Xem mẫu
- HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
Nguyễn Đắc Hưng*
TÓM TẮT:
Xã hội hóa giáo dục là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, được xã hội đồng
tình ủng hộ. Sau hơn 20 năm thực hiện, công tác xã hội hóa giáo dục đã thu được những
kết quả quan trọng, tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều bất cập, chưa khai thác cao nhất nguồn lực
xã hội đầu tư phát triển giáo dục. Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là do
chưa hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút nguồn lực xã hội đầu tư phát triển giáo dục. Bài
viết dưới đây sẽ phân tích thực trạng về chính sách xã hội hóa giáo dục và đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện chính sách về xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp.
Từ khóa: chính sách, xã hội hóa, giáo dục nghề nghiệp.
I. Thực trạng chính sách xã hội hóa giáo dục
Cụm từ “Xã hội hóa giáo dục” được đưa vào từ Nghị quyết số 90-CP ngày
21/8/1997 của Chính phủ “Về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa” và cho đến nay, cụm từ này được đưa vào khá nhiều
văn kiện của Đảng và Nhà nước ta nhằm nâng cao trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước cũng như của toàn xã hội đối với giáo dục, qua đó huy động các nguồn lực
trong và ngoài nước để phát triển giáo dục (trong đó có đào tạo). Để nâng cao chất
lượng và hiệu quả của công tác xã hội hóa giáo dục, Nghị quyết số 29- NQ/TW
ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo” một lần nữa tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh xã
hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp (GDNN) và giáo dục đại học...”;
Kết luận số 51- KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư Trung Đảng khóa XII tiếp
tục khẳng định “Đẩy mạnh xã hội hóa, xây dựng cơ chế thuận lợi, minh bạch để
khuyến khích các doanh nghiệp, xã hội và thu hút nguồn lực quốc tế đầu tư phát
triển giáo dục và đào tạo, nhất là phát triển giáo dục và đào tạo chất lượng cao”.
Nhằm thực hiện tốt chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục của Đảng, ngày
14/6/2019, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật
Giáo dục số 43/2019/QH14, trong đó có Điều 16. Xã hội hóa giáo dục và Điều 54.
Nhà đầu tư. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan chức năng từ trung
* Ban Tuyên giáo Trung ương
163
- ương tới địa phương hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động sự tham gia đóng góp
của xã hội đối với công tác GDNN.
Ngày 04/6/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP “Về tăng
cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo
giai đoạn 2019 - 2025” (sau đây gọi là Nghị quyết số 35), trong đó có 3 quan điểm
chỉ đạo về xã hội hóa giáo dục:
1. Các nguồn lực xã hội là rất quan trọng, cần được thu hút để chiếm tỷ trọng
ngày càng lớn trong tổng chi phí toàn xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào
tạo, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Chính
phủ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư trong và ngoài nước
đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, trình độ đào tạo.
2. Việc huy động các nguồn lực của xã hội cho giáo dục và đào tạo không để
thay thế mà là nguồn bổ sung quan trọng cho ngân sách nhà nước, góp phần làm
tăng tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng
ngân sách nhà nước tại các cơ sở công lập, tập trung đầu tư vào những lĩnh vực, địa
bàn và đối tượng mà tư nhân không muốn hoặc không có khả năng đầu tư; khuyến
khích các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập hợp tác, liên doanh, liên kết với các
cơ sở ngoài công lập; chuyển đổi một số đơn vị sự nghiệp công lập sang ngoài công
lập ở những nơi có điều kiện phù hợp.
3. Xã hội hóa giáo dục và đào tạo cần được coi là một chỉ tiêu trong định
hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tùy thuộc điều kiện, hoàn cảnh
kinh tế - xã hội cụ thể trong từng thời kỳ, cơ quan quản lý giáo dục của địa phương
tham mưu xác định các chỉ tiêu xã hội hóa cần đạt được cho địa phương mình,
bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.
Phần nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Nghị quyết số 35, Chính phủ quy định
cụ thể về việc hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư trong đó có nhiều
cơ chế, chính sách cụ thể.
Như vậy, với Nghị quyết số 35, Chính phủ đã quy định khá rõ quyền lợi và
trách nhiệm của các tập thể, cá nhân tham gia phát triển giáo dục, đây cũng là cơ
sở pháp lý quan trọng để huy động nguồn lực trong và ngoài nước tham gia phát
triển GDNN.
Khi nghiên cứu Luật Giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13 ngày 27 tháng
11 năm 2014 cho thấy, nội dung trong Luật đã nêu một số chính sách hỗ trợ cho
doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình đào tạo (Điều 7. Xã hội hóa GDNN).
Theo Luật Giáo dục nghề nghiệp, các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp
của doanh nghiệp (DN) được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Gồm các chi
phí như xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc, thiết bị để dạy nghề; chi phí
164
- trả cho người dạy, tài liệu học tập, thiết bị, vật liệu thực hành; chi phí đào tạo của
DN cho người lao động được tuyển dụng vào làm việc tại DN; các hoạt động tài
trợ phục vụ giảng dạy, học tập, tài trợ học bổng… DN trong lĩnh vực GDNN được
áp dụng thuế suất 10%. Miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế trong 5 năm tiếp
theo đối với thu nhập DN từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực GDNN (9
năm đối với địa bàn khó khăn). DN được miễn thuế hàng hóa nhập khẩu chuyên
dùng phục vụ cho giáo dục và đào tạo trong nước không sản xuất. Ngoài ra, DN
còn được thụ hưởng các chính sách khác: giao đất không thu tiền sử dụng đất; cho
thuê đất và miễn tiền thuê đất…Với DN nhỏ và vừa, khi cử lao động tham gia khóa
đào tạo trình độ sơ cấp hoặc dưới 3 tháng thì được miễn chi phí đào tạo. DN hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến được hỗ trợ 50% tổng chi phí của một khóa
đào tạo trực tiếp tại DN nhưng không quá một lần/năm.
Với nội dung Điều 51 và Điều 52 của Luật Giáo dục nghề nghiệp cho thấy
nhưng quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các DN khi tham gia đào tạo nghề
đã được đề cập trong Luật khá đầy đủ, vấn đề là các bộ, ngành có liên quan phải cụ
thể hóa bằng những văn bản dưới luật để các địa phương, các tổ chức và cá nhân
có trách nhiệm thực hiện.
Về quyền lợi và trách nhiệm của người học: Người học sau đào tạo được làm
việc ngay chính tại doanh nghiệp mà mình học tập, được trả lương nếu làm ra sản
phẩm, nhưng phải làm việc sau một số năm nhất định mới được xin chuyển sang
nơi công tác khác và phải chịu phạt theo quy định của pháp luật nếu “nhảy việc”
mà không được sự đồng ý của chủ DN.
Về phía Nhà nước: Cần ban hành cơ chế, chính sách tôn trọng và đãi ngộ
xứng đáng đối với người lao động có tay nghề cao. Mở rộng các mô hình vừa
dạy văn hóa, vừa đào tạo nghề cho học sinh (chú trọng ở bậc THPT) để sau ba
năm, học sinh tốt nghiệp vừa có trình độ học vấn hết lớp 12, vừa có một nghề với
chuyên môn kỹ thuật phù hợp ở trình độ sơ cấp.
Với nội dung trong các Luật và Nghị quyết của Chính phủ nêu trên cho thấy,
việc thể chế hóa chủ trương của Đảng về “xã hội hóa giáo dục”, trong đó có GDNN
đã đề cập khá rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quá trình thực
hiện xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, để công tác xã hội hóa giáo dục thu được kết
quả tốt hơn nữa cần tiếp tục hoàn thiện chính sách về xã hội hóa giáo dục trong đó
có chính sách về xã hội hóa GDNN.
II. Hoàn thiện chính sách xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp
Qua nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật, ý kiến của nhiều nhà khoa
học và các chủ doanh nghiệp, có thể đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính
sách xã hội hóa GDNN.
165
- 1. Tháo gỡ “nút thắt” hiện nay đối với các nhà đầu tư đó là vấn đề quyền
sử hữu tài sản và phân chia lợi nhuận của các nhà đầu tư; quyền điều hành nhà
trường, nhất là khi thực hiện chủ chương hợp tác công - tư trong lĩnh vực đầu tư
cho giáo dục, trong đó vấn đề giải quyết quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà đầu tư
cho giáo dục sẽ có ảnh hưởng lớn tới công tác GDNN. Vì vậy, khi sửa Luật Giáo
dục nghề nghiệp cần hết sức lưu ý tới quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước phải bảo đảm duy trì và phát triển vốn của các nhà đầu tư
trong lĩnh vực giáo dục, làm được như vậy sẽ có tác động rất lớn đến việc thực hiện
chủ trương xã hội hóa giáo dục.
2. Rà soát chính sách khuyến khích mở rộng mô hình trường dạy nghề trong
doanh nghiệp hoặc cơ sở GDNN gắn với doanh nghiệp, gắn với các khu công
nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế động lực.
Ðây là mô hình GDNN thiết thực, hiệu quả trong việc cung cấp nhân lực
theo yêu cầu của doanh nghiệp, đồng thời rất có tác dụng hướng nghiệp và phân
luồng học sinh sau THCS và sau THPT.
3. Đẩy mạnh việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn công tác xã hội hóa
giáo dục (XHHGD). Bộ Lao động, Thương binh và xã hội chủ trì nghiên cứu về
XHHGD để tham mưu với Chính phủ ban hành cơ chế chính sách khuyến khích
mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia phát triển giáo dục.
Trên nền tảng phát triển kinh tế, các viện nghiên của về giáo dục tiến hành
nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm làm rõ đặc điểm và nội hàm XHHGD
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó xác định được
những yếu tố ảnh hưởng tới công tác GDNN mà hoàn thiện chính sách XHHGD
thúc đẩy công tác GDNN phát triển đáp ứng yêu cầu xã hội.
4. Khuyến khích các nhà đầu tư trong nước thành lập trường tư thục ở tất cả
các ngành học, bậc học và trình độ đào tạo; cho phép các cơ sở giáo dục tư thục
thuê giáo viên người nước ngoài giảng dạy một số chương trình quốc tế.
5. Nhà nước có chính sách hỗ trợ chuyển đổi một số cơ sở GDNN từ công lập
sang tư thục. Thí điểm việc Nhà nước cho thuê cơ sở vật chất đối vối một số cơ sở
GDNN có khả năng cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao. Thí điểm cổ phần
hóa một số cơ sở GDNN và cho phép cán bộ, giáo viên đóng góp cổ phần. Các cơ
sở giáo dục công lập và ngoài công lập đều bình đẳng khi tham gia đào tạo nguồn
nhân lực và hưởng các hỗ trợ của ngân sách nhà nước. Có chính sách giải quyết
các vấn đề phát sinh khi thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về sắp xếp
các cơ sở đào tạo công lập và mở rộng các trường đào tạo ngoài công lập có chất
lượng, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết việc làm và
nâng cao thu nhập cho lao động qua đào tạo, đồng thời không để xảy ra bất ổn xã
hội trong quá trình sắp xếp hệ thống giáo dục.
166
- 6. Cho phép các tổ chức xã hội nghề nghiệp thành lập cơ quan kiểm định
chất lượng độc lập, thực hiện nhiệm vụ đánh giá, sát hạch chất lượng học sinh,
sinh viên trong các cơ sở GDNN sau cuối mỗi năm học, khóa học. Kết quả kiểm
định chất lượng đào tạo được công bố trên website của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội.
Việc cho phép thành lập các cơ sở kiểm định chất lượng được thực hiện cả
với các đơn vị công lập, nhưng khuyến khích các tổ chức hội nghề nghiệp thanh
lập cơ quan kiểm định độc lập và quy định tất cả các cơ quan kiểm định chất lượng
phải tự chủ hoàn toàn để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, hạn chế tiêu
cực. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện công tác quản lý nhà nước,
thường xuyên kiểm tra, đánh giá và kiểm định chất lượng của các cơ quan kiểm
định chất lượng.
7. Chính phủ quy định người lao động qua đào tạo ở tất cả các ngành, nghề
khi tham gia vào thị trường lao động phải có giấy phép hành nghề do các quan
kiểm định chất lượng được nhà nước cho phép cấp; quy định với tất cả các cơ
quan, đơn vị, cơ sở khi tuyển dụng lao động có giấy phép hành nghề phải sử dụng
đúng những quy định trong giấy phép và có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền
phạt, hoặc thu giấy phép hoạt động của cơ sở kiểm định chất lượng nếu phát hiện
thấy việc xác nhận không đúng với năng lực của người lao động được ghi trong
giấy phép, hoặc có tiêu cực trong quá trình thực hiện kiểm định chất lượng.
Việc Chính phủ quy định bắt buộc người lao động qua đào tạo phải có giấy
phép hành nghề, nhằm kiểm định chất lượng của các cơ sở đào tạo, đồng thời bảo
đảm quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động khi tham
gia thị trường lao động. Quyền sử dụng lao động thuộc về các cơ sở sử dụng lao
động, nếu cơ quan kiểm định chất lượng mà cơ sở sử dụng lao động không tuyển
những lao động có giấy phép hành nghề do cơ quan kiểm định nào đó cấp, chứng
tỏ cơ quan kiểm định chất lượng đó không đáp ứng yêu cầu của thị trường lao
động, mà cao hơn nữa là nếu cơ sở sử dụng lao động tuyển lao động có giấy phép
hành nghề mà phát hiện lao động không có năng lực đúng như ghi trong giấy phép
hành nghề thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền phạt, hoặc thu giấy phép
của cơ quan kiểm định chất lượng đó. Như vậy cơ quan kiểm định chất lượng cũng
phải thực hiện rất nghiêm túc việc kiểm định và cấp giấy phép hành nghề.
Kết quả của việc thay đổi cách đánh giá, kiểm định chất lượng học sinh, sinh
viên và cấp giấy phép hành nghề cho người lao động qua đào tạo sẽ có tác động
tích đến việc dạy và học trong các nhà trường. Nếu các cơ sở giáo dục mà cho
điểm cao khi kiểm định chất lượng cho kết quả thấp thì chứng tỏ cơ sở giáo dục
đó không trung thực; hoặc khi kiểm định chất lượng mà số lượng học sinh, sinh
viên được cấp giấy phép hành nghề ít chứng tỏ cơ sở đào tạo đó chất lượng thấp,
hậu quả sẽ dẫn tới tuyển sinh được ít, trường sẽ không thể phát triển, thậm chí
167
- phải đóng cửa; ngược lại, những cơ sở đào tạo mà tỷ lệ người học qua kiểm định
có giấy phép hành nghề đạt cao thì cơ sở đó chất lượng đào tạo tốt, sẽ tuyển sinh
được nhiều, nhà trường sẽ phát triển.
8. Chính phủ cần hướng dẫn để cụ thể hóa chính sách ưu đãi về giao đất hoặc
cho thuê đất; ưu đãi tín dụng cho các cơ sở GDNN, nhà đầu tư chỉ thực hiện đầy
đủ các quy định của luật và không có những chi phí tiêu cực.
Thứ nhất, việc giao đất sạch cho các cơ sở giáo dục là hết sức quan trọng
vì nếu để các nhà đầu tư tự giải phòng mặt bằng thì phát sinh ra rất nhiều tiêu
cực, chi phí rất cao và nhiều trường hợp giao dịch không thành công. Thứ hai,
nhà nước không nên tính thuế đối với đất sử dụng vào mục đích xây trường học,
nhưng cần tính giá trị của đất, coi đó là nguồn đóng góp của nhà nước vào tài sản
chung của nhà trường để hạch toán và sử dụng lợi nhuận thu được vào việc thực
hiện chính sách xã hội. Thứ ba, nhà nước có chính cách cho vay ưu đãi tín dụng
đối với các cơ sở giáo dục tư thục chứng minh được phương án trả nợ tốt và thực
sự có hữu ích cho xã hội.
9. Chính phủ cần ban hành chính sách bình đẳng về chế độ chính sách đối
với cán bộ, giáo viên công lập và ngoài công lập trong thi đua khen thưởng, xét
danh hiệu nhà nước, đào tạo bồi dưỡng, tiếp nhận và thuyên chuyển cán bộ từ khu
vực công sang khu vực tư và ngược lại.
Thực hiện chính này sẽ từng bước xóa nhòa danh giới biên chế và không biên
chế, khuyến khích các cơ sở GDNN cạnh tranh lành mạnh, thu hút người giỏi về
công tác.
Căn cứ vào Luật Giáo dục và tới đây là Luật Giáo dục nghề nghiệp sửa đổi,
Chính phủ yêu cầu các bộ ngành liên quan sớm rà soát hệ thống các văn bản,
chính sách về xã hội hóa đã ban hành, hệ thống hóa các quy định về huy động các
nguồn lực xã hội cho giáo dục theo từng lĩnh vực và nhóm vấn đề cụ thể; phát hiện
những quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn và còn thiếu; đề xuất hướng chỉnh
sửa, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ cho phù hợp với định hướng của Đảng và những
quy định mới của pháp luật, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, giữa các nhà đầu tư trong nước cũng như nhà đầu tư nước ngoài và bảo đảm
quyền và lợi ích của các nhà đầu tư./.
168
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. (2013). Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 04/11/2013
của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
2. Ban Bí thư Trung Đảng khóa XII. (2019). Kết luận số 51- KL/TW ngày 30/5/2019 của “Về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ườn 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
3. Chính phủ. (2015). Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ “Quy
định chi tiết và hướng dân thi hành một số điều của Luật Đầu tư”.
4. Chính phủ. (2019). Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/6/2019 của Chính phủ “Về tăng
cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn
2019 - 2025”.
5. Chính phủ. (2015). Nghị định 86/2018/NĐ-CP ngày 6/6/2018 của Chính phủ “Quy định
về hợp tác đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục”.
6. Quốc hội khóa IV. (2019). Luật Giáo dục số 43/2019/QH14, ngày 14/6/2019.
7. Quốc hội. (2012). Luật số 10/2012/QH13 ngày 18/6/2012 của Quốc hội khóa XIII.
8. Quốc hội. (2014). Luật Giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13 ngày 27/11/2014 của Quốc
hội khóa XIII.
169
nguon tai.lieu . vn