Xem mẫu

  1. QD.0df9Ĩ- f\ị S ^ V
  2. D ự ÁN CÔNG BỐ, PHỔ BIỂN TÀI SẢN VĂN HÓA, VẢN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM (El, Ngõ 29, Tạ Quang Bửu - Bách Khoa - Hà Nội Điện thoại: (043) 627 6439; Fax: (043) 627 6440' Email: duandangian@gmail.com) BAN CHÍ ĐẠO 1. G S. T SK H . TÔ NG Ọ C T H A N H Trư ởng ban 2. T hS. H U Ỳ N H V ĨN H ÁI P h ó Trư ởng ban 3. G S. TS. N G U Y Ễ N X U Â N K ÍNH P h ó T rư ởng ban 4. Ô ng N G U Y Ễ N KIEM ủ y viên 5. N h à văn Đ ỏ KIM CU Ô N G ủ y viên 6. T S. T R Ầ N H Ữ U SƠ N ủ y viên 7. N h à giáo N G U Y Ễ N NG Ọ C Q UA N G ủ y viên 8. T h S . Đ O À N T H A N H NÔ ủ y viên GIÁM ĐỐC VĂN PHÒNG D ự ÁN ThS. ĐOÀN THANH NÔ
  3. C hịu trách n h iệm n ộ i dung: GS.TSKH. TÔ NGOC THANH Thẩm đ inh: HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH BẢN THẢO
  4. LỜI GIỚI THIỆU Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (VNDGVN) là một tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, nằm trong khôi Liên Hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Quyết định sô' 82/NV, ngày 01/03/1967 của Bộ Nội vụ thay mặt Chính phủ đã cho phép Hội Văn nghệ dân gian thành lập và hoạt động trên phạm vi toàn quốc và có mối liền hệ nghề nghiệp với các tổ chức khác ở trong nước và nưóc ngoài. Tôn chỉ mục đích của Hội là "Sun tầm, nghiên cứu, phổ biến và truyền dạy vôn văn hóa-văn nghệ dân gian các tộc người Việt Nam". Trên cơ sở thành quả của các công việc trên, Hội là một trong những đội quân chủ lực góp phần bảo tổn và phát huy những giá trị văn hóa-văn nghệ mang đậm bản sắc dân tộc đã được ông cha ta sáng tạo và giữ gùi trong suốt mây nghìn năm của lịch sử dân tộc. Những giá trị sáng tạo đó thể hiện môi quan hệ của các tộc người Việt Nam vói thiên nhiên thông qua các tri thức sản xuâ't nông nghiệp; với xã hội-thông qua phong tục tập quán, hội xuân; với nhân sinh quan thông qua các nghi lễ vòng đời người; vói vũ trụ và thếgiói tự nhiên đã được siêu nhiên hóạ thông qua các loại hình tín ngưỡng tôn giáo; với lý tưởng thẩm mỹ thông qua các sáng tạo văn học nghệ thuật. Ở mỗi tộc người Việt Nam, những
  5. linh vực và hình thái văn hóa-văn nghệ này lại được thế hiện ; trong một sắc thái riêng. Chính kho tàng văn hóa đa dạng đó là ị nội dung, là đối tượng hoạt động của hội viên Hội VNDGVN. Sau hon bôn mươi năm hoạt động, được sự lãnh đạo của Đảng ị và sự chăm sóc của Nhà nước, Hội VNDGVN đã lởn mạnh với ■ gần 1200 hội viên. Số công trình do hội viên của Hội đã hoàn 'í thành lên đêh gần 5.000 công trình, hiện đang được lưu trữ và ị bảo vệ tại Văn phòng Hội. * Nay, được sự quan tâm của Ban Bí thư và Thủ tướng Chính ị phủ, Dự án "Công bô' và phổ biên tài sản văn hóa-văn nghệ dân • gian các dân tộc Việt Nam" đã được phê duyệt. Trong thòi gian l 10 năm, Dự án sẽ chọn lọc khoảng 2000 công trình trong sô' bản » thảo Hội lưu trữ của hội viên và xuâ't bản dưới dạng các cuôh i sách nghiên cứu, sưu tầm. Trước mắt trong giai đoạn đầu (2008 - { 2012) chúng tôi dự định sẽ chọn xuâ't bản 1.000 công trình. ị Hy vọng, các xuất bản phẩm của Dự án sẽ cung câp cho bạn đọc Ị trong và ngoài nước một bộ sách mang tính chất bách khoa thư về ■ các sắc màu văn hóa của các tộc người Việt Nam, phục vụ thiết thực vào việc tra cứu, mở rộng hiếu biết của bạn đọc về truyền thông văn ị hóa giàu có và độc đáo đó; góp phần xây dựng nền "Văn hóa Việt 4 Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". ị Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Dự án mong nhận được ý kiến chi bảo kịp thòi cửa bạn đọc gần xa. Xin chân thành cảm ơn. Trưởng Ban Chỉ đạo thực hiện Dự án GS.TSKH. TÔ NGỌC THANH
  6. PHẦN I NGHÈ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HƯNG YÊN Tác giả: Xuân Thiêm
  7. CHƯƠNG I S ự HÌNH THÀNH CÁC NGHÈ VÀ LÀNG NGHÈ TRUYỀN THÓNG Thời kỳ chiến tranh ác liệt, tất cả vì tiền tuyến, mọi người cắn răng chịu đựng mọi thử thách, gian khổ, khó khăn, chết chóc, bom đạn để giành cho được độc lập thống nhất tổ quốc đã qua rồi. Đến thời kỳ xây dựng đất nước, một vấn đề cấp thiết đặt ra cho mỗi chúng ta là phải tìm hiểu toàn diện về quê hương. Đây không đơn thuần là chuyện tâm linh tìm trở về nguồn mà còn là vấn đề tự khám phá mình trong quá trình phát triền, đề làm sống lại các tiềm năng thiên nhiên, tiềm năng kinh tế, các giá trị đạo đức, tinh thần, tinh hoa sáng tạo của ông cha ta ngàn xưa nhằm giúp chúng ta có thêm hành trang trong tiến trình hòa nhập với các vùng miền khác trong nước và trên thế giới. Nói đến sự hình thành các nghề và làng nghề, cần thiết phải nghiên cứu về môi trường đã sản sinh ra mỗi nghề truyền thống, đó là làng xã trên vùng đất cổ Hưng Yên. Từ thuở Vua Hùng dựng nên nhà nước Văn Lang, chia nước ra làm 15 bộ, đứng đầu mỗi bộ là Lạc tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn do người có tuổi cao, có đức lớn
  8. đứng ra cai quản. Làng xã Hưng Yên cũng như mọi vùng miền trong cà nước được hình thành trong quá trình tự nguyện cố kết với nhau giữa những người dân lao động, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Mỗi chòm, xóm, kẻ, xá, trại, thôn, ấp ... xưa kia được ví như một pháo đài có sức mạnh kỳ diệu, chống lại sự phá hoại, xâm lấn, thậm chí nguy cơ hủy diệt của bão lụt, thú dữ và các thế lực ngoại bang. Dưới sự cai quản của người được suy tụng là già làng, cả cộng đồng cư dân chung sức cầy sâu quốc bẫm, hái lượm, săn bắt, chống lại mọi tai họa để trụ vững và phát triển đời sống vật chất. Sự tự nguyện liên kết cộng đồng còn thể hiện trong mọi sinh hoạt tâm linh, tôn giáo, trong xây dựng và thực thi hương ước, lệ tục, lễ hội ... góp phần tạo nên diện mạo văn hóa truyền thống một vùng đất. Trải qua bao nhiêu biến thiên lịch sử, làng xã Việt chẳng những trụ vững mà còn phát triển theo chiều, hạt nhân bao giờ cũng là sự gắn kết, hiệp lực cộng đồng cư dân. Hạt nhân ấy được tạo nên bởi nhiều yếu tố: Yếu tố về ranh giới cư vực, quan hệ tín ngưỡng tôn giáo, quan hệ dòng họ, huyết thống, ngành nghề lao động ... Làng xã Hưng Yên hình thành trên vùng châu thổ sông Hồng có phù sa màu mỡ bồi đắp rất phù hợp với canh tác nông nghiệp lúa nước nhưng chẳng mấy năm được yên ổn vì hạn hán và lũ lụt đe dọa. Hưng Yên phải huy động một nguồn nhân lực, vật lực cực kỳ to lớn đắp nên dải đê dài 80km ngăn chặn nước sông Hồng và sông Luộc tràn vào mỗi lần bão gió và lũ lụt. Lại còn phải dốc sức người sức của vào các công trình đắp đê bối và * xây dựng hệ thống sông ngòi, mương máng nội đồng, nội tỉnh với chiều dài trên 125km.
  9. Trong những cuộc giao tranh chống ngoại xâm của dân tộc, làng xã Hưng Yên cũng là pháo đài tự nguyện, tự quản chặt chẽ đề chặn bước tiến của quân thù, tiêu diệt sinh lực địch ngay từ ngoài chân ừe, bờ dậu. Nhân dân Việt Nam đã đúc kết ra chân lý “còn làng thì còn nước”. Thời Trần Nhân Tông, hưởng ứng lời hiệu triệu Diên Hồng, làng xã Hưng Yên vang lên lời hô “Sát Thát”, làng này dựng trên lũy thép, tường lửa chặn địch; nơi khác khéo léo thực hiện “kế thanh dã” (vườn không nhà trống) làm thất bại dã tâm thắng nhanh, cướp nhiều của địch. Dưới ngọn cờ chính nghĩa, bất kể thời kỳ nào, làng xã Hưng Yên cũng “người trăm họ đều là lính”. Đặc biệt là trong những năm diễn ra cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 - 1892) do ông Đinh Gia Quế và Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, làng xã Hưng Yên - không chi cừ con em tham gia nghĩa quân mà từng xã còn thực sự là làng chiến đấu đánh thắng nhiều trận với danh nghĩa “quân cụ tán”. Sau lũy ừe làng là nơi nghĩa quân nấp giấu an toàn, nơi tàng trữ vũ khí, lương thực cho nghĩa quân được dồi dào. Người làng Xuân Dục (Mỹ Hào) thà chịu chết chứ không chịu chỉ cho kẻ thù mồ mả tổ tiên Hiệp Thống Nguyễn Thiện Thuật. Cư dân Lôi cầu (Khoái Châu) thà chịu cảnh giặc đốt nhà, giết người chứ nhất định không đầu hàng chúng. Theo hương ước, trai đinh 18 tuổi răm rắp thực hiện nghĩa vụ tuần phòng canh gác, trụ cột của lực lượng vũ trang bào vệ làng xã. Truyền thống tự nguyện liên kết cộng đồng cư dân ừong làng xã càng có vaỉ trò quan trọng trong công cuộc lao động làm ra sản phẩm mang tính chất tự cung tự cấp nhằm nuôi sống minh và góp phần nuôi làng, dựng nước. Tùy theo điều kiện tự nhiên, môi trường, trình độ, năng khiếu, đặc biệt là nhu cầu
  10. thiết yếu của dân cư từng vùng đất mà các nghề thủ công xuất hiện. Sự hình thành các làng có sự tập trung đông người cùng làm một nghề gọi là làng nghề. Hưng Yên nằm giữa châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, vốn là vùng sình lầy, lau sậy rậm rạp. Sau hàng ngàn năm được bàn tay con người khai phá cùng với sự biến đồi về địa lý, địa chất, hàng năm được phù sa sông Hồng, sông Luộc bồi đắp nên vùng đất sình lầy đã trở nên mầu mỡ, phì nhiêu, được liệt vào loại “thượng đẳng điền” thích hợp với cấy lúa, trồng màu và các loại cây ăn trái. Ở đây không có rừng núi, lại xa biển, chỗ nào cũng có làng xóm với lũy tre xanh bao bọc trên một địa hình tương đổi bằng phẳng với hệ thống ao hồ, đầm vực dày đặc, sông ngòi, mương máng chằng chịt. Hưng Yên thuộc vùng nhiệt đới khí hậu gió mùa, độ ẩm cao, lượng mưa khá lớn. Tính theo hệ thống sông nước, ngòi mương ấy, có thể chia Hưng Yên thành ba khu vực: Vùng trên địa hĩnh tương đối cao hơn cả gồm các huyện Văn Giang, Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ. Đất ở đây được phù sa liên tục bồi đắp do rạn vỡ đê từ Phi Liệt đến cửa sông Đuống suốt nhiều năm liền. Vùng giữa gồm các huyện Khoái Châu, Ân Thi, Kim Động và một phần ngoại vi thị xã Hưng Yên. Vùng dưới, coi như khu có đất rộng nhưng lại trũng, vào mùa mưa thường bị ngập lụt. Hưng Yên không có rừng, tất nhiên không có lâm thổ sản. Không có biển nên cũng không có các loại hải sàn. Là đất thuần nông, nhiều ao chuôm, lại được bao bọc bời hai sông Hồng và sông Luộc nên Hưng Yên có nguồn thủy sinh nước ngọt dồi dào. Cá lớn có các loại trắm, mè, trôi ... Cá bé có trạch, lươn, cua, tép, tôm, hến, ốc, ếch, nhái ... Có một loại cá mà thiên nhiên ban tặng cho Hưng Yen rất nên nhắc đến, đó là cá mòi.
  11. Cá mòi thuộc loại cá nước lợ nhưng đến mùa sinh sản từ tháng giêng đến tháng ba Âm lịch chúng ngược dòng sông Hồng lên Mạn Trù, Tân Châu (Khoái Châu) để sinh sản. Cá mòi có vị thơm ngọt, giàu chất đạm đã trở thành món ăn quý, một loại đặc sản vùng đất bãi Hưng Yên. Hàng năm, vùng đất này còn được hưởng lộc thiên nhiên dành cho, đó là nguồn cá bột từ trứng cá kết lại thành đám, thành màng nổi trên mặt sông Hồng, sông Luộc. Mỗi mùa nước lũ bà con sống ven sông vớt lên đem về ương giống. Ngoài các loại cá kể trên, Hưng Yên còn nhiều vật nuôi, đó là vật nuôi trâu, bò, lợn, gà, ngan, ngỗng...; các loại cây trồng: Lúa, ngô, khoai, sắn, nhãn, táo, sen, dưa hấu, dưa hồng ... cùng với nhiều loại rau, đậu khác. Mỗi vùng dân cư với nhiều nét riêng về canh tác, về môi trường thiên nhiên, về tập quán sinh hoạt, lại hình thành một số nghề thủ công phù hợp. Vì vậy, ngoài làng xã có nhiều mẫu số chung: Làm lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm, làm đậu, làm bún, làm tương, chẻ lạt, cạp rổ ..., ta có thể phân ra các khu vực có nghề thủ công truyền thống như sau: - Khu dân cư ven sông, có đê, bãi sa bồi, vạt cỏ rộng. Ngoài làm ruộng, làm bãi, người dân còn săn bắt, chăn nuôi, chài lưới. Từ đặc điểm này đã hình thành các nghề đánh bắt cá, bẫy chim, thà lưới, đơm tát, gột cá bột, bán cá giống, đan lờ, đan thuyền, ép mía, kéo mật làm đường, se đay, se sợi, đan lưới, đan võng, trồng dâu nuôi tằm. - Khu cư dân chuyên canh lúa màu, tiêu biểu cho nền sản xuất nông nghiệp lúa nước với năng suất cao. Nghề thủ công đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và lao động của cư dân vùng này là
  12. đan thúng, đan gàu, đan rổ, rá, đóng cối xay, đẽo cày, làm bừa, rèn dao, làm nghề mộc, nấu rượu, nung vôi, đóng gạch, làm nghề xây dựng ... - Vùng ven các trục đường giao thông quan trọng như đường 5, đường 39A, 39B, cận giang, cận thị (gần sông, gần chợ) tiếp cận nhanh chóng với thị trường để dành lưu thông hàng hóa. Cái mạnh của vùng này là bắt nhịp nhanh với sự phát triển kinh tế, thương mại đô thị. Các nghề truyền thống ở đây nhờ vậy có sự tăng trưởng nhanh về thị phần cũng như về quy mô sản xuất. Một số mặt hàng sớm gây được uy tín như tương Bần, vải Rồng, nhuộm Huê cầu, Trổng Lưu Thượng, gốm Xuân Quan, đồ đồng Đông Mai, hương sạ Cao Thôn, nhãn lồng Phố Hiến ... Nghề truyền thống của Hưng Yên khá phong phú, đa dạng. Nó góp phần tạo nên diện mạo hoàn chỉnh và hấp dẫn về văn hóa truyền thống của một vùng đất cổ. Người Hưng Yên cũng như cư dân mọi miền trên đất nước, qua các thăng trầm biến đổi của lịch sử, đã bám chắc vào môi trường thiên nhiên để tồn tại, nghề truyền thống vì vậy mang đậm dấu ấn cua quá trình khai hoang lập ấp, lập làng, dấu ấn của cư dân nông nghiệp lúa nước, của quá trình tích hợp tiếp biến với văn hóa ngành nghề của khu vực, của Thăng Long Hà Nội. Đến đây, thiết nghĩ đến vai trò của nghề và thợ giỏi của Hưng Yên đóng góp vào sự phồn vinh của trái tim dất nước: Thù đô Hà Nội. Trong cuộc Hội thảo Phố Hiến tổ chức gần đây, nhà nghiên -cứu khoa học xã hội Nguyễn Vinh Phúc có bài tham luận đặc s ắ c , trong đó khẳng định: “Đa số các nghề đem lại sự phồn —/inh cho Thăng Long, tạo dựng ra cả một quy hoạch phường
  13. phố với những tên phố bắt đầu bằng chữ Hàng cổ kính là từ tứ ’ trấn đưa về trong đó có Hưng Yên. Hưng Yên vốn có nghề dệt ra vải đẹp.như các làng Phong Cốc, Hưng Quất, Mậu Duyệt, Ị Triều Dương ... nổi nhất là làng Rồng tức Như Lân (Văn Ị Giang). Vải Rồng từng được người Thăng Long ưu chuộng ’ nên Hà Nội có phố Hàng Vải thuộc phường Đông Hoa chính Ị là do dân làng Rồng lập ra từ thế kỷ XVIII. Lụa Hưng Yên thì Ị có Vân Phương (Tiên Lữ) cũng khá nồi tiếng từng có mặt ở I phường Đông Lạc tức phố Hàng Đào, được các bà các cô một Ị thuở ưa chuộng gọi là lụa cống Vân đề phân biệt với lụa vân Vạn Phúc (Hà Đông). Một số nghề thủ công khác của Hưng Yên cũng hiện diện ở Thăng Long - Hà Nội, cũng choán một dãy phố riêng, đó là nghề nhuộm thâm. Nghề này không chỉ nổi ở Thăng Long ' - Hà Nội mà là trên cả nước, chẳng thế mà đi vào ca dao “Ai về Đồng Tỉnh Huê cầu, Đồng Tỉnh bản thuốc Huê c ầ u nhuộm thâm ”. Thợ nhuộm Huê cầu (Văn Giang) kéo theo thợ nhuộm Liên Xá, Liêu Xuyên (Yên Mỹ) về Thăng Long ; lập nghiệp, lập ra dãy phố Thợ Nhuộm trên đất của làng j Đông Mỹ thuộc phường c ổ Vũ. Bài vị thờ thần ở Đình Đông ! Mỹ (số 18 Thợ Nhuộm) vẫn ghi tên vị Thành Hoàng làng I Liêu Xá. Nhưng nếu nói về một nghề ở Hưng Yên đã góp ! phần lớn cho nền tài chính cả nước và Thăng Long thì phải là nghề đúc đồng. Từ thuở Lê Trung Hưng (thế kỷ 16), thợ Ị đồng quê ở Đông Mai, Châu Mỹ, Lộng Thượng, Đào Viên, ị Thái Ty, Điện Tiền, Đại Đồng (khi đó thuộc huyện Đường ị An) đã về Thăng Long lập phường đúc tiền cho triều đình, Ị nay là phố Lò Đúc. Hiện nay trong ngõ 79 Lò Đúc có ngôi I
  14. chùa gọi là Chùa Tổ còn thờ ông tổ làng nghề đúc đồng quê ở Cầu Nôm. Sau đó thế kỷ XVIII, phường đúc chuyển lên bờ Đông Hồ Tây lập ra Ngũ Xã đã đúc nên pho tượng Trấn Vũ, niềm tự hào của nền đúc đồng ở Việt Nam. Có một nghề nữa phục vụ dân sinh nhưng tồn tại khá lâu ở Thăng Long - Hà Nội cho tới tận ngày nay là nghề làm quạt. Thợ quạt hai làng Hải Yến (tức làng Hới) huyện Tiên Lữ, làng Đào Xá (tức làng Đầu), huyện Ân Thi lên Thăng Long tụ hợp ở thôn Thuận Mỹ, ngày nay là phố Hàng Quạt. Tại đây, họ lập một ngôi đình ở nhà số 4 gọi tên là Xuân Phiến Đình (Đình quạt Xuân) làm nơi sản xuất, bán buôn, bán cất quạt. Ngày trước có các loại quạt nan tre, nan đồi mồi, nan sừng trâu, nan ngà voi. Quạt được phất bằng lụa, the, gấm ... song phổ biến là quạt nan tre phất giấy nhuộm màu. Cái quạt khiêm tốn vậy mà tồn tại dài lâu với lời thơ tôn vinh: “Mát mặt anh hùng khỉ tắt gió, Che đầu quân từ lúc sa mưa Các nghề trên hội tụ ở Kinh kỳ, chắt lọc tinh hoa, nâng cao kỹ thuật, làm ra sản phẩm một thời gọi là Kẻ Chợ được thị trường chấp nhận, ngay cả khách phương Tây cũng đánh giá cao. Những ngành nghề này đáp ứng nhu cầu của giới thượng lưu cũng như quảng đại quần chúng. Như vậy, nhờ thị trường Thăng Long mà các nghề gốc và người làm nghề tứ trấn được tinh xảo lên và cuối cùng các nghệ nhân trụ lại được ở kinh đô, sau 3 đời trở thành người kinh đô chính tịch (tam đại thành tổ). Nhưng họ vẫn không quên quê cũ, vẫn lập đình đền gọi là vọng từ để thờ vọng về cố hương ...”
  15. CHƯƠNG II MỘT SÓ NGHÈ VÀ LÀNG NGHÈ TIÊU BEÈU VÙNG TRÒNG VÀ CHÉ BIÉN NHÃN Nhãn có mặt khắp các vùng Đông Nam Á. Nhưng nhãn được ưa chuộng nhất, có tiếng vang xa nhất vẫn là nhãn Hưng Yên. Vì vậy có câu ca: “Của ngon vật lạ trăm vùng. Không bằng nhãn tiến, nhãn lồng H ung Yên Nhãn ngon được trồng tập trung quanh vùng Phố Hiến gồm thị xã Hưng Yên và phụ cận Hồng Nam, Hiến Nam, Liên Phương, Xích Đằng, Thù Sĩ, Phương Chiểu, Đằng Châu, Lam Sơn,... Người trong vùng gọi nhãn tiến vì loại này ngon, cùi dày, róc vỏ, có vị ngọt thơm được kén làm sản vật quý dâng tiến vua. Nhãn tổ là nhãn được lấy giống từ cây nhãn tổ rất lâu đời qua hàng mấy trăm năm bão gió, cây nhãn tổ vẫn tồn tại xanh tốt, cung cấp nhãn giống cho nhiều nơi. Nhãn lồng là loại nhãn quý, quả từng chùm trĩu nặng, thơm ngon. Để giữ cho chuột bọ, sâu rệp và dơi không phá hoại nhãn, người ta đan lồng bọc lấy chùm quả. Lồng bọc nhãn giữ được chuột bọ mà vẫn có cho nắng gió nuôi dưỡng quả tươi. Do vậy mà bà con gọi là nhãn lồng, tên gọi ấy lâu dần thành quen. Cũng có người nói nhãn đem đến tiến vua phải kén ngựa khỏe có sức bền đặc biệt để chuyên chờ.
  16. Muốn rút ngắn thời gian, ngựa phải lồng nước kiệu. Thêm lẽ đó mà nhãn có tên là nhãn lồng. Người sành ăn còn phân biệt ra nhiều loại nhãn với chất ngọt và hình dáng khác nhau. Đó là nhãn nước, nhãn đường phèn, nhãn cù, nhãn thóc, nhãn điếc ... Muốn có một cây nhãn chuẩn người ta thường trồng bằng ươm nhãn hột hoặc chiết cành từ một cây nhãn mẹ sai quả, ngọt nước thơm hương, không ướt cùi. Quả đem ươm được chọn từ những chùm nhãn thường ở lưng chừng vầng tán cây trở lên. Bóc nhãn lấy hạt rồi đem gieo vào vạt đất xốp ở độ sâu từ 1 - 2cm, không đọng nước và thoáng mát. Ươm hạt tháng sáu, tháng bảy năm nay thì sang tháng giêng, tháng hai năm sau hạt nẩy mầm và phát triển thành cây con cao 30 - 40cm. Lúc này có thể mang cây ra ừồng nơi cố định. Khi tách cây con, phải giữ cho bầu không nứt, không vỡ, có đường kính từ 25 đến 30cm, trồng trên khu đất đã chuẩn bị kỹ, tốt nhất là nơi đất xốp pha cát. Người làm vườn thích trồng cây chiết thường được bảo tồn được ưu điểm của cây mẹ về số lượng và chất lượng quả. Tỷ lệ thoái hóa ở vườn cây chiết thấp hơn so với vườn cây ươm từ hạt. Chiết cây đòi hỏi kỹ thuật cao ở mấy khâu: Chọn cành bóc vỏ, bó bầu và chăm sóc cho bầu nảy rễ. Mùa xuân là thích hợp cho việc cắt bầu trồng xuống đất. Ờ thời tiết này, cây đâm chồi nảy lộc và phát triển nhanh. Từ khi ra hoa đến khi được hái quả, nhãn trải qua quá trình từ 100 đến 120 ngày tức từ 3 đến 4 tháng. Từ nhãn thơm ngọt thường được gọi là nhãn nước một đến khi được thu hoạch gọi là nhãn nước ba, khi đó nhãn đã
  17. chín tới độ ngọt sắc, cùi đẫy nước, vỏ mỏng, da sáng. Nhãn tươi là nhãn dùng sau khi hái từ trên cây. Nhãn qua chế biến thành mứt ngọt gọi là long nhãn. Làm long nhãn là một quy trình kỹ thuật có tính gia truyền. Mỗi mùa vụ, từng gia đình, dòng họ lại tích lũy thêm kinh nghiệm về bóc vỏ, phơi, sấy long nhãn. Nhãn quả là một đặc sản quý, ngon miệng và có tác dụng rất tốt trong việc bồi dưỡng cơ thể. Long nhãn còn là vị thuốc quý trong thang thuốc Bắc, trong vò rượu ngâm. v ề giá trị kinh tế, sau khi trồng từ 3 - 5 ngày, cây nhãn đã cho thu hái quả. Sau vài chục năm cây mới có cỗi. Chăm bón tốt, được trồng trên đất thích hợp, cây có bổn, năm mươi tuổi vẫn sai quả. Trung bình mỗi cây nhãn có từ một tạ đến một tạ hai quả. Đi theo nhãn có nghề phụ nuôi ong lấy mật mang lại hiệu quả cao vì mật long nhãn rất quý. Thân cây nhãn được dùng làm đóng đồ thờ, tủ chè, trường kỷ và nhiều vật dụng trong gia đình nông nghiệp. Trên toàn tỉnh Hưng Yên, chỗ nào cũng có nhãn. Nhưng để luôn được mùa nhãn, nghĩa là có thu hoạch cao và ổn định từng mùa vụ, người đất nhãn đã rút ra ba yếu tố quyết định: biết làm chủ khoa học kỹ thuật, làm chủ được thời tiết và phải rất tâm huyết, rất gắn bó với nghề trồng nhãn, với đời sống cây nhãn. Tính theo thời điểm hiện nay (2006) Hưng Yên có khoảng 5.500 héc ta thâm canh nhãn các loại, chiếm 80% diện tích cây ăn quả. Trong đó, trên 3.200 héc ta được trồng tương đối tập trung ở khu vực thị xã Hưng Yên và các huyện Tiên Lữ, Kim Động và Khoái Châu. Diện tích nhãn đến tuồi cho khai thác là
  18. 4.000 héc ta, với sản lượng ước đạt từ 19 đến 20 ngàn tấn quả, doanh thu khoảng từ 150 tỷ đến 180 tỷ đồng, chiếm từ 8 đến 10% giá trị sản xuất của ngành trồng trọt. Người trồng nhãn lâu năm, qua nhiều thăng trầm của nghề, có câu nói cửa miệng: “trồng nhãn cũng như nuôi người, phải hiếu tính nết của tùng gốc cày nhãn ngon đều đặn ra quả ngọt, thơm, không phân biệt trà sớm, trà trung hay trà muộn Một trong những bí quyết của người trồng nhãn là kinh nghiệm nắm bắt của sự thay đồi của thời tiết để có cách chăm sóc cây hợp lý. Thí dụ khi xuất hiện mưa a xít, phải kịp thời phun nước tẩy rừa cho cây; khi nắng nóng kéo dài phải tưới dưỡng lá và gốc. Tùy theo độ tuổi của cây và điều kiện thời tiết mà có quy trình cho cây “ăn” được khoa học, hợp lý. Gia đình nào thực hiện đúng quy trình kỹ thuật thì nhãn vườn gia đình ấy chẳng những cho năng suất cao mà còn có mẫu mã đẹp, hàm lượng đường trong cùi luôn đạt tiêu chuẩn. Gần đây, Sở Khoa học và công nghệ tỉnh phối hợp với Hội nhãn lồng tỉnh đã có kế hoạch hàng năm mở một số lớp tập huấn nhằm trang bị kiến thức làm cho cây nhãn thực sự là cây trồng xóa đói, giàm nghèo và làm giàu của người dân xứ nhãn. LÀNG ĐÔNG TÀO NUÔI GÀ THỊT VÀ GÂY GIỮ GIỐNG Nước nào cũng có gà. Nước ta, trong Nam ngoài Bắc, miền ngược hay miền xuôi, nơi nào cũng nuôi gà. Nhưng gà Đông Tảo nổi tiếng từ lâu đời. Gần đây, các nhà khoa học của Viện chăn nuôi quốc gia đã lên tiếng cảnh báo nguy cơ mai một của loài gà “độc nhất vô nhị trên thế giới” này và đề ra chương trĩnh hành động nhằm bảo vệ nguồn gien gà Đông Tảo.
  19. Đông Tảo thuộc huyện Khoái Châu, giáp Văn Giang, cách thị xã Hưng Yên khoảng 35 km. Gà Đông Tảo xuất hiện từ bao giờ, không tìm thấy thư tịch nào ghi rồ. Chỉ biết rằng, từ lâu lắm rồi gà Đông Tảo đã nổi tiếng to con, ngon thịt, đẹp dáng, dễ nuôi. Theo gia phả họ Nguyễn Trọng, họ lớn nhất trong làng, thì gia đình ông Nguyễn Trọng Tích đã trải qua nhiều đời nuôi dưỡng gà Đông Tảo. Hiện nay trong vườn nhà ông Tích đang có giống gà Đông Tảo thuần chủng và đang theo đuổi một kế hoạch bảo tồn gien loại gà quý hiếm này. Gà Đông Tào là giống gà thịt, thể hiện ở năng suất thịt cao tư 70 đến 82%, có sức đề kháng cao hon hẳn mọi giống gà khác, rất ít mắc bệnh đường hô hấp. Gà Đông Tảo thuần chủng được nhân dân đúc kết thành mấy tiêu chí ngoại hình: Đầu gộc tre, mình cốc (thân giống con cốc), cánh vỏ trai (hai cánh như hai vỏ con trai úp sát vào thân), đuôi nơm (giống chiếc nơm úp cá loe phía dưới), da đỏ tía hoặc vàng nhạt, chân to. Khi còn nhỏ, chân phát triển bình thường. Càng lớn chân gà phát triển càng to, bước đi chắc nịch, bệ vệ nâng cái chân khổng lồ lên cao, lừng lững át hẳn các loại gà khác. Gà trống có thể nặng tới 4 - 5kg, gà mái cũng nặng tới 3.5 kg. Gà trống có hai màu lông cơ bản: màu mận chín pha lẫn màu đen gọi là mã mận và màu đen óng ánh gọi là mã lĩnh. Gà mái có ba màu lông cơ bản là vàng nhạt (mã nõn chuối), nâu nhạt (mã chuối khô) và trắng sữa. Vì gà Đông Tảo có dáng hình đẹp, màu sác lộng lẫy nên nhiều gia đình chọn mua về nuôi làm cảnh, nhất là chân gà sành chơi mấy thành phố lớn.
  20. Gà Đông Tảo rất thích hợp với cách nuôi thả. Thức ăn chính là thóc, cám, ngô, cám gạo trộn lẫn với rau bèo. Riêng gà dưới một tháng tuổi (gà bột) thì cho ăn thêm thóc ngâm nẩy mầm và cá, tép để gà chóng lớn. Vườn nuôi và chuồng trại phải được quét dọn sạch sẽ và định kỳ phun thuốc sát trùng. Một số địa phương đã về tận gốc Đông Tảo để mua giống gà Đông Tảo thuần chủng mang về lai tạo với một số loại gà giống khác tạo ra gà thịt thương phẩm tăng trọng nhanh, giá trị kinh tế cao. Trải qua nhiều năm có chiến tranh, bom đạn địch không ngừng trút xuống vùng quê màu mỡ này, gà Đông Tảo cũng long đong theo người. Đã có một thời gian dài, gà Đông Tảo vắng bóng trên các chuồng trại dẫn đến nguy cơ bị mai một. Theo sự khảo sát của Viện chăn nuôi quốc gia gần đây (2004 - 2005) giống gà thuần chủng Đông Tảo còn được nuôi dưỡng, bâo lưu gien ở một số xã của Yên Mỹ, Yên Hào, Khoái Châu, Văn Giang thuộc Hưng Yên. Nhưng mang lại hiệu quả cao cũng như tích lũy được nhiều kinh nghiệm, trí thức về nuôi dưỡng giống gà này vẫn là cơ sở chăn nuôi của ông Nguyễn Trọng Tích ở Đông Tảo. Ông coi nghề nuôi gà Đông Tảo chẳng những là nguồn thu chính đáng, một nghề cha truyền con nối của nhiều thế hệ dòng họ ông mà còn là cách trà ơn, trả nghĩa mảnh đất ông được sinh ra làm người. Ông thường khoe người cha của ông là Nguyễn Trọng Dốc với danh xưng “vuagà Đông Tảo”khi tao loạn, chạy giặc càn, tới đâu cũng mang cặp gà giống. Khi cụ qua đời, bà con thương tiếc làm thơ viếng cụ, có câu rằng: “Chống giặc trường kỳ bao khắc nghiệt. Giữ gà hy vọng buổi hồi hư ơng. . . ”
nguon tai.lieu . vn