- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Học theo dự án - một định hướng đổi mới phương pháp học tập của sinh viên ngành Giáo dục mầm non
Xem mẫu
- HỌC THEO DỰ ÁN - MỘT ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON
LÊ THỊ NHUNG - NGUYỄN TUẤN VĨNH
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên (trong đó có giáo viên mầm
non) là một chủ trương lớn của giáo dục đại học Việt Nam. Một trong những
việc làm quan trọng để đáp ứng chủ trương trên là đổi mới phương pháp
(PP) dạy học giúp sinh viên chủ động khám phá tri thức. Nghiên cứu này
giới thiệu về phương pháp học theo dự án (HTDA) như là một định hướng
đổi mới phương pháp học tập của sinh viên ngành giáo dục mầm non
(GDMN).
Từ khoá: học theo dự án, phương pháp học tập, giáo dục mầm non.
1. MỞ ĐẦU
Để đạt được mục tiêu “đổi mới cơ bản và toàn diện, tạo được sự chuyển biến cơ
bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế”, Nghị quyết về “Đổi mới cơ bản
và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020” đã chỉ rõ nhiệm vụ và
giải pháp đổi mới: “…Triển khai đổi mới PP đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học,
phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong hoạt động dạy và học; khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu
trên mạng Internet…”(Chính phủ, 2005)[2]. Như vậy, đổi mới về PP dạy và học là một
trong những nội dung của đổi mới giáo dục đại học hiện nay.
Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên, rất nhiều PP dạy
học chủ động đã được sử dụng phổ biến ở các trường tiên tiến trên thế giới và Việt
Nam. DHTDA là một trong những PP dạy học giúp người học có cơ hội được trải
nghiệm và phát huy năng lực tự học tối ưu. Đây là PP tổ chức việc dạy và học thông qua
các dự án hay công trình thực tế. Từ các dự án này, người học sẽ tham gia vào việc đưa
ra ý tưởng, thiết kế, quyết định các hoạt động có liên quan đến dự án. Với DHTDA,
người học sẽ phải làm việc theo nhóm và khám phá những vấn đề gắn liền với cuộc
sống, sau đó sẽ thuyết trình trước lớp và chia sẻ những gì họ đã làm được trong dự án
của mình. Trong buổi thuyết trình có thể sử dụng các phương tiện nghe nhìn, một vở
kịch, một bản báo cáo viết tay, một trang web hoặc một sản phẩm được tạo ra. Theo
Bransford và Stein (1993), phương pháp học dựa trên dự án chú trọng tới những hoạt
động học có tính chất lâu dài, liên ngành và thường gắn với những vấn đề nảy sinh từ
đời sống hiện tại. Bên cạnh đó, DHTDA còn tạo ra những cơ hội nhằm giúp người học
theo đuổi được những sở thích của mình, và tự mình đưa ra quyết định về câu trả lời hay
tìm ra giải pháp cho các vấn đề trình bày trong dự án. (Nguyễn Thành Hải, Phùng Thúy
Phượng, Đồng Thị Bích Thủy, 2010)[4].
358
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
Với những ưu việt của DHTDA, ứng dụng PP này trong đào tạo ngành giáo dục
mầm non là hết sức cần thiết, giúp sinh viên không chỉ có kiến thức lí luận và còn có kĩ
năng nghề nghiệp, làm nền tảng cho việc áp dụng DHTDA vào bậc học mầm non.
2. THỰC TRẠNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO
DỤC MẦM NON
Qua thực tế giảng dạy và đào tạo sinh viên (SV) ngành giáo dục mầm non tại
trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, chúng tôi nhận thấy SV chủ yếu sử dụng các
phương pháp học tập sau đây:
Một là PP nghe giảng và ghi chép. Đây được xem là PP học truyền thống trong
giáo dục đại học. Với PP nghe giảng và ghi chép, SV nắm vấn đề nhờ được giảng viên
thuyết trình và ghi chép lại. Trong thời gian ngắn, SV có thể nắm một lượng kiến thức
lớn và học hỏi cách sử dụng ngôn ngữ, khả năng sư phạm từ giảng viên. Tuy vậy, PP
này dễ khiến SV trở nên thụ động trong việc tiếp thu kiến thức dẫn đến dễ bị ức chế,
không phát huy được năng lực sáng tạo trong học tập, khả năng lưu giữ thông tin thấp,
khó vận dụng trong thực tế...
Hai là PP làm việc nhóm. SV có thể chia thành nhiều nhóm nhỏ, các thành viên
trong nhóm phải làm việc, trao đổi để đưa ra ý kiến chung. Ưu điểm của PP này là có
thể tích cực hóa người học. Trong quá trình làm việc nhóm, SV biết tự chủ, biết cách
phối hợp với các thành viên khác trong nhóm, nâng cao kĩ năng thuyết trình trước đám
đông. Tuy nhiên, PP này không phù hợp với những SV lười học, thiếu ý thức tự chủ,
chờ hưởng lợi từ kết quả của nhóm.
Ba là PP Seminar. Dưới sự điều khiển của giảng viên, SV trình bày, thảo luận,
tranh luận các vấn đề môn học đặt ra. SV chủ động hoàn toàn từ khâu chuẩn bị tài liệu,
trình bày nội dung, đưa dẫn chứng, trao đổi, thảo luận với các thành viên khác và cuối
cùng rút ra nội dung bài học. Để buổi Seminar thành công, SV buộc phải tự tìm hiểu
trước vấn đề sẽ thảo luận như đọc giáo trình, tài liệu liên quan, suy nghĩ về vấn đề sẽ
thảo luận để lựa chọn cho mình cách hiểu và bảo vệ quan điểm cá nhân. PP này cũng ít
hiệu quả đối với các SV yếu kém vì SV khó hệ thống, khó tiếp thu bài học.
Bốn là PP sử dụng sơ đồ tư duy. PP này rất hữu ích, giúp SV trình bày các ý
tưởng rõ ràng, liên kết, sáng tạo. Thông tin về vấn đề hay bài học được tóm tắt một cách
logic, hệ thống theo sơ đồ tư duy. Từ đó, SV tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý
tưởng mới. PP này đòi hỏi SV lựa chọn nội dung phù hợp vì một số nội dung khi sơ đồ
hóa không làm rõ được vấn đề. Nếu lạm dụng PP sử dụng sơ đồ tư duy cũng sẽ gây mất
phương hướng trong việc tiếp thu tri thức.
Năm là PP giải quyết vấn đề. Với PP này, SV được đưa vào những tình huống có
vấn đề cần giải quyết nhằm tìm hiểu và vận dụng tri thức lí luận vào thực tiễn. PP này
giúp nâng cao tính liên kết giữa lí luận và thực tiễn, từ đó SV sẽ hứng thú, chủ động và
sáng tạo trong hoạt động ứng dụng. Ở mức độ cao hơn, SV có thể vận dụng kiến thức
liên môn để giải quyết vấn đề đặt ra trong tình huống. Tuy nhiên, đây là một trong
359
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
những PP dạy học hiện đại nên SV khó tiếp thu tri thức nếu không năng động, tư duy
cao và sáng tạo. Vì vậy, một số bộ phận SV không thích ứng được khi đã quen với PP
học truyền thống.
Sáu là PP sử dụng công nghệ thông tin. Sử dụng công nghệ thông tin là kĩ năng
cần thiết trong thời đại khoa học công nghệ. Điều đó đòi hỏi SV phải nắm chắc và sử
dụng thành thạo công nghệ thông tin để thiết kế các giáo án điện tử. Bên cạnh đó, môi
trường đa phương tiện, đa kênh sẽ giúp SV học bằng đa giác quan. Nhờ vậy, SV khai
thác hiệu quả ngân hàng dữ liệu khổng lồ, đa dạng, sinh động nhờ những thành tựu công
nghệ. PP này đã đạt được kết quả khả quan trên người học, nhưng do thời lượng tìm
hiểu hạn chế, phương tiện hiện đại chưa được đáp ứng đủ, khả năng tự học của sinh viên
chưa cao.
Bảy là PP nghiên cứu khoa học. Học thông qua nghiên cứu cũng là PP đang
được SV chú trọng. Các nghiên cứu của SV ở dạng bài tập lớn, tiểu luận, nghiên cứu
khoa học cấp khoa, cấp trường, khóa luận tốt nghiệp... đã và đang được triển khai. Đây
là PP giúp SV thực hiện phương châm học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn.
Nhờ việc nghiên cứu khoa học, SV tự tin hơn, có bản lĩnh thích ứng với thực tế, hiểu rõ
và kiểm chứng được lí luận. Trên thực tế, đây là PP khó khăn đối với đại bộ phận SV vì
đòi hỏi sự đam mê, lòng quyết tâm, nền tảng tri thức vững chắc và kĩ năng thuần thục.
Nhìn chung, trong số những PP thường sử dụng của SV ngành Giáo dục mầm non
hiện nay, mỗi PP đều có ưu, nhược điểm riêng. Điều quan trọng là SV cần lựa chọn
cách học phù hợp để đáp ứng mục tiêu của ngành học. Vì chưa xác định được phương
pháp học tập hiệu quả cho cá nhân và tập thể nên một số lượng lớn SV vẫn còn thói
quen học tập thụ động, chỉ thích ghi chép bài, ngại phát biểu ý kiến, tham gia hoạt động
nhóm không tích cực, không có thói quen đọc bài giảng trước khi đến lớp và không chủ
động tìm kiếm tài liệu liên quan. Rất ít SV tiếp cận vấn đề bằng sơ đồ tư duy mà chủ
yếu học máy móc, học thuộc lòng. Khả năng tự phát hiện và giải quyết vấn đề và sử
dụng công nghệ thông tin chưa linh động. Điều này đòi hỏi sinh viên cần tiếp cận nhiều
phương pháp dạy học tích cực khác nhằm hạn chế phần nào nhược điểm của PP dạy học
thông thường, kế thừa ưu điểm của nhiều phương pháp dạy học khác nhau, phù hợp với
đặc thù ngành Giáo dục mầm non.
3. HỌC THEO DỰ ÁN - MỘT PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP TÍCH CỰC CHO SINH
VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON
3.1. Dự án học tập
Thuật ngữ dự án, tiếng Anh là “Project”, có nguồn gốc từ tiếng Latin “Proicere”
và được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Theo nghĩa thông thường, có thể hiểu dự án là một dự định, một kế hoạch cần
được thực hiện trong điều kiện thời gian, phương tiện tài chính, nhân lực, vật lực xác
định nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Dự án có tính phức hợp, tổng thể (Nguyễn Văn
Cường, 2010)[3]. Như vậy, một dự án nói chung có những đặc điểm: mục tiêu xác định
360
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
rõ ràng; thời gian quy định cụ thể; có nguồn tài chính, vật chất, nhân lực giới hạn; mang
tính duy nhất; mang tính phức hợp tổng thể; được thực hiện trong hình thức tổ chức dụ
án chuyên biệt.
Dựa theo nội dung dự án, có thể chia thành các loại dự án: Dự án đầu tư xây
dựng; dự án nghiên cứu - phát triển; dự án tổ chức; dự án hỗn hợp. Tên gọi dự án cũng
không giống nhau khi thực hiện những nhiệm vụ khác nhau. Dự án sử dụng trong
nghiên cứu khoa học, quản lí kinh tế, quản lí xây dựng… là dự án thực tiễn. Trong dạy
học, dự án được gọi là dự án học tập. Dự án học tập là một nhiệm vụ học tập trong dạy
học theo dự án, trong đó mục tiêu của dự án là mục tiêu của dạy học. Do đó, sản phẩm
của dự án học tập là phương tiện để đạt được mục tiêu dạy học. Quy mô của dự án học
tập nhỏ hơn dự án trong thực tiễn và phải do người học thực hiện. Vì vậy, khi xây dựng
một dự án học tập, vừa phải dựa vào đặc điểm và tiến trình của một dự án nói chung,
vừa phải dựa vào các quan điểm của lí luận dạy học (Lê Khoa, 2015)[5].
Dự án học tập có thể phân loại theo nhiều phương diện khác nhau. Theo chuyên
môn, có dự án trong một môn học, dự án liên môn, dự án ngoài chuyên môn. Theo sự
tham gia của người học, phân thành dự án cho nhóm học sinh và dự án cá nhân. Theo sự
tham gia của giáo viên, có dự án dưới sự hướng dẫn của một giáo viên và dự án với sự
cộng tác, hướng dẫn của nhiều giáo viên. Theo thời gian, chia ra dự án nhỏ, dự án trung
bình, dự án lớn. Theo nhiệm vụ, có dự án tìm hiểu, dự án nghiên cứu, dự án thực hành,
dự án hỗn hợp. Tuy nhiên, các loại dự án học tập này không hoàn toàn tách biệt mà có
sự lồng ghép, đan xen nhau, góp phần thực hiện hiệu quả PP dạy học theo dự án.
Quá trình thiết kế và thực hiện một dự án thường được phân chia thành 5 giai
đoạn: (1) Xác định chủ đề và mục tiêu dự án. Người học đề xuất ý tưởng, thảo luận để
xác định chủ đề và mục đích dự án dưới sự hướng dẫn của người dạy; (2) Lập kế hoạch
dự án. Người học dưới sự hướng dẫn của người dạy xây dựng đề cương cũng như kế
hoạch cho việc thực hiện dự án. Để xây dựng kế hoạch, cần xác định những công việc
cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công
việc trong nhóm; (3) Thực hiện dự án. Các thành viên thực hiện công việc theo kế
hoạch đã đề ra. Trong giai đoạn này, người học thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt
động thực tiễn, thực hành. Những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau.
Kiến thức lí thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn.
Nhờ đó, sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra; (4) Kết thúc dự án. Sản phẩm
của dự án có thể trình bày dưới dạng bài thu hoạch, bài báo, báo cáo…, cũng có thể là
những hoạt động phi vật chất như biểu diễn một vở kịch, tổ chức sinh hoạt… trước
nhóm sinh viên hay trong nhà trường, ngoài xã hội. Trong giai đoạn kết thúc dự án,
người học cũng tham gia đánh giá quá trình thực hiện và kết quả dự án. Từ đó, người
học rút ra kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo.
3.2. Những ưu điểm của HTDA đối với SV ngành GDMN
Nhằm thực hiện mục tiêu chung “đào tạo cử nhân ngành giáo dục mầm non có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để thực hiện công tác
361
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
giáo dục trẻ và có khả năng học ở trình độ cao hơn”, chương trình đào tạo đại học ngành
GDMN đã đặt ra những mục tiêu cụ thể về phẩm chất đạo đức, kiến thức, kĩ năng cần
hình thành ở SV. Trong đó, để hình thành năng lực nghề nghiệp, SV phải nắm hệ thống
kiến thức giáo dục đại cương, bao gồm kiến thức khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội.
Các kiến thức đại cương là cơ sở và nền tảng để SV học các học phần chuyên ngành.
Giữa các học phần trong khối kiến thức đại cương hay chuyên ngành đều có mối liên
quan nhằm hướng đến đào tạo người giáo viên mầm non tương lai vững về kiến thức, có
kĩ năng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non và có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp theo yêu
cầu. Như vậy, để đáp ứng mục tiêu đào tạo, xác định phương pháp học tập phù hợp là
một trong những yếu tố quyết định chất lượng học của SV ngành GDMN. Bên cạnh đó,
đối tượng giáo dục của SV ngành GDMN sau này là trẻ mầm non từ 3 tháng đến 6 tuổi.
Chương trình GDMN được ban hành kèm theo Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày
25/7/2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ rõ, xu hướng của GDMN hiện nay là giáo
dục tích hợp theo chủ đề [1]. Các hoạt động của trẻ mang tính tích hợp cao, đòi hỏi giáo
viên mầm non cần có kiến thức tích hợp để tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ. Vì
vậy, sinh viên GDMN cũng cần có phương pháp trau dồi chuyên môn để đáp ứng yêu
cầu nghề nghiệp sau này. Với những đặc thù của hoạt động học của sinh viên ngành
GDMN, HTDA hoàn toàn phù hợp để áp dụng vào quá trình học tập của SV. HTDA có
những ưu điểm đối với SV ngành GDMN như sau:
Đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp học tập ở bậc đại học. Để thực hiện
nhiệm vụ đổi mới theo Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ ngày 02 tháng 11
năm 2005 về “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 -
2020”, SV ngành GDMN cần linh hoạt áp dụng các phương pháp học tập hiện đại nhằm
khắc phục hạn chế của PP học truyền thống. HTDA sẽ giúp tăng tính chủ động cho SV.
Bằng cách học này, SV chủ động trong tất cả quá trình học tập từ việc tìm kiếm các ý
tưởng, quyết định chủ đề, đưa ra mục tiêu, xây dựng kế hoạch đến khâu thực hiện, tạo
sản phẩm, trình bày và đánh giá dự án. Nhờ đó, tính tự lực, tích cực và khả năng sáng
tạo của SV được phát huy. Trong quá trình SV thực hiện dự án, giảng viên giữ vai trò là
người kích thích, khơi ngòi, động viên và hỗ trợ sinh viên khi cần thiết.
Kích thích hứng thú, động cơ học tập của SV. Nhờ việc trang bị cho sinh viên
cách học hiệu quả, HTDA giúp SV được thực hiện những ý tưởng phù hợp với nhận
thức và nhu cầu của bản thân. SV ngành GDMN cần hình thành cho mình tri hệ thống
kiến thức đại cương và chuyên ngành, có kĩ năng thực hiện các hoạt động chăm sóc,
giáo dục trẻ và phẩm chất người giáo viên xã hội chủ nghĩa. Thông qua các dự án học
tập, SV sẽ thấy thú vị hơn và dễ dàng hơn. Với các sản phẩm đa dạng xuất phát từ sở
thích, SV sẽ nhớ lâu hơn và tự tích lũy các vấn đề cần thiết, hình thành động cơ học tập
đúng đắn, phục vụ cho nghề nghiệp tương lai.
Rèn luyện kĩ năng hoạt động nhóm cho SV. Trong quá trình HTDA, SV tham
gia làm việc nhóm để đi tới sản phẩm cuối cùng. Hoạt động nhóm cũng giúp tạo sự liên
kết và hợp tác giữa các thành viên trong nhóm cũng như giữa SV với giảng viên. Khả
năng trình bày, thuyết phục, tư duy phản biện và trao đổi thông tin cũng có cơ hội được
362
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
nâng cao nhờ sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Đây là kĩ năng càng cần
thiết cho môi trường làm việc của sinh viên sau này bởi thông thường, một nhóm/ lớp
mầm non có từ 2 - 3 giáo viên. Trong một hoạt động, thường có giáo viên chính và giáo
viên phụ. Nếu không có kĩ năng hoạt động nhóm, giáo viên sẽ khó có thể thực hiện tốt
công việc của mình.
Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy với hành động, nhà trường với xã hội.
HTDA gắn với thực tiễn xã hội. Chủ đề của dự án được lựa chọn dựa trên thực tiễn xã
hội và nghề nghiệp. Đó là các vấn đề liên quan đến hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ ở
trường mầm non. Để giải quyết được các vấn đề trong dự án, đòi hỏi SV phải vận dụng
tất cả các kiến thức và kĩ năng vốn có vào hoạt động. Hơn nữa, nội dung hoạt động
không chỉ thuần túy về lí thuyết mà SV cần dựa trên lí thuyết đó để trải nghiệm và đưa
tất cả những gì thu nhận được vào sản phẩm. Đặc biệt, các hoạt động thực tế tại trường
mầm non để tìm hiểu các vấn đề trong dự án sẽ cho SV có cái nhìn thiết thực nhất về
nghề nghiệp của mình.
Kết hợp hiệu quả với các PP học tập khác. PP HTDA kế thừa và vận dụng ưu
điểm của các PP học tập hiện đại khác, bao gồm: PP hoạt động nhóm, PP Xê-mi-na, PP
giải quyết vấn đề, PP sơ đồ tư duy, PP sử dụng CNTT, PP nghiên cứu khoa học…
Chính vì vậy, PP HTDA thể hiện sự ưu việt của nó trong quá trình học tập của SV
ngành GDMN nói riêng và người học nói chung. Để PP này phát huy tác dụng nhiều
hơn, SV cần trang bị cho mình những tri thức chung về PP này và có khả năng thực hiện
các dự án học tập hiệu quả.
Làm cơ sở để áp dụng phương pháp DHTDA cho trẻ mầm non. Dạy học theo dự
án không chỉ áp dụng ở bậc phổ thông và đại học. Hiện nay, trên thế giới và ở Việt
Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu và cơ sở giáo dục mầm non quan tâm và triển
khai phương pháp này. Vì vậy, những kinh nghiệm SV thu nhận được từ việc xây dựng
các DAHT sẽ tạo điều kiện thuận lợi khi tổ chức các dự án dạy học cho trẻ mầm non.
4. BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THỰC HIỆN DAHT CHO SV NGÀNH GDMN
Thực hiện dự án học tập là một nhiệm vụ trọng tâm của DHTDA và là nhiệm vụ
được tiến hành bởi SV. Do đó, cần nâng cao khả năng thiết kế DAHT cho SV bằng
những biện pháp phù hợp.
4.1. Bồi dưỡng lí luận về DHTDA
Muốn thực hiện được PP DHTDA, sinh viên cần nắm lí luận chung về PP này.
Việc tiếp thu tri thức về DHTDA có thể thông qua tài liệu do giảng viên cung cấp,
internet, các buổi seminar, hội thảo… Cần thành lập và duy trì hiệu quả các câu lạc bộ
học thuật dành cho sinh viên; tăng cường tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm trao đổi
nhằm giới thiệu, trang bị cho sinh viên những phương pháp học tập hiện đại; giao lưu
giữa sinh viên với những người thành công trong học tập. Như vậy, với các kênh khác
nhau, SV sẽ nắm được khái niệm, phân loại, ưu và nhược điểm, quy trình thực hiện
DHTDA nói chung và DAHT nói riêng để hiểu rõ tầm quan trọng của DHTDA. Đặc
363
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
biệt, trước khi tổ chức cho SV thực hiện các DAHT, giảng viên cần nhắc lại quy trình
thực hiện các dự án này để SV có định hướng chung và sử dụng hiệu quả PP vào quá
trình học tập.
4.2. Tạo hứng thú tham gia DAHT
Hứng thú là thành tố đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện các DAHT. Vì
vậy, cần tạo hứng thú cho SV tham gia DAHT bằng cách giúp SV nhận thức được mục
tiêu và lợi ích của hoạt động. Định hướng ban đầu của giảng viên cũng rất quan trọng
bởi sẽ khơi gợi sự tò mò, thích thú, muốn thực hiện dự án cho SV. Việc đáp ứng nhu
cầu được hoạt động, được thể hiện bản thân nhiều hơn để giải mâu thuẫn giữa cái đã có
và cái chưa có trong nhận thức cũng giúp SV thỏa mãn, đem lại sự khoái cảm và mong
muốn nhận thức vấn đề một cách đầy đủ và sâu sắc hơn.
4.3. Gắn các DAHT với thực tiễn GDMN
Thực hiện các DAHT cần gắn với các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường
mầm non. Xác định các chủ đề dự án cần hướng tới mục tiêu, nội dung, phương pháp,
hình thức, phương tiện tổ chức và đánh giá trong GDMN. Chuẩn bị các điều kiện môi
trường để SV được trải nghiệm thực tiễn sinh động sẽ tránh nhàm chán, giúp SV thực
hiện được nhận thức theo con đường biện chứng “từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Được tiếp xúc với thực tiễn GDMN
cũng là cách để hun đúc nên tình yêu nghề của SV, là động cơ thúc đẩy SV tích cực
hoạt động và thực hiện các dự án thực tiễn.
4.4. Đa dạng hóa các DAHT
Có rất nhiều loại dự án khác nhau, tùy cách tiếp cận của giảng viên và sinh viên.
Vì vậy, khi tổ chức DHTDA, SV cần xác định loại DAHT phù hợp để thực hiện. Tuy
nhiên, mỗi vấn đề học tập lại chứa đựng mức độ thông tin khác nhau. Vì vậy, SV cần
phải thực hiện đa dạng các loại dự án, không tập trung vào một loại dự án nhất định.
Ngoài ra, cần thực hiện lồng ghép các loại dự án với nhau để hoạt động học tập đạt
được hiệu quả tối đa.
5. KẾT LUẬN
Đổi mới PP dạy học đại học là chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với các cấp
học. Có rất nhiều phương pháp dạy học được sử dụng trong giai đoạn hiện nay, kể cả
phương pháp truyền thống lẫn hiện đại. Việc lựa chọn các phương pháp này căn cứ vào
mục tiêu, nội dung dạy học. Đối với SV ngành GDMN, bên cạnh các PP thường sử
dụng, cần áp dụng PP HTDA, xem đó là một PP ưu việt để tổ chức các hoạt động học
hiệu quả. Bên cạnh đó, áp dụng các biện pháp phù hợp sẽ nâng cao được khả năng thực
hiện DAHT nói riêng và PP DHTDA nói chung cho SV ngành GDMN.
Tuy vậy, tính khả thi và hiệu quả của phương pháp này cần tiếp tục được nghiên
cứu về lí luận và thực tiễn, xác định độ tin cậy về mặt khoa học, làm cơ sở để nhân rộng
phương học tập theo dự án, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên nói chung
và giáo viên mầm non nói riêng.
364
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Chương trình giáo dục mầm non, Nxb Giáo dục
Việt Nam.
[2] Chính Phủ (2005), Nghị quyết về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006 - 2020.
[3] Nguyễn Văn Cường (2009), Lí luận dạy học hiện đại, Trường Đại học Potsdam,
Hà Nội.
[4] Nguyễn Thành Hải, Phùng Thúy Phượng, Đồng Thị Bích Thủy (2010), Giới thiệu một
số phương pháp giảng dạy cải tiến giúp sinh viên học tập chủ động và trải nghiệm, đạt
chuẩn đầu ra theo CDIO, Hội thảo CDIO, Đại học Quốc gia Tp HCM.
[5] Lê Khoa (2015), Vận dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học kiến thức về
sản xuất và sử dụng điện năng cho học sinh trung học phổ thông, Luận án Tiến sĩ khoa
học giáo dục, Đại học Thái Nguyên.
Title: PROJECT-BASED LEARNING - AN INNOVATION IN LEARNING METHOD OF
PRE-SHCOOL EDUCATION STUDENTS
Abstract: Improving the quality of teacher training (including pre-school teacher training) is a
major policy of Vietnamese higher education. One of the key solutions to meet this policy is
renovation in teaching method to activate students’ learning activities. This article introduces
the project-based learning approach as an innovation in learning method of pre-school education
students.
Keywords: Project-based learning, learning method, pre-school education
THS. LÊ THỊ NHUNG
TS. NGUYỄN TUẤN VĨNH
Khoa Giáo dục Mầm non - Trường Đại học Sư phạm Huế
ĐT: 0975236526; Email: lenhungqb@gmail.com.
365
nguon tai.lieu . vn