Xem mẫu
- HỒ QUÝ LY DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
HOÀNG KIM NGỌC
Tóm tắt
Hồ Quý Ly trong tiến trình lịch sử dân tộc là một nhân vật đã và đang gây ra nhiều đánh giá trái
chiều. Dưới góc nhìn văn hóa, Hồ Quý Ly đã có nhiều đóng góp tích cực góp phần xây dựng nền văn
hóa dân tộc và cải cách, canh tân đất nước. Di sản mà ông để lại cho hậu thế, ngoài hai công trình kiến
trúc độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam như thành Nhà Hồ, đàn tế Nam Giao Tây Đô, còn
là những tư tưởng văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn, vượt khỏi biên giới quốc gia và thời đại lúc bấy giờ.
Từ khóa: Hồ Quý Ly, góc nhìn văn hóa, thành Nhà Hồ.
Abstract
In the national history process, Ho Quy Ly is a person who has been causing a lot of mixed reviews.
From a cultural perspective, Ho Quy Ly has contributed actively to the development of national culture
and the reform of the country. The legacies that he left for the posterity, in addition to the two unique
architectural constructions that bearing cultural identity of Vietnam such as the Ho Dynasty citadel,
Nam Giao Tay Do sacrifice estrade, also the influential cultural ideas, transcended times and national
boundaries.
Keywords: Ho Quy Ly, cultural perspective, the Ho Dynasty citadel
1. Cốt lõi văn hóa trong tư tưởng chính trị
M
ỗi triều đại đi qua đều để lại dấu
ấn của mình trong tiến trình lịch của Hồ Quý Ly
sử. Dẫu tồn tại trong thời gian Hồ Quý Ly có tổ tiên ở Trung Quốc nhưng
ngắn ngủi, 7 năm (1400 – 1407), nhưng triều ông sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, vì thế ông
chịu ảnh hưởng tư tưởng và văn hóa Việt Nam.
đại nhà Hồ cũng đã để lại cho lịch sử dân tộc
Quý Ly tự là Lý Nguyên, có tổ xa là Hồ Hưng
nhiều dấu ấn đậm nét về tư tưởng đổi mới,
Dật, vốn người Chiết Giang, Trung Quốc, đến
canh tân đất nước và những công trình xây đời thứ 12 có Hồ Liêm dời đến ở hương Đại
dựng đạt tới đỉnh cao về kỹ thuật kiến trúc. Lại (nay thuộc Hà Trung – Thanh Hóa), làm con
Gắn liền với những dấu ấn lịch sử, văn hóa đó nuôi quan Tuyên úy Lê Huấn. Vì thế dưới triều
là Hồ Quý Ly, một trong những nhân vật mà đại nhà Trần, ông còn có tên khác là Lê Quý
đến nay, đang để lại cho hậu thế nhiều vấn đề Ly. Năm 1400, ông lên ngôi Hoàng đế lấy lại
để bàn luận. Dưới góc nhìn văn hóa, có thể họ Hồ, hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên nước là
Đại Ngu (theo nghĩa Hán là niềm an vui lớn,
khẳng định một điều rằng, Hồ Quý Ly có ảnh
hàm ý mong muốn hòa bình). Việc Hồ Quý Ly
hưởng và đóng góp lớn về mặt tư tưởng và
mong muốn xây dựng một đất nước cường
văn hóa lúc đương thời cũng như trong tiến thịnh, thái bình như thời Nghiêu Thuấn thể
trình lịch sử dân tộc, điều này được thể hiện rõ hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ của ông. Mặc
nét ở 5 khía cạnh sau đây. dù tổ tiên của Hồ Quý Ly ở bên ngoài đất Việt,
ĂN HÓ A
- VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
liêu, xa rời thực tiễn “không sát với sự việc”, “chỉ
nhưng tư tưởng của ông vẫn là “giang sơn đã thạo cóp nhặt” của họ. Nét độc đáo ở đây là Hồ
chia, phong tục cũng khác”. Ý thức dân tộc của Quý Ly không bị những tư tưởng chính thống chi
Hồ Quý Ly được thể hiện rõ ràng trong hàng loạt phối mà tiếp thu có chọn lọc những gì phù hợp
dẫn chứng lịch sử. Đại Việt sử ký toàn thư với thực tế Đại Việt. Tác phẩm Minhđạo thể hiện
chép:“Năm 1403, nhà Minh sai sứ sang đòi cắt Hồ Quý Ly không thuần tuý chỉ biết văn chương,
trả lại đất Mộc Châu ở Lạng Sơn... Quý Ly sai chữ nghĩa mà còn am hiểu thời cuộc, ông là một
Hành khiển Hoàng Hối Khanh làm Cát địa sứ. nhà tư tưởng có tầm nhìn vượt thời đại. Chính
Hối khanh đem các thôn như Cổ Lâu, gồm cả vì vậy, đương thời, vua Trần Phế Đế, khi cử ông
thảy 59 thôn trả lại cho nhà Minh. Quý Ly trách làm Bình chương sự, đã ban cho Hồ Quý Ly một
mắng Hối Khanh tàn tệ vì trả lại đất nhiều quá. thanh gươm, một lá cờ đề 8 chữ: “Văn võ toàn
Phàm những thổ quan do nhà Minh đặt, Quý Ly tài, quân thần đồng đức”(4, tr.173). Sử cũ còn
đều bí mật sai thổ nhân ở đó đánh thuốc độc ghi lại sự việc: Mùa thu năm 1402, khi Hán
giết đi”(4, tr.210). Ý thức chủ quyền dân tộc của Thương đổi sổ An phủ sứ (lộ Thanh Hoa), Cảnh
Hồ Quý Ly cũng được thể hiện trong các cuộc Chân dâng thư nói xin theo việc cũ của nhà
bình định vùng đất phương Nam lúc bấy giờ, khi Hán, mộ người nộp thóc chứa vào kho để việc
mà quân Chiêm Thành nhiều lần đem quân phòng bị biên cương được đầy đủ. Những người
đánh phá sâu vào bờ cõi Đại Việt nộp thóc thì hoặc là được ban tước cho, hoặc
Hồ Quý Ly có một ý thức và trách nhiệm rất được miễn tội tuỳ theo mức độ. Quý Ly
cao đối với sự tồn vong của dân tộc. Chúng ta phê:“Biết được mấy chữ mà dám nói việc Hán,
không thể nghi ngờ về ý chí kháng chiến của Đường, thực là thằng ngọng hay nói, chỉ chuốc
ông trước cuộc xâm lược của nhà Minh. Sử cũ lấy tiếng cười mà thôi!” (4, tr.203). Lời phê ấy
còn ghi lại câu nói của Tướng quốc Hồ Nguyên chứng tỏ Hồ Quý Ly thấu hiểu tình hình thực tế
Trừng: “Thần không sợ đánh mà chỉ sợ lòng dân của đất nước, mọi tư tưởng phải phù hợp với
không theo”. Vì câu nói này mà Hồ Nguyên thực tế, không thể áp dụng một cách máy móc
Trừng được Quý Ly “ban cho cái hộp trầu bằng tiền lệ của lịch sử vào hiện tại được. Chính vì
vàng” (4, tr.112). Đây là bằng chứng sinh động vậy, những cải cách của Hồ Quý Ly trong thi cử,
về sự phân tích, đánh giá tình hình và thực tuyển chọn quan lại bao giờ cũng xuất phát từ
trạng xã hội, cũng như nhận thức trách nhiệm thực tiễn Việt Nam. Định hướng của ông về một
của triều đại nhà Hồ đối với sự tồn vong của nền giáo dục của đất nước là: “tỏ rõ giáo hoá,
dân tộc. giữ phong tục”. Những quy định cụ thể của ông
2. Hồ Quý Ly đối với nền văn hóa dân tộc nhằm nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài cho
Quá trình tham gia nhiếp chính, Hồ Quý Ly đất nước, rất đáng ghi nhận. Nhà sử học Ngô Sĩ
để lại nhiều dấu ấn văn hóa mang đậm màu Liên cũng phải công nhận: “Bấy giờ có chiếu lệnh
sắc dân tộc. Trong những năm nắm thực quyền này, còn gì tốt đẹp hơn thế nữa” (4, tr.193). Hồ
Quý Ly cũng là vị vua đầu tiên quyết định dùng
dưới triều đại nhà Trần, Hồ Quý Ly đã thực hiện
chữ Nôm để chấn hưng nền văn hoá của dân
nhiều biện pháp để xây dựng và phát triển
tộc, đưa toán vào trong các kỳ thi, cho dịch kinh
văn hoá. Hồ Quý Ly đã soạn sách Minh đạo lục
thư, kinh thi.
gồm 14 thiên dâng lên vua Trần, trong đó ông
nghiên cứu, tiếp thu có phê phán những tinh Với ý thức bảo tồn và phát triển nền văn hóa
Việt, xây dựng bản sắc văn hóa riêng cho triều
tuý của văn minh Trung Hoa nhằm vận dụng
đại của mình, Hồ Quý Ly coi trọng chữ Nôm. Ông
vào điều kiện thực tiễn của nước ta lúc bấy giờ.
thường sử dụng chữ Nôm trong các tác phẩm
Hồ Quý Ly, một mặt thừa nhận đóng góp của
của mình. “Quốc âm thi nghĩa” là cuốn sách
các nhà tư tưởng, các nhà văn hoá tiền bối;
bằng chữ Nôm, được ông biên soạn
mặt khác, ông nói thẳng vào cái sai từ sự quan
ĂN HÓ A
- VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
và viết bài tựa với nội dung chủ yếu là dịch và trí kiến trúc. Các làng cổ cùng toàn bộ cảnh
giải nghĩa Kinh Thi. Bài tựa của Hồ Quý Ly quan sông hồ, núi non mang đậm chất phong
trong Quốc âm thi nghĩa, theo Đại Việt sử ký thủy điển hình còn được lưu giữ tương đối
toàn thư là không tuân thủ khuôn phép cũ mà nguyên vẹn, phản ánh rõ nét về một thời kỳ
“phần nhiều theo ý mình” (4, tr.190). Ông còn lịch sử, văn hóa, văn minh Việt Nam với những
dịch một số tác phẩm và sáng tác thơ bằng đặc trưng mang tầm khu vực và thế giới. Giá
chữ Nôm. Rõ ràng việc coi trọng chữ Nôm (một trị văn hóa nổi bật của kinh thành Tây Đô biểu
sáng tạo lớn của ông cha ta dựa trên cơ sở chữ hiện trên hai tiêu chí như sau:
Hán), đưa chữ Nôm ứng dụng vào thực tiễn Tiêu chí 1: Thành Nhà Hồ phản ánh sự giao
cuộc sống đã khẳng định ý thức dân tộc và lưu văn hóa (cụ thể là chịu ảnh hưởng của Nho
quyết tâm xây dựng nền văn hóa mang đậm giáo Trung Hoa), biểu hiện vương quyền tập
bản sắc dân tộc của Hồ Quý Ly. Đây cũng là trung ở thời kỳ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV.
tiền đề cho những tác phẩm văn học sáng tác Thành là kết quả của những bước phát triển mới
bằng chữ Nôm ra đời và phát triển rực rỡ gắn trong phong cách kiến trúc trên phương diện kỹ
liền với tên tuổi của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, thuật và quy hoạch đô thị: tận dụng triệt để điều
Hồ Xuân Hương... sau này. kiện thiên nhiên xung quanh; đưa thêm vào các
3. Dấu ấn của Hồ Quý Ly trong những công công trình và cảnh quan đô thị những yếu tố
trình kiến trúc riêng biệt của Việt Nam và Đông Nam Á.
Di sản văn hóa mà nhà Hồ để lại cho hậu Tiêu chí 2: Thành Nhà Hồ là ví dụ nổi bật về
thế, cho đến nay đã được nhân loại công nhận một quần thể kiến trúc giữa một cảnh quan
là có giá trị trường tồn. Đó là những công trình thiên nhiên, minh chứng cho sự phát triển nở rộ
kiến trúc độc đáo mang đậm sắc màu văn hóa của Nho giáo thực hành cuối thế kỷ XIV của Việt
dân tộc. Hai công trình thể hiện rõ nét nhất tinh Nam. Đây là một thời kỳ mà tư tưởng này đã
hoa văn hóa Việt thời bấy giờ là kinh thành Tây lan rộng khắp Đông Á và trở thành một triết lý
Đô (thành Nhà Hồ ngày nay) và đàn tế Nam có tầm ảnh hưởng lớn đối với việc cai trị của các
Giao. Hồ Quý Ly không phải là tác giả của hai quốc gia trong khu vực. Việc sử dụng những khối
công trình này, song không thể nói ông không đá lớn chứng tỏ sức mạnh tổ chức của một nhà
có vai trò gì trong việc xây dựng chúng. Trên nước tân Nho giáo, cho thấy sự giao lưu về kỹ
thực tế, khó chứng minh được công lao của thuật xây dựng trong khu vực Đông Nam Á, và sự
ông đến đâu, điều có thể khẳng định ở đây là thay đổi hướng trục chính làm nên điểm khác
thành Tây Đô và đàn tế Nam Giao đã thể hiện biệt về thiết kế của thành Nhà Hồ so với chuẩn
tư tưởng chiến lược của Hồ Quý Ly. mực Trung Hoa (7, tr.73).
Thành Tây Đô hay còn gọi là thành Nhà Hồ là Ngoài việc xây dựng thành Tây Đô, để
trung tâm kinh thành của Việt Nam những năm khẳng định tính chính thống của vương triều
cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XV. Từ thế kỷ XVI và uy quyền của Hoàng đế, đồng thời tỏ rõ ý
đến thế kỷ XVIII, thành Tây Đô trở thành trung thức tự cường, tự tôn văn hóa dân tộc, Hồ Quý
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của khu vực Bắc Ly đã cho lập đàn tế Nam Giao và tổ chức lễ tế
Trung bộ Việt Nam. Giá trị nổi bật toàn cầu của giao hàng năm. Đàn tế Nam Giao Tây Đô được
khu di sản bao gồm tòa thành đá với tường vương triều Hồ xây dựng và hoàn thành năm
thành, cổng thành, đường giao thông nội ngoại 1402, nằm trong lòng tay ngai của dãy Đốn Sơn
thành được xây dựng bằng kỹ thuật đá lớn. Các thuộc động An Tôn, phủ Thanh Hóa lúc bấy
tầng văn hóa nối tiếp nhau trong lòng đất, lưu giờ (tức huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa ngày
giữ các dấu tích cung điện, đền đài, miếu mạo, nay), có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử, kiến trúc.
đường xá và nghệ thuật trang Cấu trúc đàn tế Nam Giao Tây Đô vừa mang đặc
ĂN HÓ A
- VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
trung và đại). Cứ 3 năm tổ chức một đại lễ, hai
điểm chung của các đàn tế Nam Giao phương năm tổ chức một trung lễ, tiểu lễ được tổ chức
Đông, vừa mang đặc điểm riêng của Việt Nam. hằng năm. Trong đại lễ, nhà vua ngồi xe thái
Điểm khác biệt đó là: phần trung tâm và cao bình, phía trước là 40 hình người bằng gỗ mặc
nhất của đàn tế không phải ở chính tâm của áo vóc cầm cờ. Có năm, nhà vua đi thuyền nhỏ
đàn mà dựa vào sườn núi, mặc dù vòng ngoài ở hồ Chu Tước. Thuyền được kéo bởi dây thừng
của nó khá giống với vòng ngoài của đàn Nam làm bằng gấm vóc. Trong dịp trung lễ, nhà vua
Giao ở Bắc Kinh, đời nhà Nguyên - Trung Quốc. ngồi trên ngai trạm trổ bách cầm. Vào dịp tiểu
Đặc biệt, đàn Nam Giao Tây Đô có trục linh đạo lễ, thiên tử chỉ ngồi ngai nhỏ. Như vậy, về khía
quay theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Trung cạnh văn hóa vật thể cũng như văn hóa phi vật
tâm nền đàn dịch hẳn về phía Tây Bắc, lớp thể, đàn tế Nam Giao (Tây Đô) có những điểm
tường đàn trong cùng có góc chạy vát chéo. Vị tương đồng và khác biệt với các đàn tế khác ở
trí xây dựng và cách thức quy hoạch các công Việt Nam và các quốc gia phương Đông trong
trình theo lối cao dần lên và dựa vào núi, cho cùng thời đại và trong lịch sử. Điều đó chứng
thấy công trình có sự gần gũi với di sản văn tỏ nhà Hồ đã sớm biết kế thừa, chọn lọc tinh
hóa Vat Phu (Lào), nơi đây nhân dân luôn tin hoa của các nước trong khu vực, đồng thời xây
rằng có một ngọn “núi thiêng”, trong đó thần dựng bản sắc văn hóa riêng cho đất nước mình.
linh ngự trị và cai quản. Quan niệm này phổ Trở lại với Hồ Quý Ly, sự gắn bó của ông với
biến trong các cộng đồng cư dân Đông Nam những công trình kiến trúc cần được hiểu một
Á. Trong bối cảnh đó, cấu trúc đàn tế Nam cách sâu xa hơn: Tư tưởng văn hóa của một
Giao Tây Đô thực sự độc đáo, hiếm có khi so thời đại được kết tinh trong những công trình
sánh với các đàn tế ở Việt Nam nói riêng cũng này. Tư tưởng đó vừa kế thừa truyền thống, vừa
như ở các quốc gia phương Đông nói chung. cách tân truyền thống. Để hình thành tư tưởng
Về khía cạnh văn hóa phi vật thể, để phục vụ đó, không thể một mình Hồ Quý Ly, song cần
cho lễ tế Nam Giao, nhà Hồ cho tập Nhã Nhạc, khẳng định vai trò khởi xướng của ông là quan
lấy con các quan văn làm Kinh Vĩ Lang, con các trọng. Cốt lõi văn hóa trong tư tưởng chính trị
quan võ làm Chỉnh Đốn Lang, cho học các điệu của ông, như trên đã phân tích là tinh thần
múa văn và võ. Nhã Nhạc trở thành nghi thức dân tộc. Cốt lõi ấy cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
văn hóa, văn nghệ cung đình và là một trong quan niệm của ông trong quá trình xây dựng
những nghi thức không thể thiếu trong các kỳ nền văn hóa nước Đại Ngu: ông muốn tạo nên
đại lễ, quốc lễ và được lưu truyền rộng rãi những nét riêng văn hóa cho triều đại mình.
trong dân gian. Nhã Nhạc vừa mang tính bình Thành Tây Đô và đàn tế Nam Giao Tây Đô, xét
dân, đại chúng lại vừa hàm chứa tính bác học trên phương diện tư tưởng văn hóa, quả đã
sâu xa. Sau này Nhã Nhạc được các vua triều thể hiện được bản lĩnh Hồ Quý Ly.
Nguyễn rất ưa chuộng và được bổ sung, phát 4. Đánh giá chung về Hồ Quý Ly
triển lên một tầm cao mới. Thông qua lễ tế
Những tư tưởng và cải cách của Hồ Quý Ly
Nam Giao, nhà Hồ cho đặt lại thể thức văn hóa
có tầm ảnh hưởng lớn, đã vượt qua biên giới
tế lễ, phẩm phục của quan lại và dân chúng:
thời đại lúc bấy giờ. Các triều đại sau này, trên
quan nhất phẩm mặc áo màu tía; quan nhị
phẩm mặc áo màu hồng; quan tam phẩm mặc cơ sở tư tưởng và những cách tân của ông, đã ít
áo màu hồng điều; quan tứ phẩm mặc áo màu nhiều học tập, áp dụng vào thực tiễn lịch sử và
lục; quan ngũ phẩm, lục phẩm, thất phẩm mặc đã thu được những thành công đáng kể. Nhà
áo màu biếc; quan bát phẩm và cửu phẩm mặc Lê (sau cuộc kháng chiến chống quân Minh
áo màu xanh; dân thường và nô tỳ dùng màu thắng lợi), từ những tiền đề cải cách của nhà
trắng. Lệ cũ trước đây theo bên Tàu, đặt ra 2 Hồ, đã xây dựng được một chính thể quân chủ
bậc lễ nghi, nhà Hồ cho làm 3 bậc lễ nghi (tiểu,
ĂN HÓ A
- VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
tập quyền trọng Nho, tạo nên một giai đoạn Tài liệu tham khảo
phồn thịnh mới của Đại Việt ở khu vực Đông Á 1. Phạm Văn Chấy - Trịnh Thị Hạnh (2014), Hồ
và Đông Nam Á. Quý Ly - Hoàng đế cách tân, Nxb. Đại học Quốc Gia
Nguyễn Trãi, danh nhân văn hoá thế giới, Hà Nội.
người đã từng đỗ Thái học sinh tại kinh thành
2. Phạm Cúc (1992), Hồ Quý Ly - nhà cải cách
Tây Đô khoa Nhâm Thìn (1400), sau mười năm
giáo dục tiến bộ, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5
cùng Lê Lợi nếm mật, nằm gai, đã đánh bại nhà
– 1992, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử
Minh. Trong niềm tin chiến thắng ấy, một lần
học, Hà Nội.
đi qua cửa biển Thần Phù (Nga Sơn), ông nhớ
đến bậc tiền nhân và đã có những vần thơ ca 3. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Hồ Quý Ly (tiểu
ngợi Hồ Quý Ly dưới góc độ là một anh hùng: thuyết lịch sử), Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật 4. Ngô Sỹ Liên và các sử gia, Đại Việt sử ký Toàn
Anh hùng di hận kỷ thiên niên”. thư, Nxb. KHXH, Hà Nội 1973.
(Chuyện họa phúc có thời có vận 5. Lâm Bá Nam (1992), Hồ Quý Ly và ý thức dân
tộc, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 – 1992, Viện
Anh hùng để hận mãi ngàn năm).
Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học xuất bản,
Khát vọng lớn nhất của Hồ Quý Ly là canh
Hà Nội.
tân để đất nước cường thịnh và có sức mạnh
chống quân xâm lược. Tiếc thay khát vọng của 6. Văn Sơn, Nguyễn Duy Sĩ (1992), Hồ Quý Ly và
ông đã không thành hiện thực. Điều đó được canh tân đất nước, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số
sử gia phong kiến cũng như giới sử học hiện 5 – 1992, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử
đại đã và đang phân tích, đánh giá. Không học xuất bản, Hà Nội.
phải ngẫu nhiên mà tên tuổi Hồ Quý Ly được 7. Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ
ghi vào Bách khoa từ điển của nước ngoài như (2011), Thành Nhà Hồ - Di sản thế giới, tập 1: Giá trị
một nhà cải cách văn hóa lớn. nổi bật toàn cầu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tóm lại, Hồ Quý Ly trong thời gian trị vì, 8. Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ
ông đã để lại cho hậu thế nhiều dấu ấn văn (2011), Thành Nhà Hồ Thanh Hóa (Hồ Citadel),
hóa có giá trị. Dẫu lịch sử dân tộc vẫn còn Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
đang bàn luận và có nhiều ý kiến trái chiều về
9. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1971),
triều đại này nhưng xét một cách công bằng
thì trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của mình, Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb KHXH, Hà Nội.
nhà Hồ đã để lại nhiều thành tựu và bài học
Ngày nhận bài: 20 - 9 - 2016
quan trọng cho các triều đại và thế hệ lãnh đạo
sau. Từ góc nhìn văn hóa, có thể khẳng định, Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 3 - 2017
triều đại nhà Hồ đã để lại những thành tựu Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017
huy hoàng. Những thành tựu này ít nhiều đều
liên quan tới tên tuổi Hồ Quý Ly, người xứng
đáng được xem như một anh hùng canh tân
văn hóa. Và khi nào thành Nhà Hồ - di sản văn
hóa thế giới của Việt Nam - còn được biết đến
thì khi đó, người ta không thể không nhớ tới
nhân vật Hồ Quý Ly.
H.K.N
(PGS. TS., Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Quốc tế,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội)
ĂN HÓ A
- VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
ĂN HÓ A
nguon tai.lieu . vn