thể đó là một
sai lầm khiến nghề nghiệp của nước ta không phát triển. Đây là
một nhược điểm cần khắc phục.
Làng truyền thống có nhiều thế mạnh và cả thế yếu nên việc
nghiên cứu, tìm hiểu về mặt chuyên môn kỹ thuật và cả những
sinh hoạt văn hóa. Những ngày giồ tồ, những lễ hội được tổ chức
một cách long trọng và trang nghiêm để nhắc nhở con cháu nhớ
đến các bậc tiền bối đã bỏ ra bao nhiêu công sức học hỏi, làm
nghề, rút kinh nghiệm, qua bao vất vả khó khăn để truyền nghề
cho con cháu, cho dân làng tạo nên cuộc sống ngày càng tốt đẹp
hơn. Vì vậy lễ hội mang tính văn hóa sâu đậm. “Ưống nước nhớ
nguồn” đó là truvền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Một số nghề ngày xưa hầu như đã mai một. Tìm hiểu đ
- và không ô nhiễm, vì khi những thứ hàng tre cói này khi vứt bỏ
chỉ sau một thời gian nó đã tự hủy hoại.
Thứ đến khi nghiên cứu về làng nghề truyền thống chúng
ta còn hiểu được sự liên hệ giữa các nghề. Nếu các nghề đươc
phối hợp chặt chẽ thì mới có kỹ thuật cao tạo ra những sản
phẩm xuất sắc. Xin đơn cừ một trường hợp: nghề đúc đồng chỉ
sàn xuất được những mặt hàng không mấy mỹ thuật lắm nên
giá không cao. Cũng là đồ đồng nhưng nếu là đồ tam khí ta sẽ
thấy giá trị của nó.
Nghiên cứu làng nghề truyền thống là tìm về cội nguồn của
dân tộc để phát huy thế mạnh tìm cách khắc phục những yếu
kém để khôi phục lại những gì đã mất hay suy yếu. Nếu khôi
phục được ta còn giải quyết được nạn thất nghiệp và cả việc tiêu
thụ được những nguyên vật liệu trong nước. Đó là trách nhiệm
của chúng ta những nhà nghiên cứu về kinh tế hầu đưa nền kinh
tế nước ta mỗi ngày một phát triển bền vững.
- LÀNG NGHÈ
TRỒNG DÂU NUÔI TẰM DỆT LỤA
Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng
Câu ca dao trên đã phản ảnh phần nào nỗi nhọc nhằn của
nghề nuôi tằm. Nghề này đã có từ xưa, đến thời vương phi Ỷ
Lan có lẽ là thời kỳ hoàng kim và lưu truyền cho đến ngày nay.
Tìm về nguồn gốc
Bình Định là đất mới - từ thời xa xưa dân tộc Chăm và Việt
đã có liên lạc với nhau tuy không chính thức nhưng đã giao tiếp
trên buôn bán, trao đổi vật phẩm và truyền nghề trong đó có
nghề trồng dâu nuôi tằm.
Nhiều sự việc đã được các cụ già ngày xưa kể lại mà chúng
tôi đã ghi chép được.
Bài này tuy viết về làng Háo Lễ, với xóm Cửi có làng nghề
truyền thống trồng dâu nuôi tằm, nói chung nhưng chỉ tượng
trưng, vì lẽ có .ất nhiều làng trong tỉnh Bình Định làm nghề này.
Chuyện về làng Phương Danh: Làng nằm ven bờ sông Đập
đá, nên khá màu mỡ nhờ phù sa của dòng sông Côn hàng năm
bồi đắp. Dọc theo bờ sông là đất soi, nương dâu nối tiếp nương
- dâu. Một màu xanh mướt, phì nhiêu. Chính từ những nương
dâu này là nguồn cung cấp lá dâu thức án cho tằm.
Dệt lụa, trồng dâu, nuôi tằm là nghề truyền thống hiện nay
vẫn còn trong quy mô nhỏ. Trong làng có chùa Ty thờ bà tổ
nghề dệt. Chính nơi này đã đào tạo rất nhiều chàng trai có tay
nghề cao. Họ đi khắp nơi trong tỉnh truyền nghề. Họ là những
người thầy vừa là thợ, họ làm cho gia chủ những công đoạn khó
khăn nhất-kỹ thuật dệt-nhất là “bắt hoa” là khó nhất, thứ đến là
mắc canh vào khung dệt... Câu ca dao:
Anh về Đập đá, Gò Găng
Để em kéo sợi đêm trăng một mình
Mai này dệt cửi bắt canh
Bắt hoa, nhuộm vài thay anh khỏ lòng
Theo sự tích thì nghề tơ lụa ở Phương Danh bắt nguồn từ bà
tổ được dân làng lập miếu thờ.
Ngày xưa khi xóm cửi chưa hình thành, trong xóm có người
con gái tên là Tô Huệ khá đẹp mà lại giàu lòng nhân ái. Cô rất
thương người nghèo khổ. Cô thường mang tiền gạo trong nhà
ra phân phát cho người đói khổ. Thời gian qua mau, cô gái càng
lớn càng xinh đẹp nhưng cô không lấy chồng. Người ta thường
thỉ thầm bàn tán bảo nhau-cô là người nhà Trời đầu thai xuống
trần gian để giúp dân làng. Ngoài tấm lòng nhân ái cô còn rất
yêu quý các loài hoa và ong bướm.
Mùa xuân đến, họ nhà bướm mở hội bướm xuân. Hàng ngàn
con bướm bay lượn, nô đùa cùng cô. Cô thấu hiểu cả những nỗi
khổ của chúng, cô luôn chăm sóc đặc biết nhất là loài bướm
- trắng. Bướm ừắng chính là loài đã sinh ra tằm và tằm cho con
người những sợi tơ vàng óng. Từ những sợi tơ vàng đẹp đẽ ấy đã
gợi cho nàng Tô Huệ này ra ý đem tơ dệt thành lụa như dệt vải.
Từ khi tìm ra tơ vàng nàng xin cha cho nàng ra ở một căn
nhà nhỏ ở ven sông giữa những nương dâu để dân làng phát
triển nghề mới. Cha mẹ khuyên nàng mãi nhưng ý nàng đã
quyết nên cha mẹ cũng chiều lòng. Từ một cô gái nhà giàu có,
nàng trở thành người dân quê một lòng yêu nghề nên được dân
làng quý trọng.
Để ghi nhớ công đức của nàng, dân làng dã suy tôn gọi nàng
bằng Bà. Sau khi bà mất dân lập miếu thờ-tục gọi là bà chúa Ty.
Cứ đến ngày 16/8 âm lịch hàng năm, ngày bà qua đời, dân làng
tồ chức tế lễ, rước đèn, cờ trống rất trọng thể. Dân làng đến thắp
hương, cúng bái. Là ngày hội ăn mặc nên mọi người đều ăn mặc
rất đẹp, hát múa vui chơi suốt ngày hội.
Chuyện kể thứ hai
Nguồn gốc nghề tằm tơ được truyền từ miền Bắc vào Nam.
Ngày xưa, bên bờ sông La thuộc Hoan Châu nay thuộc vùng
Nghệ Tĩnh, gần chân núi Hồng Lĩnh có một làng chuyên nghề
trồng dâu, nuôi tằm dệt lụa. Làng dọc ven sông, dân quen nghề
sông nước, thuyền buôn ra vào tấp nập, mua bán hàng tơ lụa
chuyển về Nam.
Ải về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa xứ Hạ, uống chè Hương Sơn
Những chuyến hàng từ đây được chuyển tải về Nam. Thuyền
này là của hai cha con họ Võ. Thuyền chở nhiều tơ lụa và một
- so hàng hỏa khác. Trên đường mua bán hai cha con được quen
biêt một người con gái Chăm lưu lạc trong chiến tranh. Nhờ
người này hướng dẫn, chỉ đường đi lối về nên việc buôn bán
khá trôi chảy thu được nhiều lợi nhuận.
Khi thuyền cập bến Thị Nại, đây là vùng thuộc kinh đô Đồ
Bàn của vua Chăm nên việc kiểm soát gắt gao theo luật lệ của
vưorng quốc. Việc khám xét khó khăn tưởng chừng như việc
mua bán phải ngừng trệ. Thế nhưng nhờ nhan sắc của cô gái
và những lời thưa gởi nhẹ nhàng, ân cần khiến viên quan trẻ có
cảm tình nên việc giao lưu buôn bán có phần trôi chảy.
Ngày lại ngày, họ thường gặp nhau, một mối cảm tình này
sinh giữa đôi bên. Mối tình giữa đôi trai tài gái sắc Chăm-Việt
được nhen nhóm sâu đậm dần. Một số thương nhân người Việt
ở lại trên đất Chăm làm ăn sinh sống. Từ đó nghề trồng dâu,
nuôi tằm được phổ biến và hình thành.
Đời sống con người có nhiều nhu cầu, trong đó có hai nhu
cầu thiết yếu là ăn và mặc. Chuyện ăn quan trọng thế nào dù
không nói mọi người đều biết. Còn việc mặc thì thế nào? “Mặc”
tuy thứ yếu nhưng không thề thiếu. Nhu cầu về mặc đã có từ
thời xưa, từ thời đồ đá con người đã biết lấy vỏ cây, da thú để
che thân. Nghề sản xuất vải vóc đã tạm đủ thỏa mãn cái mặc
nhưng con người văn minh thì càng cần hơn. Những thứ vài
thông thường chưa hài lòng, họ cần có những thứ vải có giá trị
cao, đó là tơ lụa. Chỉ có tơ lụa mới có đủ tính năng ưu việt:
- Nhẹ nhàng, mềm mại dễ giặt
- Ẩm về mùa đông, mát về mùa nóng
- Bền chắc lại sang trọng
- Vì vậy giá tơ lụa khá cao, đắt gấp nhiều lần so với vải và
nylon. Vả lại khoa học chỉ công nghiệp hóa được ngành vải
nhưng chưa công nghiệp hóa được ngành sản xuất ra tơ tằm.
Muốn có tơ người ta phải trải qua nhiều công đoạn thủ công.
Vì vậy mà tơ lụa đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng vì vải lấn
ép. Ngày nay tơ lụa đã trở lại ngôi thứ của nó. Tơ lụa vẫn chiếm
lĩnh thị trường cao cấp, ở các nước văn minh người ta vẫn thích
dùng hàng tơ lụa.
Mời bạn về quê tôi để xem việc sản xuất tơ lụa.
Việc trồng dâu
1. Cây dâu: Là cây thân mộc, lá có hình trái tim, lớn bằn)
bàn tay, khi dâu tốt lá lớn bằng bàn tay xòe. sắc xanh sáng. Cê
dâu trồng trên nương không lớn lắm, thân dâu cỡ chỉ bằng ngó
chân cái. Cây mọc thẳng, lên cao cỡ 50cm mới đâm đọt. Khi dâ
ngang đầu người người ta mới hái lá. Lá loại cho tằm ăn là lá
bánh tẻ, lá mới lớn, màu xanh lục. Sau một lần hái, những nách
lá lại nẩy đọt non. Cứ mỗi lứa hái người ta lại bón phân tát nước.
Cây dâu lại sung sức và cho lượt lá thứ hai. Lá dâu là thực phẩm
duy nhất đối với tằm dâu. Nó ảnh hưởng đến đòi sống con tàm và
cà trong việc sản xuất tơ. Nhìn sắc tơ óng ánh, mượt mà là hiểu
được sự chăm sóc tằm của người nuôi và cà việc trồng dâu.
Dâu là cây thân mộc, gỗ tuy không cứng lắm lúc nhỏ nhưng
khi dâu đã thành cổ thụ gốc lởn đến một người ôm không hết.
Trên ruộng dâu người ta không để dâu lớn quá. Khi dâu đã có
hoa là người ta lại sửa soạn một mùa ươm trồng mới, hoa dâu
nhỏ màu đỏ sẫm rồi chuyển dần sang tím rồi nâu. Lúc này năng
- suât lá dâu không cao nên người ta hái lượt lá cuối cùng rồi phá
bỏ cây dâu (đốn dâu) để cây dâu ra đọt mới. Nếu phải trồng mới
người ta lựa những cành bánh té chặt cành dâu thành từng đoạn
cỡ vài chục cm - gọi là hom. Khi đất trên nương dâu đã sẵn
sàng người ta đem hom dâu găm nghiêng cỡ 45°. Có đất hơi ẩm
là hom nẩy rễ nứt mầm. Trồng dâu không khó, tỷ lệ sống trên
90%. Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật người ta
tiến hành ươm dâu giống bằng hạt, khi thành cây đủ tiêu chuẩn
họ đem trồng, việc làm này nhằm tránh sự thoái hóa của giống
dâu mang lại năng suất lá cao (do sừ dụng lại hom).
Thu hoạch lá dâu là việc làm tưởng chừng đơn giản vì lẽ ai
cũng làm được. Người hái dâu mang theo một cái giỏ lớn, cao
ngang ngực, đường kính cỡ 50-60cm, bên dưới có chân cũng
bằng tre để lá dâu không chạm đất nhằm giữ sạch lá dâu. Giỏ
đựng lá dâu có lỗ hình lục giác lớn để lá được thông thoáng,
tươi lâu. Phụ nữ thường làm việc này. Trông họ làm việc lúc nào
cũng khẩn trương, đôi tay thoăn thoắt, dịu dàng, nhanh nhẹn
như múa mặc dù sau lưng họ chiếc áo đã ướt sũng mồ hôi. Điều
ấy chứng tỏ rằng việc hái lá dâu không nhẹ nhàng.
Thức dậy từ tờ mờ sáng, lên nương hái xong giỏ dâu đầu
tiên là mặt trời vừa lên. Họ cũng vội vã ra về cho tằm ăn. Neu
để tằm đói dù chỉ một vài giờ thôi cũng đủ làm tằm chậm lớn
“một giờ tằm đói bàng trâu đói một ngày”. Câu nói vần trên
cũng đủ nói lên sự quan trọng trong việc ăn của tằm. Điều đáng
nói thứ hai tùy theo nhu cầu của tuồi, lứa tằm mà hái một loại,
lượng dâu vừa phải. Nếu hái sai loại hoặc lượng mà không đúng
sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của tuổi tằm và để tằm đói hoặc
phí phạm. Vào những lúc tằm ăn rỗi thì dâu là một nhu cầu hết
- sức khẩn trương, tưởng chừng bao nhiêu lá tằm ăn cũng hết, đó
là giai đoạn chạy dâu. Người nuôi tằm đều có kinh nghiệm về
giai đoạn này.
“Vì tằm tôi phải chạy dâu - Vì chồng tôi phải qua cầu đắng
cay”, con tằm giờ đây nó cũng quan trọng ngang với con người
- nhất là người chồng!
Ruộng dâu: Người ta gọi là nương dâu. Nương là vùng đất
thổ pha cát phù sa. Cây dâu rất thích hợp với loại đất phù sa này.
Hầu hết nương dâu đều nằm dọc theo bờ sông hay các bãi phù
sa trên sông.
Nương dâu ở nơi vị trí cao nhưng cây dâu rất cần nước nên
nương dâu luôn ở sát bờ sông để dễ dàng trong việc tưới nước.
Những nương dâu luôn luôn xanh mát vì lá dâu mọc khá
dày. Một người đang ở giữa đám dâu thì không còn thấy và
ngược lại người bên ngoài không thể nhìn thấy người bên trong.
Có lẽ vì thế mà trai gái ngày xưa thường hẹn hò tình tự ở nương
dâu chăng? Có lẽ cũng vì nương dâu kín đáo như thế nên giữa
nương dâu thường xảy ra những cuộc tình không mấy tốt đẹp.
Trong Kiều có câu:
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi
Phải chăng nương dâu là nơi hò hẹn của ừai làng gái xóm
ngày xưa?
Hầu hết những làng làm nghề nầy đều có một sinh hoạt
giống nhau. Trước hét chúng ta cũng nên tìm hiểu về nếp
sống con tàm-con vật đã cho ta thứ tơ vàng, mịn óng ánh và
- chắc chắn. Con vật có chu kỳ sinh sản vòng tròn: xin bắt đầu
từ cái trứng.
Nuôi tằm
- Trứng tằm được sinh ra từ con ngài. Ngài đẻ trứng trên
lớp giấy bổi do bàn tay con người lót. Ngài đẻ một lần hàng
trăm trứng nằm đều đặn trên tờ giấy bổi. Chỉ cần giữ trứng
trong môi trường và nhiệt độ thích họp trong vòng 7 ngày là ta
có một thế hệ sâu non - đó là con tằm. Thời kỳ nầy nghề nuôi
tằm chú ý nhất là bảo vệ tằm con khỏi bị hao hụt nhất là thằn
lằn và kiến, hai kẻ thù ẩy luôn rình rập tằm con vì đó là thức ăn
béo bở ngon lành. Tằm con được đưa ra “trẹt” (cái nong nhỏ)
và cho tằm ăn lá dâu non đã được xắt nhỏ như sợi thuốc lá.
Ihì trong vòng vài ba ngày mà tằm đã lớn lên bằng tăm nhang.
jfừ một trẹt tằm con lại phải sang nơi ở mới là những cái nong
lớn. Đây là thời kỳ chạy ăn cho tằm, tằm ăn rất nhiều lá dâu, lá
dâu được hái về hong ráo nước rồi phủ lên mình tằm. Những
con tằm háu ăn bám lấy lá dâu mà xơi. Tiếng tằm ăn lá dâu
kêu rào rào như một cơn mưa nhỏ. Người ta bào tằm “ăn lên”.
Có lẽ không một con vật nào ăn nhiều như tằm, tằm như theo
lượng lá dâu mà lớn lên-lớn như thổi. Tằm ăn rồi ngủ, cứ mỗi
lần ăn rồi ngủ, ngủ rồi thức là tằm được một tuồi-tằm chừng
năm tuổi tằm là tằm chín (chừng 25 ngày). Tằm ăn bao nhiêu
phải cung cấp bấy nhiêu, càng ăn khỏe càng kết quả tốt. Thật
là vất và khi chạy dâu cho tằm. Không bao giờ để tằm đói. Tục
ngữ của làng tơ tằm có câu:
Tằm đói một ngày cũng tày người đói ba hôm
- Dù tằm đói một hôm thôi cũng làm giảm năng suất tơ. Tằm
lớn nhanh chỗ nuôi cũng phái tăng theo bàng cách sang ra nhiều
nong. Sau thời kỳ ăn rỗi tằm lớn hết cỡ khi thân tằm từ màu
trắng xanh chuyển sang màu vàng tằm mới thôi ăn.
Bây giờ người ta đưa tằm lên bổi. Bổi là nhữg tấm vỉ kết
bằng cành cây khô và sạch để tằm làm kén. Thời kỳ rút ruột nhả
tơ chừng 3 ngày. Thời kỳ nầy phải canh phòng loài ong đến bắt
tằm và nhặng đến đẻ trứng vào thân tằm. Tằm tiết ra chất nước
quánh màu vàng, nước ra đến đâu là khô đến đó, những sợi tơ
ấy bắt đầu giăng lên bủa sợi tơ ngày càng dai quấn và che khuất
thân tằm. Tằm nằm trong kén là liên tục nhả tơ, kén ngày một
dày thêm, bên trong tằm tự hóa nhộng.
Một nong tằm là 5 nong kén
Chờ cho kén dày hết cỡ người ta mới gỡ kén ra khỏi bồi Ví
đưa đi ươm tơ.
Lúc này người nuôi tằm có hai việc: ươm tơ hoặc lấy giốnjj
Những 0 kén tốt được chọn làm giống. Trong ổ kén tằm đã hóa
thành nhộng. Nhộng sẽ biến thành ngài (bướm tằm). Ngài tự cắn
rách kén chui ra ngoài. Tất cả những con ngài được đưa ra nong,
chúng tự tìm kết bạn đời, cứ hai con một kết dính vào sau phía
đằng đuôi, đến khi chúng rời ra thì những con ngài cái như đẫy
đà thêm lên. Lấy những mẫu như cái chén chụp lại cho đến khi
chúng đẻ trứng. Lại bắt đầu chu kỳ mới cho đén khi tằm cho kén.
Kén đem bỏ vào xanh đồng lớn nấu nước sôi để lấy tơ, đây là
giai đoạn đòi hỏi tay nghề cao. Hầu hết người ươm tơ đều là phụ
nữ, họ ngồi trước nồi nước sôi để bắt mối - họ dùng những đôi
đũa dài quay quay đám kén, những sợi tơ mỏng manh được khơi
- ra, băt lấy mối đưa qua “mắt sành”. “Mắt sành” là một vòng sành
có lỗ nhô, đưa mối vào chuyền sang “xa quay”. Xa quay cuốn tơ
thành ông. Bước đầu có khó khăn đôi chút, cho đến khi tơ đã lên
cuộn thì người ươm tơ chỉ cần lấy mối chắp vào sợi tơ trước, cứ
thê những thỏi ông tơ xoay tít, vàng hươm lớn dần. Cứ xem số
tơ thu được là biết năm ấy nuôi tằm có kết quả không “một nong
nằm là năm nong kén, một nong kén là chín nén tơ”.
Sau khi đã lấy hết tơ ừong nồi còn lại những thân nhộng.
Nhộng là món ăn ngon, bổ. Nhộng mà xào với hành củ, một
món ăn tuyệt vời.
Đó là chuyện ngày xưa. Bây giờ nhờ những tiến bộ của khoa
học, hiệu suất đã tăng lên rất cao nhờ giống tằm lớn con, cho kén
lớn, nhiều tơ mà tơ lại có màu trắng. Màu ừắng làm giảm được
công đoạn tẩy màu. Hơn nữa giống dâu cũng được cải tiến, lá dâu
mới to gấp 2-3 lần lá dâu cũ khiến cho việc nuôi tằm bớt nhọc nhằn.
Ngày nay người ta tính theo hộp trứng giống, cứ mỗi hộp
trứng, nuôi đầy đủ thì thu được 30kg kén, ươm được 4kg tơ,
mỗi ký tơ chừng 300.000đ. Nghề nuôi tằm được phát triển khá
mạnh vì lợi nhuận cao, gấp 4-5 lần trồng lúa. Từ đó nghề nuôi
tằm được chuyên môn hóa từng khâu, ở vùng thôn quê người
ta chỉ nuôi tằm rồi lấy tơ là giai đoạn cuối cùng phần dệt thành
lụa đã có máy móc thay thế.
Tuy nhiên nhân đây chúng tôi cũng muốn nói thêm về nghề
dệt lụa ngày xưa ờ quê tôi để chúng ta hiểu thêm về nghề cổ
truyền của ông cha truyền lại.
Xóm Cửi là quê ngoại nên tôi thường về xem cậu và các anh
chị nuôi tằm dệt lụa. Từ ngoài đường vào làng là đã nghe tiếng
- lách cách của khung dệt vang vọng rồi. Thứ âm tiết rất riêng của
làng nghề. Xóm Cừi chừng 50 nóc nhà của một tộc họ - một nghề
dệt. Mới sớm tinh sương là các sinh hoạt đã bừng lên rồi. Người
nào việc ấy, các bà ngoài việc nội trợ còn đi hái dâu, những cái
bội lỗ lớn và thưa, to cao hom người được sẵn sàng lên nương để
trưa mang về những bội dâu đầy ắp, nặng trịch. Đàn ông kẻ thì
ngồi khung mắc cừi hoặc những công việc phụ cho nghề. Họ kiên
nhẫn ngồi dệt cả ngày. Tiếng lách cách của thoi, của bàn đạp đều
đều rền rĩ. Những chiếc khung dệt cũ kỹ, chằng chịt những gọng
những dây. Đặc biệt nhất là khung dệt lụa hoa, chiếc khung dệt to
chiếm hết một gian nhà. Một người ngồi dệt, một người leo ngồi
tận trên cao gần sát mái tranh để bắt hoa. Đôi bàn tay cuốn lấy
những sợi canh, thoăn thoắt khi lên khi xuống, khi qua khi lại.
Cứ theo từng nhịp thoi, những tấm go lại đưa lên đưa xuống tạo
thành một âm thanh riêng biệt khi khoan khi nhặt như nhắc nhở
người thợ bắt hoa là dệt đến đâu rồi. Nhịp thoi cứ đều đặn kêu
suốt ngày. Thời ấy muốn dệt một hoa văn trên lụa thật công phu
và khó khăn. Tốc độ dệt là rất chậm, thế mà những sản phẩm dệt
cứ đều đặn ra lò. Anh tôi kể rằng anh phải ra tận Nam Định để
học nghề này, mỗi hoa có một bài học thuộc lòng dễ nhớ. Những
thước lụa thô dệt xong còn phải qua nhiều công đoạn, nhuộm,
làm láng bằng nước hồ. Hồ xong đem phơi và làm láng.
Nhuộm và làm nguội: Những thước lụa vừa dệt xong, đó
chỉ là những tấm lụa thô chưa đem ra thị trường tiêu thụ được
mà phải trải qua một thời gian nữa.
Trước tiên là làm sạch các mối nối, con thoi làm nhiệm vụ
đưa những sợi tơ vào khung. Những cuộn tơ nhỏ trong thoi có
một độ dàỉ nhất định nên khi dệt được chừng 5-7cm lụa là hết
- tơ thợ dệt phải thay con suốt tơ trong thoi. Từ đó có những mối
nôi. Mối nối có thể nằm giữa tấm lụa hay ở ngoài biên khiến
tâm lụa chưa sạch. Thợ phải dùng loại kéo đặc biệt-không giống
loại kéo bình thường để cắt bò những mối nối. Người ta thường
đánh giá kỹ thuật dệt qua đường biên, đường biên phải thẳng,
không cong vênh, đều đặn. Đó là những tấm lụa tốt.
Lụa thô được đem hồ một lớp hồ để tẩy những vùng lụa
khác màu. Lụa thô được cuộn lên trục gỗ, căng thẳng và đem
phơi. Người ta dùng những thanh tre dài hơn khổ lụa chừng
một tấc hai đầu nhọn hoặc có đinh nhỏ. Hai đầu nhọn nằm phía
biên, cây căng cong lên. Khi lụa đã gần khô, người ta mới cuộn
lên trục gỗ dùng vồ nhỏ gõ nhẹ, đều trên khắp mặt tấm lụa, lần
lượt tấm lụa được cuộn tròn cho đến hết. Sau đó người ta mới
cuộn lần nữa. Theo nhu cầu mà người ta cắt thành từng đoạn
gọi là cây lụa.
Nhuộm: Ngày xưa màu thông dụng nhất là đen và trắng.
Màu của lụa hơi vàng, đôi khi còn để nguyên màu tơ vàng rực
như nghệ. Vào thời ấy các màu sáng tươi gần như không nhuộm
được. Chủ yếu mua ờ đô thị qua các hàng của Tàu. Các màu mà
nghề nhuộm ở Bình Định chủ yếu là đen, nâu, xanh lơ. Tất cả
những nguyên liệu để nhuộm hầu hết là thực vật. Những vỏ cây
có màu nâu, vị chát như lá ổi, lá xương bầu, cây chè hàng rào
và chàm.
Tất cả những lá cây này hái về đem băm hoặc giã thật nhò
đựng trong những ghè, hũ. Ngâm độ vài ngày, đậy kín đem phơi
nắng. Những lá cây này chưa có màu đen đậm. Dùng lừa để
nấu, có nhiều nhà không nấu trên bếp lửa mà đổ trấu, rơm xung
quanh rồi đốt. Lừa cháy âm ỉ khá lâu.
- Những tấm lụa trắng được nhuộm đen bằng hỗn hợp lá cây
này. Nhuộm xong đem ủ bùn, bùn màu đen xám lấy trong ao hồ
được phủ lên đem phơi. Bùn cũng được lựa chọn khá công phu,
bùn được dùng phải quánh, nhuyễn màu xanh đen.
Phải nhuộm và phủ bùn nhiều lần thì mới có được màu đen
vừa ý. Qua giai đoạn này người ta mới hồ thêm một lớp hồ. Các
tấm lụa được cuốn trên trục tròn. Người ta dùng vồ vỗ đều trên
mặt lụa, vừa vỗ vừa cuộn cho đến hết cuộn.
Giờ đây mặt lụa đã láng, nhẵn bóng. Đây là khâu cuối cùng
của công đoạn nhuộm.
Các mặt hàng từ lụa tơ tằm
1. Lụa: Lụa là mặt hàng chính của thời ấy, lụa dày mỏng tùy
theo số sợi tơ lớn nhỏ mà có tên gọi riêng.
Lụa được dệt bàng hai sợi tơ đậu lại gọi là lụa đậu hai.
ba sợi là đậu ba, nhiều nhất là đậu năm. Sợi canh (dọc) và
sợi cửi (trong thoi) có số sợi tơ đậu ngang nhau thì lụa mới
bền đẹp. Cách dệt đều giống nhau, thỉnh thoảng cũng có
những tấm lụa có hoa (như đã nói ở phần trước) loại này
khá đắt tiền.
2. Xuyến: Là lụa có cách dệt khác. Xuyến là mặt hàng kiểu
cách. Sợi dọc không có gì đặc biệt, chỉ có sợi ngang được dồn
thành từng quãng, cứ một quãng thưa lại có một quãng dày
thành ra xuyến có sọc ngang.
Sọc ngang của xuyến dành cho đàn ông lớn hơn xuyến dùng
cho đàn bà. Áo dài xuyến người ta có thể nhìn thấy lớp áo lót
bên trong, vì vậy người ta thường mặc lót áo quần màu trắng.
- 3. Lãnh: Là lụa được nhuộm và nghè thật láng. Lãnh mới
mặc thường có tiếng kêu sột soạt. Sau một thời gian lãnh mềm
mại nhưng tính trơn láng vẫn giữ nguyên. Điều đáng nói đó là
thứ hàng mà phụ nữ ngày xưa rất yêu thích. Lãnh làm cho người
mặc trở nên dịu dàng, đáng yêu, sang trọng. Thào nào tục ngữ ta
có câu “người đẹp vì lụa”. Thật quả là không ngoa!
4. Thao: Là lụa được dệt bằng tơ hoặc lấy lần đầu tiên từ
kén tằm. Những sợi tơ này chia đều, có chỗ lớn nhò và ngắn. Vì
vậy mà mặt thao có nhiều mối nối gồ ghề, tuy nhiên thao mặc
bền hơn lụa.
5. Đũi: Là lụa dệt bằng tơ lấy sau cùng từ kén tằm. Đũi cũng
giống như thao là mặt đũi có nhiều mối nối. Đũi cũng chắc như
thao lụa.
6. Lương: Là lụa đậu tư, đậu năm nhưng khoảng cách giữa
những sợi tơ rộng hơn. Áo lương rất nhẹ, dệt thưa, khi mặc
Ìgười ta có thể nhìn thấy áo lót bên trong.
Còn nhiều mặt hàng khác cũng từ lụa mà ra tùy theo cách dệt
mà tên gọi khác nhau. Gấm và nhiễu cũng từ lụa mà ra nhưng
đó là những mặt hàng cao cấp từ các vùng khác mang đến.
Việc buôn bán tơ lụa ngày xưa
Nhìn tổng quát về nghề tơ lụa của từng địa phương của Bình
Định, hầu hết có cách làm và sinh hoạt giống nhau. Những làng
nghề truyền thống về tơ lụa như: An Thái, Phương Danh và
Háo Lễ là những làng có tính chất sản xuất khá quy mô, tuy
việc làm hoàn toàn thủ công từ khâu đầu đến khâu cuối vì vậy
hàng hóa chủ yếu là tự cấp tự túc. Thinh thoảng một vài năm cà
- làng cũng gom góp hàng hóa đem đi bán ở các tỉnh lân cận về
phía Nam từ Phú Yên trở vào. Có lẽ ở những vùng này ít có tơ
lụa chăng? Vả lại thời ấy hầu hết dần chúng cơ cực, không đủ
ăn thì cái mặc trở nên thứ yếu. Áo vải cũng chưa lành lặn nên
tơ lụa cũng trở nên những món hàng đắt giá và có phần xa xỉ.
Hàng tơ lụa chỉ cung cấp cho tầng lớp khá giả từ phú nông trờ
lên. Giai tầng trên nhu các vị quan lại, hào lý cũng chỉ dùng một
cách khiêm tốn.
Dăm ba ngày hoặc cà tháng mới thấy một người đi bán loại
hàng này. Hàng hóa cũng không nhiều, chỉ một tay nải trong ấy
gôm nhiều mặt hàng chủ yếu là lụa, lãnh, xuyến. Mặc dù được
gọi là cây lụa, cây lãnh nhưng chiều dài chỉ khoảng 7-8 mét vừa
đủ để may một bộ đồ hay hai cái quần.
Khách hàng cũng chỉ là những người quen biết, có tiếng
tăm là giàu có, bác Lý, cụ Hương, ông Cửu, ông Bá,...
Những người thường thường bậc trung thường nhật chỉ dùng
vải, chủ yếu là vải ta, dệt bằng sợi bông. Ngày Tết hay ngày
cưới người ta mới dám mặc lụa tơ tằm. Xong dăm ba ngày lễ
Tết, giặt giũ kỹ lưỡng rồi đem cất trong rương trong tủ chờ
đen dịp sau.
- Chuyện cây thước đo vải
Một bài vè địa phương có đề cập đến cây thước
Trời mưa lâm râm
Cây trâm có trái
Cây thước đo vài
Cây cài làm dưa...
- Cây thước để đo vải. Nói là thế nhưng cây thước để đo vài
còn gọi là thước ta, nó dài ngắn, non, già tùy theo từng vùng,
từng người. Thước đo vài dài cỡ hai thước mộc, nếu tính theo
mét thì dài độ 84cm. Tuy nhiên các cây thước đo vải tùy theo
mua hay bán. Có cây chỉ chừng 78cm. Việc đo lường ngày xưa
dường như không được quy định đúng mức. Vì vậy vải vóc
được bán theo giá thỏa thuận. Từ việc đo lường đến giá cả đều
không có gì là thống nhất có lẽ vì trình độ yếu kém ấy mà hóa
ra thiếu văn minh?
Chuyện vải vóc
“Ăn ham chắc, mặc ham dày” là câu châm ngôn của người
dân quê. Vải đáp ứng được tiêu chuẩn trên. Người nông dân
một nắng hai sưomg, khổ cực là thế thì việc mặc cần chắc và dày
để đủ sức chịu đựng với việc khuân cao vác nặng.
Cây bông vải là cây dễ trồng, nó gần như thích hợp với
mọi loại đất đai, nơi nào cũng trồng được. Việc thu hoạch và
chế biến thành sợi hầu như người phụ nữ nào cũng làm được.
Có lẽ vì thế mà bất cứ một xóm làng quê nào cũng có khung
dệt và khung kéo sợi. Sau mùa lúa, những lúc nông nhàn họ
lại quay sang làm nghề thủ công trong đó có việc trồng bông
kéo sợi.
Cuộc sống vất vả nhưng vẫn là chiều hướng đi lên, người ta
bắt đầu cải cách nghề dệt. Trong thời kháng chiến chống Pháp
ờ Bình Định có vài xi ta, rồi xi-ta chỉ đánh. Mặt hàng này cung
cấp cho bộ đội và cả mọi người. Đây là nét đặc biệt của Liên
nguon tai.lieu . vn