- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Hỗ trợ học sinh khiếm thính cấp Tiểu học học Toán và tiếng Việt thông qua ngôn ngữ kí hiệu
Xem mẫu
- NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN
Hỗ trợ học sinh khiếm thính cấp Tiểu học học Toán
và tiếng Việt thông qua ngôn ngữ kí hiệu
Lê Tuấn Đức1, Lê Thị Tố Uyên2
TÓM TẮT: Bài viết trình bày những phát hiện chính trong nghiên cứu bao gồm
1
Email: duclt@vnies.edu.vn
2
Email: uyenltt@vnies.edu.vn
việc xem xét mức độ áp dụng kiến thức và sử dụng tài liệu ngôn ngữ kí hiệu
(6000 kí hiệu ngôn ngữ và 150 video) được cung cấp trong các khóa tập huấn
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
101 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, vào quá trình hỗ trợ học sinh khiếm thính học môn Toán và Tiếng Việt thông
Hà Nội, Việt Nam qua ngôn ngữ kí hiệu của giáo viên và phụ huynh. Kết quả này là cơ sở quan
trọng cho các nhà giáo dục tiếp tục đưa ra những chiến lược và hỗ trợ phù hợp
cho giáo viên, phụ huynh trong quá trình dạy học sinh khiếm thính thông qua
ngôn ngữ kí hiệu.
TỪ KHÓA: Học sinh khiếm thính, ngôn ngữ kí hiệu.
Nhận bài 06/10/2021 Nhận bài đã chỉnh sửa 20/10/2021 Duyệt đăng 05/11/2021.
1. Đặt vấn đề trợ HS khiếm thính học môn Toán và Tiếng Việt thông
Dạy học nhằm mục đích đem lại chất lượng giáo qua NNKH của GV và phụ huynh”.
dục (GD) tốt nhất, đáp ứng nhu cầu của con người
[1]. Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình 2. Nội dung nghiên cứu
lĩnh hội tri thức và mở rộng giao tiếp của mỗi cá nhân 2.1. Nội dung, phương pháp và công cụ nghiên cứu
học sinh (HS). Đối với HS khiếm thính (HSKT), ngôn a. Nội dung
ngữ kí hiệu (NNKH) được biết đến như là ngôn ngữ - Nghiên cứu mức độ sử dụng 6000 kí hiệu ngôn ngữ
thứ nhất - ngôn ngữ mẹ đẻ, là phương tiện ngôn ngữ và 150 video vào quá trình dạy Toán và Tiếng Việt của
phù hợp nhất để giúp cho giao tiếp và học tập hiệu GV.
quả khi các em gặp khó khăn thậm chí không thể tiếp - Nghiên cứu mức độ sử dụng 6000 kí hiệu ngôn
nhận và hiểu được ngôn ngữ lời nói thông qua cơ quan ngữ và 150 video vào quá trình hỗ trợ con học Toán và
tiếp nhận và xử lí âm thanh [2], [3]. Nhận thức được Tiếng Việt của phụ huynh tại gia đình.
rõ vấn đề này, các nhà GD bao gồm cả chuyên môn - Nghiên cứu việc xây dựng kế hoạch GD cá nhân cho
và hoạch định chính sách đã không ngừng nỗ lực tạo HS khiếm thính tại lớp học hoà nhập và quá trình dạy
ra các cơ hội để hỗ trợ cho HSKT được học tập tốt các tiết học Toán và Tiếng Việt của GV.
nhất thông qua NNKH. Bộ GD và Đào tạo (GD&ĐT) b. Phương pháp và công cụ nghiên cứu
đã ban hành thông tư số 17/2020/TT-BGDĐT Quy Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng và định
định chuẩn quốc gia về NNKH cho người khuyết tật tính bằng các công cụ dưới đây: Phiếu hỏi và phiếu
[4]. Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT đã tổ chức nhiều lớp phỏng vấn GV; Phiếu hỏi và phiếu phỏng vấn phụ
tập huấn cho giáo viên (GV) và phụ huynh HS khiếm huynh HS; Phiếu quan sát giờ dạy của GV.
thính các kiến thức và kĩ năng cũng như cung cấp c. Khách thể và địa bàn nghiên cứu
nguồn tài liệu bao gồm 6000 kí hiệu ngôn ngữ và 150 Nghiên cứu được thực hiện trên 46 GV dạy học
video dạy môn Toán và Tiếng Việt để dạy HS khiếm hoà nhập, 19 GV dạy học chuyên biệt, 47 phụ huynh
thính cấp Tiểu học thông qua NNKH ở cả môi trường HSKT học hoà nhập và 145 phụ huynh HSKT học
GD hoà nhập và GD chuyên biệt. Một nghiên cứu thực chuyên biệt tại 45 trường tiểu học hoà nhập, 01 trường
tế để tìm hiểu mức độ áp dụng kiến thức và sử dụng chuyên biệt và 02 Trung tâm HTGDHN thuộc 04 tỉnh
tài liệu NNKH được cung cấp trong các khóa tập huấn thành phố là Thái Nguyên, Yên Bái, Cao Bằng và
vào quá trình hỗ trợ HS khiếm thính học môn Toán và Thừa Thiên - Huế.
Tiếng Việt thông qua NNKH của GV và phụ huynh
đã được Trung tâm GD Đặc biệt quốc gia thực hiện từ 2.2. Kết quả nghiên cứu
tháng 02 năm 2021 nhằm “Xem xét mức độ áp dụng 2.2.1. Kết quả khảo sát trực tiếp giáo viên dạy hoà nhập
kiến thức và sử dung tài liệu NNKH được cung cấp Khảo sát trên 46 GV cho thấy, đa số GV (82,97%) đều
trong các khóa tập huấn vào quá trình dạy học và hỗ cho rằng, họ đang áp dụng những kiến thức về NNKH
92 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
- Lê Tuấn Đức, Lê Thị Tố Uyên
vào dạy học HSKT tương đối hiệu quả. Chỉ có 17,03% Đối với việc sử dụng các kí hiệu và băng hình hướng
GV là cho rằng, họ cảm thấy việc áp dụng những kiến dẫn dạy hai môn Toán và Tiếng Việt cho HSKT, hơn
thức tập huấn về NNKH vào dạy học HSKT là ít hiệu một nửa số GV (57,44%) cho rằng, họ đã sử dụng được
quả. Tuy nhiên, việc tiếp cận NNKH còn rất hạn chế tương đối nhiều. Tuy nhiên, vẫn còn một số lượng lớn
do GV ít có thời gian luyện tập, không sử dụng thường các GV cho rằng, họ chỉ sử dụng được ít các kí hiệu và
xuyên nên việc sử dụng kí hiệu trong quá trình dạy học băng hình (31,91%) và chưa sử dụng bao giờ (10,63%)
môn Toán và môn Tiếng Việt cho HS chưa được chuẩn (xem Bảng 2). Lí giải cho thực tế này là do nhiều trường
xác, thành thục. GV chủ yếu sử dụng chữ cái ngón tay điều kiện vật chất còn thiếu thốn, một trường chỉ có 01
và một số rất ít kí hiệu để giúp HS hiểu được yêu cầu, máy chiếu thậm chí có trường còn không có máy chiếu.
nội dung bài dạy (xem Bảng 1). Vì vậy, GV chỉ có thể sử dụng 01 tiết/tuần để dạy HS
học NNKH mặc dù biết HS rất hứng thú với các video
Bảng 1: Kết quả áp dụng những kiến thức về NNKH bài học.
Đối với các kiến thức, nội dung đã được tập huấn khác,
TT Nội dung Không Ít HQ Tương Rất nhìn chung đa số GV đều cho rằng, họ áp dụng được
HQ đối HQ HQ tương đối nhiều vào thực tế dạy HSKT. Những kiến
thức nội dung được GV vận dụng nhiều nhất là: “Phòng
Áp dụng những kiến
thức tập huấn về chống bạo lực cho HSKT” (100%), “Điều chỉnh vào
1 0,00 17,03 82,97 0,00
NNKH vào dạy học dạy học môn Tiếng Việt cho HSKT” (85,1%), “dạy viết
HSKT cho HSKT” (85,1%). Tuy nhiên, có một số nội dung,
kiến thức mà các GV cho rằng, họ áp dụng được ít như:
Bảng 2: Sử dụng kí hiệu và băng hình
TT Nội dung Chưa sử dụng Sử dụng ít Sử dụng tương đối nhiều Sử dụng rất nhiều
1 Sử dụng 6000 NNKH vào việc dạy HSKT. 10,63 31,91 57,44 0,00
Sử dụng những video bài giảng môn Tiếng
2 10,63 31,91 57,44 0,00
Việt cho HSKT.
Sử dụng những video bài giảng môn Toán
3 10,63 31,91 57,44 0,00
cho HSKT.
Bảng 3: Các kiến thức, nội dung đã được tập huấn
TT Nội dung Không AD AD ít AD tương đối nhiều AD rất nhiều
Áp dụng những kiến thức tập huấn về điều chỉnh vào dạy học môn
1 0,00 14,90 85,10 0,00
Tiếng Việt cho HSKT.
Áp dụng những kiến thức tập huấn về giải nghĩa từ và cung cấp kí
2 0,00 42,66 57,44 0,00
hiệu các từ mới trong bài đọc môn Tiếng Việt cho HSKT.
3 Áp dụng những kiến thức tập huấn về dạy viết cho HSKT. 0,00 14,90 85,10 0,00
Áp dụng những kiến thức tập huấn về điều chỉnh trong dạy học môn
4 0,00 29,79 70,21 0,00
Toán cho HSKT.
Áp dụng những kiến thức tập huấn về phương pháp dạy học môn
5 0,00 29,79 70,21 0,00
Toán cho HSKT.
Áp dụng các kiến thức tập huấn vào việc xây dựng KHGD cá nhân
6 0,00 29,79 70,21 0,00
cho HSKT.
7 Áp dụng các kiến thức tập huấn vào phòng chống bạo lực cho HSKT. 0,00 0,00 100,00 0,00
SỐ ĐẶC BIỆT, THÁNG 11/2021 93
- NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN
Bảng 4: Mức độ trao đổi, phối hợp với phụ huynh
TT Nội dung Chưa bao giờ Hiếm khi Tương đối thường xuyên Rất thường xuyên
1 Trao đổi thông tin về tình hình học tập của 0,00 0,00 72,34 27,66
HSKT với phụ huynh.
Bảng 5: Phân tích phiếu hỏi 47 phụ huynh HSKT
TT Nội dung Sử dụng nhiều Sử dụng ít Sử dụng rất ít Chưa sử dụng
1 Sử dụng tài liệu 6000 NNKH trong việc hỗ trợ 19,14 61,70 19,14 0,00
HSKT
Sử dụng tài liệu video bài giảng môn Tiếng Việt
2 40,42 40,42 0,00 19,14
trong việc hỗ trợ HSKT
Sử dụng tài liệu video bài giảng môn Toán trong
3 40,42 19,14 0,00 40,42
việc hỗ trợ HSKT
“Giải nghĩa từ và cung cấp kí hiệu các từ mới trong bài các video môn Tiếng Việt, có 40,42% phụ huynh trả
đọc môn Tiếng Việt cho HSKT”, “Phương pháp dạy lời sử dụng nhiều, 40,42% phụ huynh sử dụng ít, và
học môn Toán cho HSKT” (xem Bảng 3). 19,14% phụ huynh chưa hề sử dụng. Tương tự đối với
Đối với mức độ trao đổi, phối hợp với phụ huynh về các video môn Toán, có 40,42% phụ huynh trả lời sử
tình hình học tập của HSKT thì hầu hết GV (72,34%) dụng nhiều, 40,42% phụ huynh khác là chưa sử dụng
cho rằng họ liên lạc tương đối thường xuyên, đặc biệt bao giờ, và 19,14% phụ huynh còn lại sử dụng ít (xem
có đến 27,66% số GV trả lời rằng, họ liên lạc rất thường Bảng 5).
xuyên với phụ huynh để trao đổi tình hình học tập của Trên thực tế khảo sát, phụ huynh đa phần là người lao
HSKT (xem Bảng 4). động chân tay, đi làm cả ngày và buổi tối cũng không có
Phỏng vấn sâu các GV cho thấy, GV chủ yếu là sử nhiều thời gian để dạy con. Mặt khác, phụ huynh không
dụng thường xuyên những kí hiệu đơn giản trong cuộc có máy tính để sử dụng video hỗ trợ con học Toán và
sống hàng ngày. GV đã chủ động hướng dẫn lại NNKH Tiếng Việt bằng NNKH.
cho một số HS thính trong lớp để những HS này giao Như vậy, có thể thấy, việc sử dụng các tài liệu kí hiệu
tiếp và hỗ trợ cho HSKT. GV đã điều chỉnh, đơn giản ngôn ngữ và video hướng dẫn môn học của phụ huynh
hóa các mục tiêu, nội dung của bài học cho phù hợp còn rất nhiều hạn chế. Việc này có thể sẽ ảnh hưởng đến
với trình độ của HSKT. Nhiều HSKT đang học trình việc hỗ trợ HSKT học tập tại gia đình cũng như hiệu
độ lớp 3, 4 nhưng GV đã điều chỉnh đơn giản hóa và quả GD HSKT tại trường nói chung. Đối với nội dung
cho HSKT thực hiện những bài tập của Chương trình “Các kiến thức về GD giới tính và phòng chống bạo lực
lớp 1. HSKT thường được bố trí ngồi ở bàn đầu gần cho HSKT”, có 40,42% phụ huynh cho rằng họ đã áp
với cô giáo, xung quanh là một vài bạn HS khá nhằm dụng được rất nhiều, 19,14% phụ huynh áp dụng được
tạo vòng tay bạn bè để HSKT dễ dàng nhận được thêm tương đối, 19,14% phụ huynh áp dụng ít và 19,14% phụ
hỗ trợ. GV cho biết, thường xuyên trao đổi với phụ huynh còn lại không áp dụng được (xem Bảng 6).
huynh HSKT qua zalo, facebook để gửi kết quả học
tập cũng như những nội dung cần hỗ trợ, cách làm cho 2.2.3. Kết quả khảo sát trực tiếp giáo viên dạy chuyên biệt
phụ huynh. Khảo sát trên 19 GV cho thấy, đa số GV (63,15%)
cho rằng, họ đang áp dụng những kiến thức về NNKH
2.2.2. Kết quả khảo sát trực tiếp phụ huynh học sinh học hoà vào dạy học HSKT tương đối hiệu quả. Đặc biệt, có đến
nhập 36,85% GV cho rằng, họ đang áp dụng những kiến thức
Phân tích phiếu hỏi của 47 phụ huynh HSKT học về NNKH rất hiệu quả (xem Bảng 7).
hòa nhập cho thấy đối với “6000 NNKH trong việc hỗ Đối với việc sử dụng các kí hiệu do dự án cung cấp, đa
trợ HSKT”, có 19,14% số phụ huynh sử dụng nhiều, số GV cho rằng, họ sử dụng được rất nhiều (63,15%), số
có 61,7% số phụ huynh trả lời rằng, họ sử dụng ít và GV còn lại cho rằng, họ cũng sử dụng tương đối nhiều
19,14% phụ huynh còn lại sử dụng rất ít. Do lần đầu (36,85%). Đối với môn Tiếng Việt, các video bài giảng
tiếp cận và thời gian tập huấn ngắn nên phụ huynh chỉ được GV sử dụng rất nhiều (78,94%) chiếm tỉ lệ cao
nhớ và sử dụng được một số kí hiệu đơn giản. Đối với hơn số lượng GV sử dụng tương đối nhiều (21,06%).
94 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
- Lê Tuấn Đức, Lê Thị Tố Uyên
Bảng 6: Nội dung áp dụng các kiến thức về giới
TT Nội dung Không áp dụng Áp dụng ít Áp dụng tương đối nhiều Áp dụng rất nhiều
1 Áp dụng các kiến thức về GD giới 19,14 19,14 19,14 40,42
tính và phòng chống bạo lực cho
HSKT
Bảng 7: Khảo sát 19 GV
TT Nội dung Không hiệu quả Ít hiệu quả Tương đối hiệu quả Rất hiệu quả
1 Áp dụng những kiến thức tập huấn về NNKH vào 0,00 0,00 63,15 36,85
dạy học HSKT
Bảng 8: Việc sử dụng các kí hiệu vào bài giảng
TT Nội dung Chưa sử dụng Sử dụng ít Sử dụng tương đối nhiều Sử dụng rất nhiều
1 Sử dụng 6000 NNKH vào việc dạy HSKT 0,00 0,00 36,85 63,15
2 Sử dụng những video bài giảng môn Tiếng Việt 0,00 0,00 21,06 78,94
cho HSKT
3 Sử dụng những video bài giảng môn Toán cho 0,00 0,00 78,94 21,06
HSKT
Đối với môn Toán, xu hướng ngược lại với số lượng dạy viết cho HSKT (89,47%); Áp dụng những kiến
GV sử dụng rất nhiều là 21,06%, trong khi đó số lượng thức tập huấn về điều chỉnh vào dạy học môn Tiếng
GV sử dụng tương đối nhiều là 78,94%. Điều này cho Việt cho HSKT (89,47%). Có một số nội dung, kiến
thấy, môn Toán có những khó khăn, phức tạp hơn so với thức mà các GV cho rằng, họ áp dụng được ít như: Áp
môn Tiếng Việt khi áp dụng các phương pháp dạy theo dụng các kiến thức tập huấn vào phòng chống bạo lực
hướng dẫn của video bài giảng (xem Bảng 8). cho HSKT (21,05%); Áp dụng các kiến thức tập huấn
Đối với các kiến thức, nội dung đã được tập huấn vào việc xây dựng KHGD cá nhân cho HSKT (21,05%)
khác, nhìn chung đa số GV đều cho rằng họ áp dụng (xem Bảng 9).
được tương đối nhiều vào thực tế dạy HSKT. Chiếm Về sự trao đổi, phối hợp với phụ huynh về tình hình
tỉ lệ cao nhất trong những nội dung này là: Áp dụng học tập của HSKT thì phần lớn GV (63,15%) cho rằng
những kiến thức tập huấn về giải nghĩa từ và cung cấp liên lạc rất thường xuyên. Số lượng GV liên lạc tương
kí hiệu các từ mới trong bài đọc môn Tiếng Việt cho đối thường xuyên chiếm 36,84%. Không có GV nào trả
HSKT (100%); Áp dụng những kiến thức tập huấn về lời là chưa bao giờ hoặc hiếm khi liên lạc (xem Bảng
Bảng 9: Các nội dung, kiến thức khác
TT Nội dung Không áp dụng Áp dụng ít Áp dụng tương đối nhiều Áp dụng rất nhiều
1 Áp dụng những kiến thức tập huấn về điều chỉnh 0,00 0,00 89,47 10,53
vào dạy học môn Tiếng Việt cho HSKT.
2 Áp dụng những kiến thức tập huấn về giải nghĩa từ 0,00 0,00 100,0 0,00
và cung cấp kí hiệu các từ mới trong bài đọc môn
Tiếng Việt cho HSKT.
3 Áp dụng những kiến thức tập huấn về dạy viết 0,00 0,00 89,47 10,53
cho HSKT.
4 Áp dụng những kiến thức tập huấn về điều chỉnh 0,00 0,00 78,94 21,05
trong dạy học môn Toán cho HSKT.
SỐ ĐẶC BIỆT, THÁNG 11/2021 95
- NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN
TT Nội dung Không áp dụng Áp dụng ít Áp dụng tương đối nhiều Áp dụng rất nhiều
5 Áp dụng những kiến thức tập huấn về phương 0,00 0,00 78,94 21,05
pháp dạy học môn Toán cho HSKT.
6 Áp dụng các kiến thức tập huấn vào việc xây dựng 0,00 31,57 52,63 15,78
KHGD cá nhân cho HSKT.
7 Áp dụng các kiến thức tập huấn vào phòng chống 0,00 31,57 52,63 15,78
bạo lực cho HSKT.
10). ngôn ngữ và video hướng dẫn môn học của phụ huynh
Phỏng vấn sâu các GV cho thấy, nhìn chung các video còn rất nhiều hạn chế. Hầu hết phụ huynh sử dụng ít,
bài giảng hướng dẫn dạy học 02 môn Tiếng Việt và Toán một số phụ huynh chưa sử dụng bao giờ. Kết quả này
là đầy đủ, hình ảnh minh họa rõ ràng, sinh động, phù cho thấy thực trạng là phụ huynh chưa thực sự quan
hợp với HSKT, các tài liệu hướng dẫn cụ thể, dễ hiểu, tâm đến việc hỗ trợ HSKT học tập tại gia đình thông
nhờ đó mà GV được trang bị các kiến thức và nắm được qua NNKH.
các phương pháp mới GD HSKT, GV cũng áp dụng và Phỏng vấn sâu các phụ huynh cho thấy, họ khá tích
học được nhiều NNKH mới. Ngoài ra, nhà trường cũng cực trong việc liên hệ trao đổi với GV về cách hỗ trợ
tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, ban giám hiệu HSKT học tập cũng như giao tiếp với HSKT tại gia
thường xuyên trao đổi và cùng xây dựng kế hoạch thực đình. Nhiều phụ huynh HSKT mong muốn được tham
hiện với GV, phụ huynh HS. gia nhiều buổi tập huấn hơn nữa về các phương pháp
hỗ trợ và giao tiếp với HSKT bằng NNKH. Họ cũng
2.2.4. Kết quả khảo sát trực tiếp phụ huynh học sinh học học mong muốn có được các lớp dạy kĩ năng cho cả HSKT
chuyên biệt và phụ huynh cũng như có thêm nhiều cơ hội được học
Phân tích phiếu hỏi của 145 phụ huynh HSKT học tập, giao tiếp với GV để có thêm kiến thức dạy con tại
chuyên biệt cho thấy đối với 6000 kí hiệu ngôn ngữ nhà. Một số phụ huynh không có điều kiện về máy tính
lớp tập huấn cung cấp thì có 80,82% số phụ huynh cho và hệ thống mạng internet trong vùng không đảm bảo
rằng, họ sử dụng ít và 19,17% số phụ huynh trả lời rằng để có thể tải các băng hình sử dụng trong hỗ trợ con
họ sử dụng rất ít. Về các video bài giảng môn Tiếng khiếm thính của họ.
Việt có 58,21% phụ huynh trả lời là sử dụng ít, 28,76%
phụ huynh sử dụng rất ít, và 13,01% phụ huynh chưa 2.2.5. Kết quả quan sát lớp học
hề sử dụng. Tương tự đối với các video bài giảng môn Quan sát, dự giờ các tiết học hòa nhập cho thấy các
Toán do có 61,64% phụ huynh trả lời là sử dụng ít, hoạt động tổ chức thực tế trên lớp đã bước đầu thể hiện
20,54% phụ huynh sử dụng rất ít. 17,8% phụ huynh còn được sự quan tâm, điều chỉnh nội dung cho HSKT
lại là chưa sử dụng bao giờ (xem Bảng 11). thông qua NNKH đơn giản.
Như vậy, có thể thấy việc sử dụng các tài liệu kí hiệu GV đã cố gắng sử dụng hệ thống chữ cái ngón tay
Bảng 10: Trao đổi, phối hợp với phụ huynh
TT Nội dung Chưa bao giờ Hiếm khi Tương đối thường xuyên Rất thường xuyên
1 Trao đổi thông tin về tình hình học tập của 0,00 0,00 36,84 63,15
HSKT với phụ huynh.
Bảng 11: Phân tích phiếu hỏi của 145 phụ huynh
TT Nội dung Sử dụng nhiều Sử dụng ít Sử dụng rất ít Chưa sử dụng
1 Sử dụng tài liệu 6000 NNKH trong việc hỗ trợ HSKT. 0,00 80,82 19,17 0,00
2 Sử dụng tài liệu video bài giảng môn Tiếng Việt trong 0,00 58,21 28,76 13,01
việc hỗ trợ HSKT.
3 Sử dụng tài liệu video bài giảng môn Toán trong việc 0,00 61,64 20,54 17,8
hỗ trợ HSKT.
96 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
- Lê Tuấn Đức, Lê Thị Tố Uyên
trong giao tiếp với HSKT nhiều hơn sử dụng kí hiệu thường thực hiện theo hoạt động chung.
ngôn ngữ. Một số kí hiệu ngôn ngữ được sử dụng là Các GV dạy hòa nhập đã bước đầu biết cách xây
những kí hiệu dùng trong sinh hoạt hằng ngày. Việc sử dựng được KHGD cá nhân cả năm học cho HSKT. Tuy
dụng kí hiệu ngôn ngữ của GV dạy học hòa nhập còn nhiên, có nhiều GV chưa xác định được chính xác, cụ
nhiều hạn chế và chưa được “tự nhiên” như GV dạy thể các điểm mạnh và nhu cầu của HSKT mà chỉ dừng
chuyên biệt. lại ở những nhận xét chung chung nên thường là hạ
Trong các tiết học Tiếng Việt, khi giới thiệu bài mới, thấp yêu cầu của bài học. Vì vậy, phần mục tiêu học kì
trong khi các HS thính quan sát tranh và trả lời câu hỏi cho môn học, hoạt động GD, kĩ năng xã hội và các kế
bằng lời thì GV hỗ trợ HSKT bằng cách hỏi và gợi ý hoạch GD cá nhân được xây dựng thường không chính
bằng những kí hiệu đơn giản. Đối với phần luyện đọc, xác, hiệu quả, không mang những đặc thù riêng phù
GV yêu cầu HSKT đọc thầm một đoạn ngắn trong khi hợp với sự khác biệt về đặc điểm nhận thức, kĩ năng của
cả lớp đọc thầm toàn bộ bài. Để giải nghĩa các từ khó, từng HSKT. Các GV còn yếu về NNKH, và yếu trong
GV dùng tranh ảnh, chữ cái ngón tay và NNKH nhằm việc lập KHGD cá nhân cũng như thiết kế giáo án và
hỗ trợ cho HSKT hiểu. Phần củng cố, dặn dò GV nhắc tổ chức các hoạt động mang tính chất đặc thù để hỗ trợ
lại kiến thức bài học cho HSKT bằng NNKH đơn giản. HSKT thông qua NNKH.
Trong hoạt động khám phá, giới thiệu tranh ảnh, GV tổ
chức cho HSKT hoạt động cùng với nhóm và chia sẻ, 3. Kết luận và kiến nghị
giới thiệu tranh ảnh của mình với các bạn bằng NNKH. 3.1. Kết luận
GV tổ chức cho HSKT quan sát tranh và tham gia dự Đa số nội dung, kiến thức trong lớp tập huấn được
đoán nội dung tranh cùng với các bạn. Trong phần GV áp dụng tương đối nhiều vào quá trình dạy Toán
giải nghĩa từ ngữ, GV chia lớp theo nhóm và khuyến và Tiếng Việt cho HSKT. Tuy nhiên, hiệu quả chưa
khích HSKT cùng trao đổi với các bạn, đồng thời nhắc cao. Số lượng kí hiệu ngôn ngữ được sử dụng trong
nhở các bạn trong nhóm hỗ trợ, trao đổi, giải thích cho các tiết dạy Toán và Tiếng Việt cho HSKT tại các lớp
HSKT bằng NNKH đơn giản.
học hoà nhập còn hạn chế. Có sự chênh lệch và phân
Đối với môn Toán, GV thường thực hiện các tiết học
hoá trong sử dụng video bài giảng 2 môn Toán và Tiếng
như bình thường. Tuy nhiên, đối với các câu hỏi, GV có
Việt cho HSKT giữa GV dạy chuyên biệt và hoà nhập.
sử dụng NNKH đơn giản để yêu cầu HSKT thực hiện.
GV dạy chuyên biệt biết nhiều kí hiệu và sử dụng thành
Trong khi HSKT thực hiện phép tính trên bảng và làm
thạo hơn GV dạy hoà nhập trong quá trình dạy Toán và
nháp GV có hỗ trợ riêng bằng cách sử dụng ngôn ngữ
Tiếng Việt cho HSKT. GV dạy hoà nhập chưa xây dựng
tổng hợp để gợi ý và hướng dẫn. Tuy nhiên, các kí hiệu
KHGD cá nhân sát đối với từng đối tượng HSKT. Việc
mà GV sử dụng trên lớp chỉ là những kí hiệu đơn giản,
điều chỉnh bài học, thiết kế bài kiểm tra và đánh giá
thiên về các kí hiệu mệnh lệnh, hướng dẫn, chữ cái
kết quả học tập chưa phù hợp đối với từng đối tượng
ngón tay và kí hiệu chữ số. Những kí hiệu này chưa đáp
ứng được nhu cầu giao tiếp và học tập của HSKT. Hầu HSKT. Đa số phụ huynh HSKT chưa vận dụng được
hết các GV vẫn sử dụng tốc độ nói như bình thường mà thường xuyên các kiến thức, kĩ năng trong việc hỗ trợ
không biết HSKT đọc hiểu được hình miệng của GV và con học tập tại gia đình. Việc phối hợp với GV trên lớp
tiếp thu được ở mức độ nào. để nắm được tình hình học tập của con và hỗ trợ cho
Một số GV tổ chức các hoạt động của tiết học như con cũng chưa được thực hiện một cách thường xuyên.
một tiết học bình thường và không sử dụng kí hiệu hỗ
trợ. Những GV này sử dụng ngôn ngữ nói bình thường 3.2. Kiến nghị
và chỉ thể hiện được sự quan tâm hơn đối với HSKT - Điều chỉnh và cấu trúc hoá nguồn tài liệu để tạo điều
trong tiết học thông qua việc gọi các em trả lời, đến kiện cho GV và phụ huynh HS tiếp cận và sử dụng 6000
bên và hướng dẫn các em nhiều hơn. Còn với khía cạnh kí hiệu ngông ngữ và băng hình giảng dạy môn Toán và
chuyên môn thì không có nhiều hỗ trợ. Tiếng Việt dễ dàng hơn.
Tham khảo một số giáo án dạy HSKT của các GV - Cải thiện cơ sở vật chất, tăng cường bổ sung hệ
dạy hòa nhập cho thấy đa số GV mới chỉ ý thức được thống máy chiếu, bảng thông minh để hỗ trợ GV trong
việc điều chỉnh mục tiêu bài học cho HSKT, còn mục quá trình dạy HSKT thông qua NNKH.
tiêu đó đã thực sự phù hợp với HS hay chưa thì còn rất - Tổ chức thêm các lớp tập huấn với thời lượng dài
chung chung. Đặc biệt, trong giáo án, các hoạt động tổ hơn, tập trung hướng dẫn chuyên sâu rèn luyện cách sử
chức dạy học được soạn chưa thể hiện rõ nét được các dụng NNKH cho GV và phụ huynh HS.
nội dung hỗ trợ có hiệu quả cho HSKT. Thường thì các - Tăng cường sự trao đổi giữa phụ huynh và GV trong
GV chỉ ghi thêm một vài hoạt động được đơn giản hóa, chia sẻ kiến thức cũng như rèn luyện NNKH để phụ
rút gọn hơn đối với HSKT trong khi các bạn HS bình huynh HSKT hỗ trợ con học tập tốt hơn tại nhà.
SỐ ĐẶC BIỆT, THÁNG 11/2021 97
- NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN
Tài liệu tham khảo
[1] Luckner, J. L., & Muir, S., (2001), Successful students [3] Komesaroff, L., (2008), Disabiling Pedagogy: Power,
who are deaf in general education settings. American Politics, and Deaf Education, Gallaudet University
Annals of the Deaf, 435-446. Press.
[2] Marschark, M., Lang, H. G., & Albertini, J. A., (2001), [4] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2020), Thông tư số: 17/2020/
Educating deaf students: From research to practice, TT-BGDĐT Chuẩn Quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu cho
Oxford University Press. người khuyết tật.
SUPPORTING DEAF STUDENTS IN LEARNING MATHEMATICS
AND VIETNAMESE BY USING SIGN LANGUAGE AT PRIMARY SCHOOLS
Le Tuan Duc1, Le Thi To Uyen2
ABSTRACT: The article aims to present the main findings of the study
1
Email: duclt@vnies.edu.vn including examining the level of knowledge application and the use of
2
Email: uyenltt@vnies.edu.vn
sign language materials (6000 language signs and 150 videos) provided
The Vietnam National Institute of Educational Sciences
in the training courses to support deaf students in learning Math and
101 Tran Hung Dao, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam
Vietnamese by teachers and parents. This result can be an important
basis for educators in providing appropriate strategies and support for
teachers and parents in the process of teaching deaf students through
sign language.
KEYWORDS: Deaf students, sign language.
98 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
nguon tai.lieu . vn